✨Chiến tranh Liên minh thứ Bảy

Chiến tranh Liên minh thứ Bảy

Chiến tranh Liên minh thứ Bảy (), hay Triều đại Một trăm ngày ( ) là Liên minh cuối cùng trong loạt bảy Liên minh giữa một số cường quốc châu Âu, chống lại hoàng đế Napoléon Bonaparte và đế quốc Pháp. Liên minh thứ Bảy được gấp rút thành lập – sau khi Napoléon trốn khỏi đảo Elba trở về Pháp – và gồm vương quốc Anh, Nga, Áo, Phổ, Thụy Điển, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Liên bang Đức (Deutscher Bund), Hannover, quân nổi dậy Chouan và Breton (Pháp).

Bối cảnh lịch sử

Sau khi bị Liên minh thứ sáu đánh bại và chiếm Paris vào đầu năm 1814, hoàng đế Napoléon Bonaparte đã buộc phải thoái vị và bị đi đày ở đảo Elba (Địa Trung Hải). Ngày 20 tháng 4 năm 1814, Napoléon từ giã các thuộc hạ tại Fontainebleau, tới Saint-Raphaël lên tàu và tới cảng Portoferraio (đảo Elba) ngày 3 tháng 5 năm 1814. Tuy nhiên Napoléon không chịu an phận, vẫn mưu tìm dịp trở về Pháp nắm lại quyền hành.

Ngày 26 tháng 2 năm 1815, lợi dụng lúc vắng các tàu Anh–Pháp canh gác, Napoléon cùng các tùy tùng đã trốn khỏi đảo Elba. Ngày 1 tháng 3 năm 1815, lúc 5 giờ sáng Napoléon cùng khoảng 600 tùy tùng đặt chân lên Golfe-Juan (Pháp), tới 23 giờ đêm, Napoléon cùng đoàn tùy tùng đi bộ về hướng Paris. Ngày 6 tháng 3 năm 1815, Napoléon rời Gap đi Grenoble, khi tới ngoài thành này thì gặp Trung đoàn 5 Bộ Binh, được cử đi để bắt Napoléon, nhưng Napoléon đã thuyết phục được Trung đoàn trưởng cùng quân sĩ theo phe mình. Tới ngày 7 tháng 3 năm 1815, Napoléon lại thuyết phục được Trung đoàn 7 Bộ Binh cũng theo mình. Khi tiến vào Lyon lúc 20 giờ tối, thì Napoléon đã có trong tay 8.000 quân cùng 30 súng đại bác. Tới ngày 14 tháng 3 năm 1815, khi Napoléon ngủ lại Châlons-en-Champage thì thống chế Michel Ney cũng đem 6.000 quân theo. Cứ thế, Napoléon vừa tiến về Paris vừa thu phục các đội quân Pháp theo mình.

Ngày 19 tháng 3 năm 1815, vua Louis XVIII phải rời điện Tuileries, chạy về hướng Beauvais. Ngày 20 tháng 3 năm 1815, lúc 20 giờ, Napoléon tiến chiếm điện Tuileries. Cùng ngày, quân bảo hoàng Vendée nổi dậy chống Napoléon.

Thời kỳ này trong lịch sử Pháp được gọi là thời kỳ Một trăm ngày (Les Cent Jours) tính từ ngày 20 tháng 3 năm 1815 – khi Napoléon về tới Paris chiếm lại quyền hành – tới ngày 8 tháng 7 năm 1815, ngày vua Louis XVIII trở lại làm vua Pháp (thực ra là 111 ngày). (Câu Les Cent Jours là câu do viên thị trưởng thành phố Paris – bá tước Chabrol – dùng trong bài diễn văn chào mừng vua Louis XVIII).

Phản ứng của phe Liên minh

Lúc đó các cường quốc Liên minh thứ sáu – sau khi thắng Pháp – đang họp Hội nghị Wien (từ 1 tháng 10 năm 1814 tới 9 tháng 6 năm 1815) để hoạch định lại biên giới các nước đã bị Pháp xâm chiếm trước đây. Ngày 13 tháng 3 năm 1815 – bảy ngày trước khi Napoléon về tới Paris – các cường quốc này tuyên bố đặt Napoléon ngoài vòng pháp luật. Bốn ngày sau – ngày 17 tháng 3 năm 1815 – các vương quốc Anh, Nga, Áo, Phổ huy động mỗi nước 150.000 quân, nhằm đánh bại Napoléon lần chót. Ngày 25 tháng 3 năm 1815, các nước Anh, Nga, Áo, Phổ ký một Hiệp ước ở Wien, tái xác định lập trường kiên quyết không giảng hòa với Napoléon. Ngày 27 tháng 5 năm 1815, các vua Nga, Áo, Phổ rời Wien, cầm quân chống Pháp.

Chiến trường Napoli

Khi Napoléon còn đang trên đường trở lại Paris, thì ngày 15 tháng 3 năm 1815, thống chế Joachim Murat (em rể của Napoléon) đang làm vua vương quốc Napoli, tuyên chiến với quân Áo đóng tại Ý. Ngày 3 tháng 4 năm 1815, quân hai bên bắt đầu giao tranh với nhau. Quân Napoli thắng trận đầu, rồi thua liên tiếp 12 trận sau. Tới ngày 20 tháng 5 năm 1815, Murat phải xin ký Hòa ước Casalanza với Áo và Anh. Liên minh đưa Ferdinando I trở lại làm vua Napoli.

Chiến trường Bỉ và Pháp

Sau khi chiếm lại quyền hành từ vua Louis XVIII, Napoléon nỗ lực phát triển quân đội. Ông ta lập được 8 quân đoàn gồm khoảng 200.000 binh sĩ với đoàn Vệ quốc quân khoảng 180.000, chia ra thành 3.130 tiểu đoàn. Napoléon thấy cần phải tấn công quân Liên minh trước, để đẩy quân Anh ra biển và đánh tan quân Phổ.

Napoléon chia quân ra 3 mũi tiến tới biên giới Pháp–Bỉ: cánh trái dưới quyền chỉ huy của thống chế Michel Ney, cánh phải do thống chế Grouchy chỉ huy, Napoléon chỉ huy đạo quân trừ bị ở giữa. Cả ba mũi giữ khoảng cách gần nhau để dễ tiếp ứng. Quân Pháp vượt biên giới ở Thuin, gần Charleroi (Bỉ).

Quân Liên minh của tướng Arthur Wellesley có 93.000, đại bản doanh đóng tại Bruxelles (Bỉ), quân Phổ của thống chế Blücher có 116.000, đặt đại bản doanh tại Namur. Như vậy quân Liên minh được bố trí trên một mặt trận dài gần 90 dặm (xuyên qua ngang nước Bỉ ngày nay), nếu phải tập trung quân lại theo chiều ngang thì phải mất 6 ngày, còn gom lại theo chiều sâu thì mất 3 ngày.

Ngày 16 tháng 6 năm 1815, Liên quân của tướng Wellesley đụng độ với quân của thống chế Ney tại trận Quatre-Bras (ngã tư đường ở Wallonia, Bỉ), quân của thống chế Ney thắng về chiến lược, nhưng tới 21 giờ cùng ngày thì quân Pháp phải từ bỏ phần đất đã chiếm được. Cùng ngày, quân của Napoléon cũng đụng độ với quân Phổ của thống chế Blücher tại trận Ligny (Bỉ), trận này quân Pháp thắng.

Ngày 18 tháng 6 năm 1815, tại trận Waterloo (gần Bruxelles, Bỉ) Napoléon chỉ huy 59.000 lính bộ binh, 12.600 kỵ binh và 246 súng đại bác tấn công quân Liên minh của tướng Wellesley với 56.000 bộ binh, 12.000 kỵ binh và 156 súng đại bác phòng thủ tại đây. Hai bên ác chiến, quyết liệt giành giật từng tấc đất. Tới chiều thì thống chế Blücher đem 53.000 Phổ tới tiếp viện, đánh thọc vào sườn, phá tan thế trận của Pháp khiến Napoléon phải tháo chạy về Pháp. Cùng ngày trên, 33.000 quân Pháp của thống chế Grouchy cũng đụng độ với 17.000 quân Phổ của tướng Johann von Thielmann tại trận Wavre (Bỉ). Tới 19 tháng 6 năm 1815, thì quân Pháp thắng, nhưng quân Phổ – dù ít hơn – đã thành công trong việc cầm chân quân Pháp, không để cho đi tiếp ứng Napoléon ở trận Waterloo.

Hậu quả

Trở về Paris – ba ngày sau trận Waterloo – Napoléon Bonaparte phải tuyên bố thoái vị lần thứ hai vào ngày 22 tháng 6 năm 1815. Ngày 25 tháng 6 năm 1815, thủ tướng chính phủ lâm thời Pháp là Fouché yêu cầu Napoléon rời khỏi Paris. Ông ta trở về lâu đài Malmaison (Hauts-de-Seine) (nơi ở của người vợ trước Joséphine de Beauharnais, nay đã chết) và tìm cách trốn khỏi Pháp. Sau nhiều lần tìm cách xuống tàu đi Hoa Kỳ không thành công, cuối cùng ngày 15 tháng 7 năm 1815 Napoléon phải tự nguyện ra đầu thú viên thuyền trưởng Maitland của tàu HMS Bellerophon của Hải quân Hoàng gia Anh ở ngoài cảng Rochefort. Tàu này chở ông ta về Anh, nhưng không cho ông ta lên bờ. Ngày 7 tháng 8 năm 1815 Napoléon rời tàu HMS Bellerophon sang tàu HMS Northumberland đưa tới đảo Saint Helena trên Đại Tây Dương để chịu lưu đày. Napoléon từ trần tại đây ngày 5 tháng 5 năm 1821.

Các trận chiến giữa phe Pháp và Liên minh thứ Bảy

  • 3 tháng 4 năm 1815: trận Panaro (Ý) – vương quốc Napoli thắng Áo
  • 8–9 tháng 4 năm 1815: trận Occhiobello (Ý) – Áo thắng vương quốc Napoli
  • 10 tháng 4 năm 1815: trận Capri (Ý) – Áo thắng vương quốc Napoli
  • 12 tháng 4 năm 1815: trận Casaglia (Ý) – Áo thắng vương quốc Napoli
  • 21 tháng 4 năm 1815: trận Ronco (Ý) – Áo thắng vương quốc Napoli
  • 23 tháng 4 năm 1815: trận Cesenatico (Ý) – Áo thắng vương quốc Napoli
  • 28 tháng 4 năm 1815: trận Pesaro (Ý) – Áo thắng vương quốc Napoli
  • 1 tháng 5 năm 1815: trận Scapezzano (Ý) – Áo thắng vương quốc Napoli
  • 2–3 tháng 5 năm 1815: trận Tolentino (Ý) – Áo thắng vương quốc Napoli
  • 5–30 tháng 5 năm 1815: trận Ancona (Ý) – Anh-Áo thắng vương quốc Napoli
  • 13 tháng 5 năm 1815: trận Castel di Sangro (Ý) – Áo thắng vương quốc Napoli
  • 15–17 tháng 5 năm 1815: trận San Germano (Ý) – Áo thắng vương quốc Napoli
  • 28 tháng 5 – 8 tháng 8 năm 1815: trận Gaeta (Ý) – Anh-Áo thắng vương quốc Napoli
  • 16 tháng 6 năm 1815: trận Quatre-Bras (Bỉ) – Pháp thắng Liên quân Anh
  • 16 tháng 6 năm 1815: trận Ligny (Bỉ) – Pháp thắng Phổ chiến thuật, Phổ thắng Pháp chiến lược
  • 18 tháng 6 năm 1815: trận Waterloo (Bỉ) – quân Liên minh thắng Pháp
  • 18–19 tháng 6 năm 1815: trận Wavre (Bỉ) – Pháp thắng Phổ chiến thuật, Phổ thắng Pháp chiến lược
  • 28 tháng 6 năm 1815: trận La Suffel (Pháp) – Pháp thắng Liên minh
  • 1 tháng 7 năm 1815: trận Roquencourt (Pháp) – Pháp thắng Phổ
  • 3 tháng 7 năm 1815: trận Issy (Pháp) – Phổ thắng Pháp

Dòng thời gian của hiến pháp Pháp

Tập tin:Chronologie constitutions françaises.svg

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến tranh Liên minh thứ Bảy** (), hay **Triều đại Một trăm ngày** ( ) là Liên minh cuối cùng trong loạt bảy Liên minh giữa một số cường quốc châu Âu, chống lại hoàng
**Các cuộc chiến liên minh** (tiếng Pháp: Guerres de Coalitions, tiếng Đức: Koalitionskriege, tiếng Hòa lan: Coalitieoorlogen, v.v.) là một chuỗi bảy cuộc chiến tranh được tiến hành bởi các liên minh quân sự khác
**Liên minh thứ ba** là một liên minh quân sự gồm các vương quốc Anh, Nga, Áo, Thụy Điển, Bồ Đào Nha, Napoli và Sicilia chống lại hoàng đế Napoléon Bonaparte và Đệ nhất đế
**_Chiến tranh Trăm Năm thứ hai_** (khoảng 1689 - 1815) là sự phân kỳ lịch sử hoặc thuật ngữ thời đại lịch sử được một số nhà sử học dùng để mô tả một loạt
**Chiến tranh thế giới thứ hai** (còn được nhắc đến với các tên gọi **Đệ nhị thế chiến**, **Thế chiến II** hay **Đại chiến thế giới lần thứ hai**) là một cuộc chiến tranh thế
**Công nghệ** đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định kết quả của chiến tranh thế giới thứ II. Phần lớn của nó đã được phát triển trong những năm giữa cuộc chiến
**Chiến tranh Liên Xô tại Afghanistan**, hay còn được gọi là **Xung đột Afghanistan - Liên Xô** và **Chiến tranh Afghanistan** là cuộc xung đột kéo dài 10 năm giữa các lực lượng quân sự
**Chiến tranh Punic lần thứ hai**, cũng còn được gọi là **Chiến tranh Hannibal**, (bởi những người La Mã) **Cuộc chiến tranh chống lại Hannibal**, hoặc **Chiến tranh Carthage**, kéo dài từ năm 218 đến
**Chiến tranh thế giới thứ nhất**, còn được gọi là **Đại chiến thế giới lần thứ nhất**, **Đệ nhất Thế chiến** hay **Thế chiến I**, là một cuộc chiến tranh thế giới bắt nguồn tại
nhỏ|Lính Úc dùng súng máy tại trận địa gần [[Wewak tháng 6 năm 1945]] Sau khi Đức Quốc xã xâm lăng Ba Lan, chính phủ Úc tuyên chiến với Đức ngày 3 tháng 9 năm
Đây là một **Niên biểu các sự kiện diễn ra trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai**, trong năm 1940. ## Tháng 1 năm 1940 :1: 10.000 quân Nhật mở cuộc phản công
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, quân Đồng Minh đã phạm phải tội ác chiến tranh đã được kiểm chứng và vi phạm luật pháp chiến tranh chống lại dân thường hoặc quân nhân
Đây là một **Niên biểu các sự kiện diễn ra trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai**, trong năm 1939. ## Tháng 9 năm 1939 thumb|Các quốc gia Đồng Minh và phe Trục
**Chiến tranh Mùa đông** (, , ) hay **Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan 1939-1940** là cuộc chiến giữa Liên Xô và Phần Lan do tranh chấp lãnh thổ tại vùng Karelia. Nó diễn ra vào
**Chiến tranh Punic lần thứ nhất **(264-241 TCN) là cuộc chiến tranh lớn đầu tiên xảy ra giữa Carthage và Cộng hòa La Mã, kéo dài suốt 23 năm giữa hai thế lực hùng mạnh
Đây là một **Niên biểu các sự kiện diễn ra trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai**, trong năm 1941. ## Tháng 1 năm 1941 :1: Thống kê từ cuộc ném bom Luân
**Mặt trận Ý (Chiến tranh thế giới thứ nhất)** là nơi diễn ra những trận đánh trong Chiến tranh thế giới thứ nhất giữa Ý và Đế quốc Áo-Hung cùng với các đồng minh của
Đây là danh sách **các cuộc chiến tranh liên quan Việt Nam** bao gồm có sự tham gia của Việt Nam hoặc xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam. Trong danh sách này, ngoài những
**Chiến tranh Anh–Miến thứ nhất** (tiếng Anh: _First Anglo-Burmese War_, ; ) diễn ra từ ngày 5 tháng 3 năm 1824 đến ngày 24 tháng 2 năm 1826. Cuộc chiến tranh diễn ra dưới thời
**Tội ác của Hoa Kỳ trong thế chiến thứ hai** bao gồm các hành động cướp bóc, đánh đập tù nhân, giết người, cưỡng hiếp phụ nữ và đặc biệt là sử dụng vũ khí
**Chiến tranh Punic lần thứ ba** (tiếng Latin: _Tertium Bellum Punicum_) (năm 149-146 TCN) là cuộc chiến thứ ba và cũng là cuối cùng trong số các cuộc chiến tranh Punic xảy ra giữa thuộc
Đây là một **Niên biểu các sự kiện diễn ra trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai**, trong năm 1942. ## Tháng 1 năm 1942 :1: 26 quốc gia Đồng minh ký Tuyên
Nagorno-Karabakh hiện tại là một nước Cộng hòa độc lập trên thực tế, nhưng trên lý thuyết vẫn là một phần của Cộng hòa Azerbaijan. Cuộc **chiến tranh Nagorno-Karabakh** là cuộc xung đột vũ trang
**Chiến tranh Afghanistan - Anh lần thứ nhất** là cuộc chiến giữa Công ty Đông Ấn Anh và Tiểu vương quốc Afghanistan từ năm 1839 đến 1842. Nó nổi tiếng với việc thảm sát 4.500
**Các cuộc chiến tranh của Napoléon**, hay thường được gọi tắt là **Chiến tranh Napoléon** là một loạt các cuộc chiến trong thời hoàng đế Napoléon Bonaparte trị vì nước Pháp, diễn ra giữa các
Trong Thế chiến I không tồn tại một quốc gia Ba Lan độc lập, với vị trí địa lý nằm giữa các cường quốc tham chiến, có nghĩa là nhiều trận chiến và tổn thất
**Chiến tranh cục bộ** là một chiến lược quân sự của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam (giai đoạn 1965-1968). Nội dung cơ bản của chiến lược này là tận dụng ưu thế hỏa
**Chiến tranh Triều Tiên** là cuộc chiến xảy ra trên bán đảo Triều Tiên giữa Bắc Triều Tiên (với sự hỗ trợ của Trung Quốc, Liên Xô cùng các nước xã hội chủ nghĩa) và
**Chiến tranh Iran – Iraq**, hay còn được biết đến với những tên gọi **Chiến tranh xâm lược của Iraq** (جنگ تحمیلی, _Jang-e-tahmīlī_), **Cuộc phòng thủ thần thánh** (دفاع مقدس, _Defa-e-moghaddas_) và **Chiến tranh Cách
**Chiến tranh Xô–Đức 1941–1945** là một cuộc chiến giữa Liên Xô và Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, trải dài khắp Bắc, Nam và Đông Âu từ ngày 22 tháng 6 năm 1941
**Chiến tranh Trung – Nhật** (1937–1945) là một cuộc xung đột quân sự giữa Trung Hoa Dân Quốc và Đế quốc Nhật Bản. Hai thế lực đã chiến đấu với nhau ở vùng biên giới
**Chiến tranh Afghanistan** là một cuộc chiến tranh diễn ra sau khi Hoa Kỳ xâm lược Afghanistan và sau khi Hoa Kỳ và các đồng minh đã hạ bệ thành công Taliban từ vị trí
**Chiến tranh Lạnh** (1947-1991, tiếng Anh: **Cold War**) là chỉ đến sự căng thẳng địa chính trị và xung đột ý thức hệ đỉnh điểm giữa hai siêu cường (đứng đầu và đại diện hai
**Chiến tranh Ả Rập – Israel năm 1948**, được người Do Thái gọi là **Chiến tranh giành độc lập** và **Chiến tranh giải phóng**, còn người Palestine gọi là **al Nakba** (tiếng Ả Rập: النكبة,
**Chiến tranh Nga–Nhật** hay **Nhật-Nga chiến tranh** (tiếng Nhật: 日露戦争 _Nichi-Ro Sensō_, âm Hán Việt: "Nhật Lộ chiến tranh"; tiếng Nga: Русско-японская война, "Russko-yaponskaya voina"; tiếng Trung: 日俄戰爭 _Rì'ézhànzhēng_, "Nhật Nga chiến tranh") là một
**Chiến tranh Hy Lạp-Ý** ( _Ellinoitalikós Pólemos_ hay **Πόλεμος του Σαράντα** _Pólemos tou Saránda_, "Cuộc chiến năm 40", , "Chiến tranh Hy Lạp") là một cuộc xung đột giữa Ý và Hy Lạp, kéo dài
**Chiến tranh Bosnia** hay **Chiến tranh ở Bosnia và Hercegovina** là một cuộc xung đột vũ trang quốc tế xảy ra ở Bosna và Hercegovina trong khoảng thời gian giữa tháng 4 năm 1992 và
**Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha** (1701–1714) là một cuộc xung đột chính trị quân sự ở châu Âu đầu thế kỉ XVIII, được kích nổ bởi cái chết của vị vua cuối cùng
**Chiến tranh Pháp – Phổ** (19 tháng 7 năm 1870 – 28 tháng 1 năm 1871), thời hậu chiến còn gọi là **chiến tranh Pháp – Đức** (do sự kiện thống nhất nước Đức ở
Phi cơ [[B-17 Flying Fortress đang bay trên bầu trời châu Âu]] Các giới chức quân sự quan trọng của Mỹ tại châu Âu năm 1945 **Lịch sử quân sự Hoa Kỳ trong Chiến tranh
**Chiến tranh Đại liên minh** (1688-1697) - thường được gọi là **chiến tranh chín năm**, cuộc **chiến tranh Kế vị Palatine**, hoặc **chiến tranh của Liên minh Augsburg** - là một cuộc chiến lớn cuối
**Chiến tranh đảo Crete** (, ), còn được gọi là **Chiến tranh Candia** () hay **Chiến tranh Ottoman–Venezia lần thứ năm**, là một cuộc xung đột kéo dài từ năm 1645 đến năm 1669 giữa
**Chiến tranh Ba Lan – Ukraina**, diễn ra từ tháng 11 năm 1918 đến tháng 7 năm 1919, là cuộc xung đột giữa Cộng hòa Ba Lan thứ hai và các lực lượng Ukraina (cả
**Cuộc Chiến tranh giành độc lập Hy Lạp** (1821–1829), cũng được biết đến với tên gọi **Cuộc chiến tranh cách mạng Hy Lạp** (tiếng Hy Lạp: Ελληνική Επανάσταση, _Elliniki Epanastasi_; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: يؤنان
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
**Chiến tranh Độc lập Mozambique** là một xung đột quân sự giữa lực lượng du kích của Mặt trận Giải phóng Mozambique hay FRELIMO, và Bồ Đào Nha. Chiến tranh chính thức bắt đầu vào
Một hố chôn tập thể tại cánh rừng Katyn nơi hàng nghìn sĩ quan, học giả và tù binh chiến tranh bị giết trong vụ [[Thảm sát Katyn (1940)]] **Tội ác chiến tranh gây ra
**Chiến tranh giải phóng Bangladesh** ( _Muktijuddho_) diễn ra tại Nam Á vào năm 1971, dẫn đến việc thành lập nước Cộng hòa Bangladesh. Chiến tranh là cuộc đọ sức của Đông Pakistan (sau đó
**Cuộc chiến tranh bảy năm ở Bắc Âu** (cũng gọi là **Cuộc chiến tranh Bắc Âu thứ nhất**) là cuộc chiến giữa một bên là Thụy Điển và bên kia là Liên minh Đan Mạch
**Chiến tranh giữa Pháp và người Da đỏ** hay còn được gọi là **Cuộc Chiến tranh Chinh phạt** (, ) là chiến trường của chiến tranh Bảy năm trên đất Bắc Mỹ từ năm 1754