✨Gia tộc Beauharnais

Gia tộc Beauharnais

Nhà Beauharnais còn được gọi là Nhà Leuchtenberg (phát âm là [bo.aʁ.nɛ]) là một gia đình quý tộc ở Pháp, Đức và Nga. Người đứng đầu hiện tại là Công tước xứ Leuchtenberg, hậu duệ nam của Phó vương Ý Eugène de Beauharnais và Auguste của Bayern.

Gia tộc Beauharnais gốc Pháp đến từ vùng Bretagne, được thành lập vào thế kỷ XIV ở Orléans, và gia tộc được nâng lên hàng quý tộc từ thời của Jehan Beauharnais, sau khi ông hỗ trợ Jeanne d'Arc trong Chiến tranh Trăm Năm. Từ thế kỷ XVII, các thành viên của gia tộc Beauharnais chuyển sang sự nghiệp hải quân và quản lý thuộc địa của Pháp ở châu Mỹ. Trong đó François de Beauharnais (1665–1746) được bổ nhiệm làm người đứng đầu thuộc địa Tân Pháp (tức là Canada), và ông được cấp quyền lãnh chúa ở nơi đây vào năm 1707. Cháu trai của ông, Francis V de Beauharnais trở thành Thống đốc của thuộc địa Martinique.

Người nhà Beauharnais chỉ thực sự được nâng lên hàng đại quý tộc Pháp, sánh ngang với các hoàng tộc bởi các hậu duệ của Tử tước Alexandre de Beauharnais và vợ Joséphine de Beauharnais. Trước khi bị xử chém bởi Triều đại Khủng bố, tử tước Alexandre de Beauharnais đã có 2 người con với Joséphine de Beauharnais, người mà sau này tái hôn với tướng Napoleon Bonaparte. Đệ Nhất Đế chế Pháp được thành lập, Joséphine đã trở thành hoàng hậu đầu tiên của đế chế này, các con riêng của bà với tử tước Beauharnais được Hoàng đế Napoleon yêu thương và trao nhiều đặc ân của Hoàng tộc Pháp dù không mang họ Bonaparte.

Người con trai cả Eugène de Beauharnais được hoàng đế nhận làm con nuôi, trao quyền Phó vương Ý và luôn là một tướng quân tiên phong trong các cuộc hành quân lớn của hoàng đế. Sau đó được kết hôn với Auguste của Bayern, con gái lớn của Vua Maximilian I Joseph thuộc Vương tộc Wittelsbach. Sau khi đế chế của Napoleon sụp đổ, Eugène de Beauharnais đã rời Ý để đến Vương quốc Bayern và được cha vợ phong Công tước xứ Leuchtenberg, đây là dấu mốc gia tộc Beauharnais định cư và phát triển trên đất Đức.

Người con gái út của từ tước Beauharnais là Hortense de Beauharnais được gả cho em trai của Hoàng đế Napoleon, Louis Napoléon Bonaparte, sau trở thành vua và vương hậu của Vương quốc Holland. Hoàng đế Napoleon III, người sau này phục hưng Vương tộc Bonaparte và lập ra Đệ Nhị Đế chế Pháp chính là con trai của họ.

Hậu duệ của Eugène de Beauharnais và Auguste của Bayern đã được gả vào các hoàng tộc hiển hách của châu Âu thời bấy giờ. Người con gái cả Joséphine xứ Leuchtenberg được gả vào Vương tộc Bernadotte và trở thành Vương hậu của Thuỵ Điển và Na Uy, hậu duệ của họ hiện nay là các thành viên của Hoàng gia Đan Mạch, Hoàng gia Luxembourg, và vẫn giữ ngai vàng Thụy Điển cho đến tận ngày nay. Người con trai lớn Auguste, Công tước xứ Leuchtenberg trở thành chồng của Nữ vương Maria II thuộc Vương tộc Braganza. Người con gái thứ 3 là Amélie xứ Leuchtenberg trở thành vợ thứ 2 của Hoàng đế Pedro I, và giữ ngai Hoàng hậu của Đế quốc Brasil, bà nỗi tiếng là người phụ nữ đức hạnh và nhân hậu. Maximilian de Beauharnais là người con trai út, trở thành rể của Vương tộc Romanov khi kết hôn với Công chúa Maria Nikolaievna, con gái của Hoàng đế Aleksandr II của Đế quốc Nga. Hậu duệ của gia tộc Beauharnais xuất hiện trên đất Nga là bắt đầu từ cặp đôi này.

Dù gia tộc Beauharnais chưa từng nắm giữ vương quyền, nhưng họ đã kết thông gia với các vương tộc lớn khắp châu Âu, và hậu duệ của họ đã đóng góp vào quá trình phát triển lịch sử của châu Âu thời hiện đại.

Lịch sử

Có nguồn gốc từ Công quốc Bretagne, gia tộc Beauharnais (hay Beauharnois) đã định cư tại Orléans vào cuối thế kỷ XIV. Trong cuộc vây hãm Orléans năm 1429, một người con trai của Guillaume là Jehan Beauharnais, đã đóng vai trò bảo vệ thành phố và do đó đã làm chứng tại phiên tòa xét xử phục hồi danh dự cho Jeanne d'Arc.

Sau đó, người nhà Beauharnais đã trở thành quân nhân và quan toà ở vương quốc Pháp, và hình thành liên minh trong nhiều nhóm khác nhau, bao gồm cả Đại học Luật Orléans. Vào thế kỷ XVI, dòng họ Beauharnais có nhiều người trở thành quan tòa, thương gia và giáo sĩ ở Orléans. Từ cuối thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVII, chức vụ chủ tịch và lieutenant général trong khu vực và ghế thẩm phán của Orléans được truyền lại theo truyền thống trong gia đình Beauharnais. Người có uy tín nhất trong số những quan tòa này là François III de Beauharnais, lãnh chúa xứ Grillère (ở Vouzon, Loir-et-Cher), sinh ra ở Orléans năm 1600 và mất tại thị trấn này năm 1681.

Vào cuối thế kỷ XVII, chức vụ lieutenant général của khu vực Orléans đã được chuyển giao cho một nhánh đồng minh của gia tộc, đó là dòng họ Curault. Những người Beauharnais lỗi lạc nhất sau đó chuyển sang hải quân hoàng gia và quản lý các thuộc địa của Pháp ở châu Mỹ. François de Beauharnais (1665-1746) trở thành thống đốc của Tân Pháp (tức là Canada), nơi ông được trao quyền lãnh chúa vào năm 1707. Cháu trai của ông, cũng tên là François, được bổ nhiệm làm chỉ huy phi đội (chuẩn đô đốc) của quân đội hoàng gia, sau đó là thống đốc Martinique.

Gia tộc Beauharnais ở Orléans cũng là những chủ đất lớn sở hữu nhiều lãnh địa trong khu vực. Vào thế kỷ XV, họ là lãnh chúa xứ Chaussée, một thái ấp nằm ở vùng ngoại ô Saint-Jean hiện tại thuộc Orléans. Họ cũng quan tâm đến Sologne vì vào đầu thế kỷ XVI, Guillaume de Beauharnais sở hữu vùng đất Villechauve, ở Sennely (Loiret). Gia tộc Beauharnais cũng là lãnh chúa của vùng đất lân cận La Grillère, ở Vouzon, nơi họ nắm giữ cho đến đầu thế kỷ XVIII (khi nó được chuyển giao cho gia tộc Choiseul-Gouffier thông qua cuộc hôn nhân của một cô con gái thuộc gia tộc Beauharnais).

Vào ngày 20 tháng 4 năm 1752, François de Beauharnais (1714-1800), thống đốc Martinique, ông cố ngoại của Napoleon III tương lai, đã mua lại quyền lãnh chúa La Ferté-Avrain ở Sologne. Ông đã được cấp giấy phép xây dựng nơi này thành một lãnh địa hầu tước vào tháng 7 năm 1764 dưới tên gọi La Ferté-Beauharnais, tên mà nó vẫn mang cho đến ngày nay (một xã thuộc tỉnh Loir-et-Cher).

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nhà Beauharnais** còn được gọi là **Nhà Leuchtenberg** (phát âm là [bo.aʁ.nɛ]) là một gia đình quý tộc ở Pháp, Đức và Nga. Người đứng đầu hiện tại là Công tước xứ Leuchtenberg, hậu duệ
**Joséphine de Beauharnais** (phiên âm tiếng Việt: **Giô-dê-phin**; ; tên khai sinh là **Marie Josèphe Rose Tascher de La Pagerie**; 23 tháng 6 năm 1763 – 29 tháng 5 năm 1814) là Hoàng hậu của
**Alexandre François Marie, Tử tước của Beauharnais** (28 tháng 5 năm 1760 - 23 tháng 7 năm 1794) là một nhân vật chính trị Pháp và tướng lĩnh trong Cách mạng Pháp. Ông là chồng
**Eugène Rose de Beauharnais, Công tước xứ Leuchtenberg** (; 03/09/1781 - 21/02/1824), là con trai duy nhất của Alexandre François Marie, Tử tước Beauharnais và Joséphine de Beauharnais, người vợ đầu tiên của Hoàng đế
**Stéphanie de Beauharnais, Đại công tước phu nhân xứ Baden** (tiếng Pháp: _Stéphanie Louise Adrienne de Beauharnais_; 28 tháng 8 năm 1789 – 29 tháng 1 năm 1860), cũng gọi là **Stephanie Napoléon,** là nghĩa
**Eugénie Hortense Auguste Napoléone**, được gọi là **Eugénie của Leuchtenberg** (tên đầy đủ: _Eugénie Hortense Auguste Napoléone Beauharnais_; 22 tháng 12 năm 1808 - 01 tháng 09 năm 1847) là một Công nữ Đức gốc
**Nhà Bonaparte** (ban đầu được viết là "Buonaparte") là một cựu hoàng gia và vương triều châu Âu có nguồn gốc từ Genova. Nó được thành lập vào năm 1804 bởi Hoàng đế Napoleon, người
**Hortense Eugénie Cécile Bonaparte** (10 tháng 04 năm 1783 - 05 tháng 10 năm 1837) là vương hậu của Vương quốc Holland, sau khi Hoàng đế Napoleon trao vương miện cho chồng bà là Louis
**Yevgeniya Maksimilianovna Romanovskaya Yevgeniya Maksimilianovna của Leuchtenberg** (tiếng Nga: _Евгения Максимилиановна Лейхтенбергская_) (1 tháng 4 năm 1845 - 4 tháng 5 năm 1925) là con gái của Maximilian của Leuchtenberg và Mariya Nikolayevna của Nga.
thumb|Huy hiệu của [[Eugène de Beauharnais Công tước xứ Leuchtenberg]] **Công tước xứ Leuchtenberg** (tiếng Đức: _Herzog von Leuchtenberg_; tiếng Pháp: _Duc de Leuchtenberg_; tiếng Nga: _Герцог Лейхтенбергский_) là một tước hiệu được vua của
**Amélie của Leuchtenberg** (tiếng Bồ Đào Nha: _Amélia Augusta Eugénia Napoleona de Leuchtenberg_; tiếng Pháp: _Amélie Auguste Eugénie Napoléonne de Leuchtenberg_; tiếng Đức: _Amélie von Leuchtenberg_; 31 tháng 07 năm 1812 - 26 tháng 01
**Louis Napoléon Bonaparte** (tên khai sinh **Luigi Buonaparte**; 2 tháng 9 năm 1778 - 25 tháng 7 năm 1846) là em trai của Napoléon I, Hoàng đế của Đệ Nhất Đế chế Pháp. Từ năm
**Thân vương quốc Eichstätt** (tiếng Đức: _Fürstentum Eichstätt_) là một thân vương quốc trung gian hoá nằm trong Vương quốc Bayern, tồn tại từ năm 1817 đến năm 1833, lãnh thổ của nó bao gồm
**Auguste của Leuchtenberg** (_Auguste Charles Eugène Napoléon de Beauharnais_; 09 tháng 12 năm 1810 - 28 tháng 03 năm 1835) là vương tế đầu tiên của Nữ vương Maria II của Bồ Đào Nha. Ngoài
**Auguste của Bayern** (tiếng Đức: _Auguste Amalie Ludovika Georgia von Bayern_) (Strasbourg, ngày 21 tháng 06 năm 1788 - Munich, ngày 13 tháng 05 năm 1851) là người con thứ hai và là con gái
**Napoléon-Louis Bonaparte** (11 tháng 10 năm 1804 - 17 tháng 3 năm 1831) là vị vua thứ 2 của Vương quốc Holland, với vương hiệu **Louis II** (tiếng Hà Lan: _Lodewijk II_), nhưng ở ngôi
**Maximilian Joseph Eugene Auguste Napoléon de Beauharnais, Công tước thứ 3 xứ Leuchtenberg, Thân vương xứ Romanowsky** (02 tháng 10 năm 1817 - 01 tháng 11 năm 1852) là chồng của Mariya Nikolayevna của Nga
**Théodelinde của Leuchtenberg** (13 tháng 04 năm 1814 - 01 tháng 04 năm 1857), là một Công nữ người Pháp-Đức và là Bá tước phu nhân xứ Württemberg sau khi kết hôn với Wilhelm xứ
**Marie Amelie xứ Baden** (tiếng Đức: _Marie Amelie von Baden_; tiếng Hà Lan: _Maria Amalia van Baden_; tiếng Anh: _Mary Amelia of Baden_; tên đầy đủ: _Marie Amelie Elisabeth Karoline_; 11 tháng 10 năm 1817
**Joséphine của Leuchtenberg** hoặc **Joséphine de Beauharnais** (_Joséphine Maximilienne Eugénie Napoleone_) (ngày 14 tháng 3 năm 1807 - 07 tháng 6 năm 1876) là Vương hậu của Thụy Điển và Na Uy, vợ của vua
**Mary Victoria Hamilton**, còn được gọi là **Mary Victoria Douglas-Hamilton** (tiếng Anh: _Mary Victoria Hamilton_; tiếng Đức: _Maria Victoria Hamilton_; tiếng Hungary: _Mária Viktória Hamilton_; tiếng Pháp: _Marie Victoire Hamilton_; 11 tháng 12 năm 1850
**Maria Nikolayevna của Nga** (; 18 tháng 8 năm 1819 – 21 tháng 2 năm 1876) là con gái của Hoàng đế Nikolai I của Nga và là em gái của Alesandr II của Nga.
**Mariya Maksimilianovna Romanovskaya**, **Mariya Maksimilianovna của Leuchtenberg** (16 tháng 10 năm 1841 – 16 tháng 2 năm 1914) là con gái lớn nhất còn sống của Maximilian của Leuchtenberg và vợ là Mariya Nikolayevna của
**Maximilian I Joseph** (; 27 tháng 5 năm 1756 tại Schwetzingen, gần Mannheim – 13 tháng 10 năm 1825 tại München) là Công tước xứ Zweibrücken từ năm 1795, trở thành Tuyển hầu xứ Bayern
**Napoléon III** hay **Napoléon Đệ tam**, cũng được biết như **Louis-Napoléon Bonaparte** (tên đầy đủ là Charles Louis-Napoléon Bonaparte) (20 tháng 4 năm 1808 – 9 tháng 1 năm 1873) là tổng thống đầu tiên
**Auguste Wilhelmine xứ Hessen-Darmstadt** (tiếng Đức: _Auguste Wilhelmine Marie von Hessen-Darmstadt_; 14 tháng 4 năm 1765 – 30 tháng 3 năm 1796) là vợ đầu tiên của Maximilian, Công tước xứ Zweibrücken, bà qua đời
**Josephine xứ Baden** (tiếng Đức: _Josephine von Baden_; tiếng Pháp: _Joséphine de Bade_; tiếng Hà Lan: _Josefine van Baden_; tiếng Anh: _Josephine of Baden_; tên đầy đủ: _Josephine Friederike Luise_; 21 tháng 10 năm 1813
**Frankfurt** là một thành bang lớn của Đế chế La Mã Thần thánh, là nơi diễn ra các cuộc bầu cử đế quốc từ năm 885 và là thành phố tổ chức Lễ đăng quang
**Luise Amelie Stephanie xứ Baden** (tiếng Đức: _Luise Amelie von Baden_; tiếng Pháp: Louise Amélie de Bade; tiếng Hà Lan: _Louise Amalie van Baden_; tiếng Thụy Điển: _Lovisa av Baden_; tiếng Anh: _Louise Amelia of
**Susan Hamilton** (9 tháng 6 năm 1814 – 28 tháng 11 năm 1889) là một nữ quý tộc người Scotland, con gái duy nhất của Alexander Hamilton, Công tước thứ 10 xứ Hamilton và Susan
**Friedrich xứ Hohenzollern-Sigmaringen** hay **Friedrich xứ Hohenzollern** (tiếng Đức: _Friedrich von Hohenzollern-Sigmaringen_; tiếng Pháp: _Frédéric de Hohenzollern-Sigmaringen_; tiếng Anh: _Frederick of Hohenzollern-Sigmaringen_; tên đầy đủ: _Friedrich Eugen Johann_; 25 tháng 6 năm 1843 tại Lâu
**William Hamilton, Công tước thứ 11 xứ Hamilton và Công tước thứ 8 xứ Brandon** (19 tháng 2 năm 1811 – 8 tháng 7 năm 1863) được gọi là **Bá tước xứ Angus** trước năm
Dom **Fernando II** (tiếng Đức: _Ferdinand II_; tiếng Anh: _Ferdinand II_) (29 tháng 10 năm 1816 – 15 tháng 12 năm 1885) là một Thân vương người Đức của Nhà Sachsen-Coburg và Gotha-Koháry, và là
**Ludwig I** (9 tháng 2 năm 1763 – 30 tháng 3 năm 1830) trở thành Đại công tước Baden vào ngày 8 tháng 12 năm 1818, sau cái chết của người cháu là Đại công
**Karl Ludwig Friedrich xứ Baden** (tiếng Đức: _Karl Ludwig Friedrich_; 8 tháng 6 năm 1786 – 8 tháng 12 năm 1818) là Đại công tước xứ Baden từ ngày 11 tháng 6 năm 1811, sau
**Ludwig Wilhelm August von Baden** (18 tháng 12 năm 1829. Wilhelm được nhận nền giáo dục chính thức của mình trong lực lượng quân đội Phổ. Từ năm 1856, Wilhelm phục vụ trong Trung đoàn
**Thống nhất nước Ý** (, ), trong tiếng Ý còn gọi là **Risorgimento** (; ) là một phong trào chính trị-xã hội diễn ra vào thế kỷ 19 và dẫn đến sự hợp nhất của
**Carolina Maria Annunziata Bonaparte Murat Macdonald** (tiếng Pháp: _Caroline Marie Annonciade Bonaparte_; 25 tháng 3 năm 1782 – 18 tháng 5 năm 1839), hay được biết đến nhiều hơn với cái tên **Caroline Bonaparte**, là
**Louis Philippe I của Pháp** (Ngày 6 tháng 10 năm 1773 – 26 tháng 8 năm 1850) là vua của Pháp từ năm ngày 6 tháng 11 năm 1830 đến ngày 24 tháng 2 năm
Dom **Pedro I** (tiếng Việt:Phêrô I; 12 tháng 10 năm 1798 – 24 tháng 9 năm 1834), biệt danh "Người Giải phóng", là người thành lập và nhà cai trị đầu tiên của Đế quốc Brasil. Với
**Maria Ludovica của Áo** (12 tháng 12, năm 1791 - 17 tháng 12, năm 1847), sinh ra là một Nữ Đại vương công Áo, năm 1810 bà trở thành vợ của Hoàng đế Napoleon I
Dona **Maria Amélia** (1 tháng 12 năm 1831 – 4 tháng 2 năm 1853) là Hoàng nữ của Đế quốc Brasil và là thành viên của nhánh Brasil của Vương tộc Bragança. Cha mẹ cô
**Pedro II** (tiếng Anh: _Peter II_; 02 tháng 12 năm 1825 - 5 tháng 12 năm 1891), có biệt danh là "**Người cao thượng**", là vị hoàng đế thứ 2 và cuối cùng của Đế
**María Luisa Josefina của Tây Ban Nha** (, 6 tháng 7 năm 1782 – 13 tháng 3 năm 1824) là _Infanta_ Tây Ban Nha, con gái của Carlos IV của Tây Ban Nha và María
**María Isabel của Tây Ban Nha, hay María Isabel de Borbón y Borbón-Parma** (tiếng Tây Ban Nha: _María Isabel de España_; tiếng Ý: _Maria Isabella di Spagna_; tiếng Pháp: _Marie-Isabelle d'Espagne_; tiếng Đức: _Maria Isabella
**Maria-Letizia Bonaparte** (née **Ramolino**; 24 tháng 8 năm 1750 hoặc 1749 – 2 tháng 2 năm 1836) là một nữ quý tộc người Ý, mẹ ruột của Hoàng đế Pháp trứ danh Napoléon Bonaparte. ##
**Các cuộc chiến tranh của Napoléon**, hay thường được gọi tắt là **Chiến tranh Napoléon** là một loạt các cuộc chiến trong thời hoàng đế Napoléon Bonaparte trị vì nước Pháp, diễn ra giữa các
:''Về các trận chiến khác đã diễn ra tại Moskva, xem bài định hướng Trận Moskva **Trận Borodino** (, _Borodinskoe srazhenie_; phiên âm: **Bô-rô-đi-nô**); hoặc còn gọi là **Trận Sông Moskva** () giữa quân đội
**Charles Auguste Louis Joseph de Morny, Đệ nhất Công tước xứ Morny** (Paris, 15–16 tháng 9 năm 1811 - Thụy Sĩ, 10 tháng 3 năm 1865) là một quý tộc và chính khách người Pháp.
**Mikhail Illarionovich Golenishchev-Kutuzov** (hoặc **Mikhain Illariônôvích Cutudốp** trong các tài liệu tiếng Việt) (tiếng Nga: князь Михаи́л Илларио́нович Голени́щев-Куту́зов; 16 tháng 9 năm 1745 — 28 tháng 4 năm 1813) là một nhà quân sự,