Dưới đây là danh sách các nhà cai trị vùng lãnh thổ Sachsen từ khi còn là một công quốc ở thế kỷ thứ 9 cho đến khi chế độ quân chủ của người Đức kết thúc vào năm 1918, bao gồm các tước vị công tước, tuyển hầu cũng như là quốc vương sau này.
Các quân chủ Sachsen kể từ Tuyển hầu Johann Cương quyết (Johann der Beständige) đều theo đạo Luther. Đến thời August Mạnh mẽ (August der Starke) hay Tuyển hầu Friedrich August I, vì để được bầu làm Vua của Ba Lan và Đại vương công của Lietuva, ông đã cải đạo sang Công giáo. Từ đó, các hậu dệ của ông, bao gồm các vị vua của Sachsen, đều theo Công giáo.
Thủ lĩnh các bộ tộc Sachsen cổ
Vùng lãnh thổ các bộ tộc Sachsen cổ ban đầu bao gồm các vùng đất của người Sachsen ở phía Tây Bắc nước Đức ngày nay, gần tương ứng với lãnh thổ của bang Niedersachsen, các vùng Westfalen và Tây Sachsen-Anhalt. Chúng hoàn toàn không tương ứng với lãnh thổ của bang Sachsen hiện đại.
Khi người Frank trỗi dậy, hình thành nên Đế quốc Frank, đã liên tục chinh phạt các bộ tộc xung quanh để mở rộng lãnh thổ, trong có cả người Sachsen. Quá trình này hầu như được hoàn thành dưới thời của Charlemagne, khi mà lãnh thổ các bộ tộc Sachsen hầu như đã nằm trọn trong lòng Đế chế Caroling.
trái|Widukind, dux Saxonum.
Trong các nguồn tài liệc về các bộ tộc Sachsen, rải rác một số nhân vật được ghi nhận như là một thủ lĩnh của liên minh các bộ tộc người Sachsen như:
- Hadugato (hay Hathagat; ?-531), người lãnh đạo các bộ tộc Sachsen giành chiến thắng trước người Thuringi (hay Tueringi hoặc Thoringi) trong trận chiến Burgscheidungen.
- Berthoald (?-622), thủ lĩnh người Sachsen chư hầu dưới thời trị vì của các vị vua người Frank Chlothar II và Dagobert I, từng lãnh đạo người Sachsen nổi dậy chống lại sự cai trị của Vương triều Meroving nhưng thất bại.
- Theoderic (còn được viết là Theodric, Diederik, Didrik hay Dietrich; m. 743–744), thủ lĩnh người Sachsen chống lại sự xâm lược của các lãnh chúa Frank là Pépin Lùn và Carloman.
thumb|Bức bích họa thế kỷ 19: Lễ rửa tội của Widukind (và Albion)
- Widukind (còn gọi là Wittekind hay Weking; m. 777–810), thủ lĩnh người Sachsen đầu tiên được ghi nhận với danh hiệu dux Saxonum, từng lãnh đạo người Sachsen chống lại sự cai trị của Vương triều Caroling nhưng thất bại và bị buộc cải sang đạo Công giáo.
- Albion (còn được viết là Abbion, hay rút gọn thành Abbio hoặc Abbi; m. 785–811), một thủ lĩnh người Sachsen, hợp tác với Widukind để chống lại người Frank. Cũng như Widukind, sau khi đầu hàng người Frank, ông cũng bị buộc cải sang đạo Công giáo.
Đến cuối thế kỷ IX, tiếp theo quá trình tan rã của Đế quốc Frank, các vua Đông Frank cũng mất dần quyền lực vào tay các thủ lĩnh địa phương (dux), dẫn đến sự hình thành các công quốc gốc, trong đó có Công quốc Sachsen.
Công tước xứ Sachsen
Thời kỳ Công quốc bộ lạc mới
phải|nhỏ|Quốc huy cũ của người Sachsen, nay là bang huy của các bang [[Niedersachsen và Westphalia.]]
Sau khi nhà Welfs để mất sự thống trị của mình đối với công quốc Sachsen vào năm 1180, lãnh thổ của công quốc này bị thu hẹp rất nhiều. Chỉ còn Công quốc Braunschweig nằm trong tay nhà Welf, trong khi đó các giám mục thành Köln có trong tay vùng Westphalia. Các công tước nhà Askanier di chuyển dần các vùng đất mà mình cai trị về phía Đông, gần sông Elbe. Vúng đất này thi thoảng đựoc gọi với cái tên Tân Công quốc Sachsen, kết quả của viêc dời đất Sachsen về phía Đông.nhỏ|[[Quốc huy Sachsen kể từ khi nhà Askanier trở thành công tước Sachsen năm 1180.|175x175px]]
Vào thê kỷ thứ 10, Hoàng đế Otto I thành lập nên Hành cung Bá quốc xứ Sachsen trên cơ sở vùng Saale-Unstrut ở miền Nam xứ Sachsen. Những người cai trị vùng đất đầu tiên là các bá tước xứ Hessengau, rồi đến các bá tước xứ Goseck, Sommerschenburg, tiếp theo nữa là các landgraf (Phương Bá tước) xứ Thüringen. Khi các landgraf nhà Wettin lên kế vị Tuyển hầu quốc Sachsen thì hai vùng đất trên sát nhập trở lại.
Tân Sachsen: Công quốc và Tuyển hầu quốc
Các công tước mới của Công quốc thay biểu tượng hình con ngựa cũ đang được sử dụng trên quốc huy Sachsen (23x23px) bằng các hình ảnh và biểu tượng khác mang màu sắc của nhà Askanier (24x24px), thêm vào một đường cong chéo góc crancelin (mang hình cây hoa vân hương - biểu tượng của tước hiệu công tước Sachsen) lên làm quốc huy mới của nhà nước Sachsen (23x23px). Gia tộc Wettin kế thừa gia tộc Askanier tiếp tục sử dụng huy hiệu này.
Sau sự phân chia lãnh thổ Sachsen, số hiệu của các công tước được tính lại từ đầu (ngoại trừ công tước đầu tiên là Bernhard III tiếp tục đánh số theo hai công tước Sachsen trước đó có cùng tên cai trị xứ Sachsen cai trị trước năm 1180). Giả dụ như công tước kế nhiệm Bernhard III là Albrecht I được đánh số thứ tự là 1, mặc dù trước năm 1180 cũng đã có người tên Albrecht (cũng thuộc nhà Askanier) đã cai trị công quốc này.
Nhà Askanier
Sự phân chia Sachsen dưới thời nhà Askanier.
Danh sách
Dòng nam của nhà Askanier cai trị các vùng đất thuộc Tuyển hầu quốc Sachsen tuyệt tự sau cái chết của Julius Franz vào ngày 30 tháng 9 năm 1689. Dù có hai công tước nữ là con của Julius Franz có thể kế vị nhưng nhà Weft đã nhanh chóng chiếm đoạt lấy chức vụ đứng đầu nhà nước Sachsen và không cho phép con gái cả của ông này là Anna Maria Franziska xứ Sachsen-Lauenburg có cơ hội thừa kế tước vị Công tước xứ Sachsen. Trên thực tế, Georg Wilhelm là nội huyền tôn của Magnus I thông qua tằng tổ mẫu là Dorothea xứ Sachsen-Lauenburg, và con cháu của ông sẽ kế thừa ngôi vị quân chủ Anh quốc từ năm 1714. Năm 1814, sau khi bị phế truất vài lần trong quá trình diễn ra cuộc chiến tranh Napoleon, con trai của Geogre III là nhiếp chính vương Geogre đồng ý nhượng xứ Sachsen-Lauenburg cho người chú người Đan Mạch trong tiến trình tái cấu trúc lại các phần lãnh thổ trong Đại hội Viên. Người chú đó là Frederik VI của Đan Mạch, và ông cũng là người đổi màu huy hiệu của xứ Sachsen-Lauenburg sang đỏ và vàng. Công quốc tiếp tục đổi chủ trong năm 1865, lần này Christian IX của Đan Mạch bị phế truất trong chiến tranh Schleswig lần thứ hai và bị buộc phải từ nhiệm theo Hòa ước Viên, theo đó, xứ Sachsen-Lauenburg được chuyển giao cho Wilhelm I của Phổ, với Hội đồng đẳng cấp xứ Sachsen-Lauenburg là bên tiếp nhận vương quyền. Huy hiệu giờ đây được đổi thành màu đỏ và bạc, với viền ngoài là màu đen và trắng đặc trưng của Phổ. Cả bên phía công tước lẫn bên phía các đẳng cấp quyết định sát nhập xứ Sachsen-Lauenburg vào nước Phổ, với tên gọi mới là quận Công quốc Lauenburg, có hiệu lực chính thức từ ngày 1 tháng 7 năm 1876.
Nhà Wettin
Nhánh Askanier của xứ Sachsen-Wittenberg tuyệt tư sau cái chết của tuyển hầu tước Albrecht III năm 1422, và ngay sau đó hoàng đế Sigismund trao phần đất của tuyển hầu quốc cho Phiên hầu tước Friedrich IV xứ Meißen, đồng minh trung thành của Hoàng đế trong chiến tranh Hussite. Friedrich IV giờ đây không chỉ kiểm soát xứ Sachsen-Wittenberg mà còn kiểm soát Phiên hầu quốc Meißen và Phương Bá quốc Thüringen với tư cách là một thành viên của nhà Wettin (gia tộc này cai trị hai vùng này trước đó lần lượt vào các năm 1089 và 1242). Do đó, khi toàn bộ các vùng đất vừa nêu trên thống nhất với nhau cả về mặt lãnh thổ lẫn người cai trị vào năm 1423, cái tên Thượng Sachsen (tên gọi đơn giản hơn là Sachsen) được gán cho vùng đất mới thống nhất này.
Sự phân chia Sachsen dưới thời nhà Wettin.
Danh sách
Vương quốc Sachsen
Đế quốc La Mã Thần thánh giải thể năm 1806. Tuyển hầu quốc Sachsen, đồng minh của Napoleon I, thúc đẩy nhanh hơn sự giải thể này bằng cách trở thành người cai trị của Vương quốc Sachsen độc lập được vào cùng trong năm này
Người đứng đầu nhà Wettin (từ năm 1918)
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Dưới đây là danh sách các nhà cai trị vùng lãnh thổ Sachsen từ khi còn là một công quốc ở thế kỷ thứ 9 cho đến khi chế độ quân chủ của người Đức
:_Xem thêm: Danh sách phối ngẫu quốc vương Anh._ Đã có 13 vị quốc vương Anh kể từ liên minh chính trị giữa xứ Anh (_England_) và xứ Scotland vào ngày 1 tháng 5 năm
Đây là danh sách tất cả các vị vua trị vì trong lịch sử nước Nga, bao gồm các danh hiệu Đại vương công Novgorod, Đại vương công Kiev, Đại vương công Vladimir, Đại vương
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Insulae_Sardiniae_novae_accurata_descriptio_-_Janssonius_Johannes,_1642-44.jpg|nhỏ|Huy hiệu của Vương quốc Sardegna từ thế kỷ 14 Sardegna ban đầu được cai trị bởi nền văn minh Nuragic, theo sau đó là cuộc xâm lược của Hy Lạp, bị người Carthage chinh
Dưới đây là danh sách những người cai trị các thế chế quân chủ ở Ba Lan từ khoảng giữa thế kỷ thứ 10 cho đến năm 1795, từ các Công tước và Vương công
**Quân chủ Bỉ** (tiếng Hà Lan: _Belgische monarchie_; tiếng Pháp: _Monarchie belge_; tiếng Đức: _Belgische Monarchie_) là người giữ ngai vàng của Vương quốc Bỉ, đồng thời cũng là nguyên thủ quốc gia của nước
**Chế độ quân chủ Habsburg** () hoặc **đế quốc Habsburg** là một tên gọi không chính thức giữa các nhà sử học của các quốc gia và tỉnh được cai trị bởi các chi nhánh
Dưới đây là danh sách **bầu cử** diễn ra trong năm **2024**. ## Châu Á ### * Tháng 4-5: Tổng tuyển cử Ấn Độ 2024. ### * 7 tháng 2: Bầu cử tổng thống Azerbaijan
Vương quốc **in đậm** là vương quốc chứa nhiều các vương quốc nhỏ. ## Châu Phi * Ai Cập cổ đại - (3150 TCN - 30 TCN) * Vương quốc Kerma - (2500 TCN -
**Victoire xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld** (17 tháng 8 năm 1786 - 16 tháng 3 năm 1861), là một Công nữ người Đức của Công quốc Sachsen-Coburg-Saalfeld, từng là Vương phi xứ Leiningen với tư cách là vợ
**Charles Edward** (_Leopold Charles Edward George Albert_;19 tháng 7 năm 1884 - 6 tháng 3 năm 1954) sinh ra là một Vương tử Anh và Công tước xứ Albany, sau cái chết không để lại
**Richard I** (8 tháng 9 năm 1157 – 6 tháng 4 năm 1199) là Quốc vương nước Anh từ 6 tháng 7 năm 1189 cho tới khi mất. Ông cũng là Công tước của Normandy,
thumb|[[Victoria của Anh cùng chồng là Albrecht xứ Sachsen-Coburg và Gotha.]] Dưới đây là danh sách các hôn phối của Quốc vương và Nữ vương cai trị nước Anh từ năm 1707 trở đi. Sở
**Augusta xứ Sachsen-Weimar-Eisenach** (_Maria Luise Augusta Catherina_; 30 tháng 9 năm 1811 – 7 tháng 1 năm 1890), là Vương hậu Phổ và trở thành hoàng hậu đầu tiên của Đế chế Đức sau khi
**Quân đội Hoàng gia Phổ** () là lực lượng quân sự của Vương quốc Phổ (nguyên là lãnh địa Tuyển hầu tước Brandenburg trước năm 1701). Quân đội Phổ đóng vai trò quan trọng trong
**Albrecht xứ Sachsen-Coburg và Gotha** (26 tháng 8 năm 1819 – 14 tháng 12 năm 1861), tên đầy đủ cùng tước hiệu khi sinh là **Franz Albrecht August Karl Emanuel von Sachsen-Coburg-Saalfeld, Công tước xứ
**Tuyển đế hầu August xứ Sachsen** (31 tháng 7 năm 1526 – 11 tháng 2 năm 1586) là Tuyển hầu xứ Sachsen từ năm 1533 đến khi qua đời vào năm 1586, và là tuyển
**Frederick Augustus III** (tiếng Đức: Friedrich August III; 25/05/1865 - 18/02/1932) là vị Vua cuối cùng của Vương quốc Sachsen, tại vị từ năm 1904 đến khi thoái vị vào năm 1918, ông là thành
:_Lục quân Đế quốc Đức được đổi hướng đến đây. Để tìm hiểu các nghĩa khác, xem bài Lục quân Đế quốc La Mã Thần thánh và Lục quân Áo và Hungary trong Chiến tranh
**Ernst II xứ Sachsen-Coburg và Gotha** (tiếng Đức: _Ernst II. von Sachsen-Coburg und Gotha_; tiếng Tây Ban Nha: _Ernesto II of Sajona-Coburgo y Gotha_; tiếng Anh: _Ernest II of Saxe-Coburg and Gotha_; tên đầy đủ:
**Công quốc Sachsen-Coburg và Gotha** (tiếng Đức: _Herzogtum Sachsen-Coburg und Gotha_) là một nhà nước cấu thành nên Đế quốc Đức, được cai trị bởi một trong những nhánh của dòng Ernestine, chi trưởng của
**Edward VII của Anh** (Albert Edward; 9 tháng 11 năm 1841 – 6 tháng 5 năm 1910) là Quốc vương Vương quốc Anh và các quốc gia tự trị của Anh, và Hoàng đế Ấn
**Albert I của Sachsen** (tên đầy đủ: _Friedrich August Albrecht Anton Ferdinand Joseph Karl Maria Baptist Nepomuk Wilhelm Xaver Georg Fidelis_) (sinh ngày 23 tháng 4 năm 1828 tại Dresden – mất ngày 19 tháng
**Franz I xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld** (tên đầy đủ: _Franz Friedrich Anton, Herzog von Sachsen-Coburg-Saalfeld_; 15 tháng 7 năm 1750 – 9 tháng 12 năm 1806), là một trong những công tước có chủ quyền thuộc dòng
**William IV của Liên hiệp Anh** (William Henry; 21 tháng 8 năm 1765 – 20 tháng 6 năm 1837) là Quốc vương Vương quốc Anh và Vua của Hannover từ 26 tháng 6 năm 1830 cho
**Công quốc Sachsen-Lauenburg** (), được gọi là **Niedersachsen** (_Hạ Sachsen_) từ giữa thế kỷ XIV và XVII, là một Công quốc reichsfrei tồn tại 1296–1803 và 1814–1876 ở khu vực cực Đông Nam hiện nay
Tiếng Anh: John Nepomuk Maria Joseph Anthony Xavier Vincent Aloysius Francis de Paula Stanislaus Bernard Paul Felix Damasus | kiểu hoàng tộc = Vương tộc | hoàng tộc = Nhà Wettin | cha =
**Anton I của Sachsen** (tiếng Đức: _Anton I. von Sachsen_; 27 tháng 12 năm 1755 – 6 tháng 6 năm 1836) là Quốc vương Sachsen từ Vương tộc Wettin. Anton I được biết đến với
**Trận Kolín** diễn ra vào ngày 18 tháng 6 năm 1757 trên chiến trường Trung Âu của cuộc Chiến tranh Bảy năm, giữa 35.000 quân Phổ do vua Friedrich Đại đế chỉ huy và hơn
**Adelheid xứ Sachsen-Meiningen** (_Adelheid Amalie Luise Therese Caroline_; 13 tháng 8 năm 1792 – 2 tháng 12 năm 1849) là Vương hậu của Vương quốc Liên hiệp Anh và Hanover từ ngày 26 tháng 6
**Cộng hòa Dân chủ Đức** (**CHDC Đức** hay **CHDCĐ**; - **DDR**), thường được gọi là **Đông Đức** dựa trên việc nước này quản lý phần lãnh thổ phía Đông của Đức (để phân biệt với
thumb|Huy hiệu của dòng Ernestines **Các công quốc Ernestine** (tiếng Đức: _Ernestinische Herzogtümer_), còn được gọi là các công quốc Sachsen (Sächsische Herzogtümer, mặc dù các công quốc được cai trị bởi dòng Albertine gồm
**Chiến tranh Bảy Năm** (1756–1763) là cuộc chiến xảy ra giữa hai liên quân gồm có Vương quốc Anh/Vương quốc Hannover (liên minh cá nhân), Vương quốc Phổ ở một phía và Pháp, Áo, Nga,
thumb|Bản đồ đế quốc La Mã Thần Thánh dưới triều Hoàng đế [[Karl IV của Thánh chế La Mã|Karl IV]] **Đế quốc La Mã Thần Thánh** (tiếng Latinh: _Sacrum Romanum Imperium_; tiếng Đức: _Heiliges Römisches
**Trận Villiers**, còn gọi là **Trận Champigny-Villiers**, **Trận Champigny** hay **Trận Đại đột vây từ Paris**, diễn ra từ ngày 29 tháng 11 cho tới ngày 3 tháng 12 năm 1870 khi quân đội Phổ-Đức
**Quốc vương Thụy Điển** () là người đứng đầu Vương quốc Thụy Điển. Vua truyền ngôi theo chế độ cha truyền con nối; có hệ thống nghị viện phụ việc cho ông. Thời xa xưa,
**Chiến tranh Ba Mươi Năm** bắt đầu từ năm 1618, kết thúc năm 1648, chủ yếu diễn ra tại vùng nay là nước Đức và bao gồm hầu hết các cường quốc của châu Âu
**George III của Liên hiệp Anh** (George William Frederick; 4 tháng 6 năm 1738 – 29 tháng 1 năm 1820) là Quốc vương Đại Anh và Ireland cho đến khi hai vương quốc hợp nhất
**Chiến tranh Pháp – Phổ** (19 tháng 7 năm 1870 – 28 tháng 1 năm 1871), thời hậu chiến còn gọi là **chiến tranh Pháp – Đức** (do sự kiện thống nhất nước Đức ở
**Tuyển đế hầu** (; ; ), còn được gọi tắt là **Tuyển hầu**, là tước vị dưới thời đại Đế quốc La Mã Thần thánh, dành để gọi những người trong Đại cử tri đoàn
**Ernst I, Công tước xứ Sachsen-Gotha**, có biệt danh là **Ernst Ngoan đạo** (25 tháng 12 năm 1601 – 26 tháng 3 năm 1675) là công tước của Sachsen-Gotha và Sachsen-Altenburg thuộc Các công quốc
Nước Đức được thành lập từ **16 bang** (tiếng Đức: _Land_ (số ít) hoặc _Länder_ (số nhiều)), vì thế có quốc hiệu đầy đủ là Cộng hòa Liên bang Đức. Mỗi bang là một thực
thumb|[[Carlo Ferdinando của Hai Sicilie|Carlo Ferdinando của Hai Siclie, Thân vương xứ Capua (trên cùng), cùng với người vợ quý tiện kết hôn của mình Anh-Ailen Penelope Smyth (trái), và con gái của họ, Vittoria
**Vương quốc Hannover** (tiếng Đức: _Königreich Hannover_; tiếng Anh: _Kingdom of Hanover_) được thành lập vào tháng 10/1814 bởi Đại hội Viên trên cơ sở lãnh thổ cũ của Tuyển hầu quốc Hannover (Braunschweig-Lüneburg) trong
**Trận Königgrätz**, còn gọi là **Trận Sadowa** hay **Trận Sadová** theo tiếng Tiệp Khắc, là trận đánh then chốt của cuộc Chiến tranh Áo-Phổ, diễn ra vào ngày 3 tháng 7 năm 1866, và chấm
thumb|Quốc huy của các nhà nước trong Đế chế Đức (5 hàng trên) và huy hiệu của các tỉnh trong [[Vương quốc Phổ (2 hàng dưới), năm 1900]] thumb|Bản đồ các Nhà nước cấu thành
**Trận Mons Badonicus** (tiếng Anh: **_Mount Badon_**, Tiếng Wales: **_Mynydd Baddon_**) là một trận đánh giữa đội quân của người Briton và quân xâm lược Angles và Sachsen, không thể là diễn ra giữa các
**Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha** (1701–1714) là một cuộc xung đột chính trị quân sự ở châu Âu đầu thế kỉ XVIII, được kích nổ bởi cái chết của vị vua cuối cùng
**Đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ** (Tiếng Đức: _Großer Türkenkrieg_), còn được gọi là **Chiến tranh Liên đoàn Thần thánh** (Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: _Kutsal İttifak Savaşları_), là một loạt các cuộc xung đột giữa Đế
**George I** (George Louis; ; 28 Tháng 5 năm 1660 – 11 tháng 6 năm 1727. Ông là con trai cả của Ernest Augustus, Công tước xứ Brunswick-Lüneburg, và vợ của ông, Sophia xứ Palatinate.