✨Jean I xứ Bourgogne

Jean I xứ Bourgogne

Jean I xứ Bourgogne (; 28 tháng 5 năm 137110 tháng 9 năm 1419), còn được gọi là Jean Dũng cảm (; ) là một thành viên trong dòng dõi của hoàng gia Pháp, là một trong những người cai trị công quốc Bourgogne từ năm 1404 cho đến khi ông qua đời vào năm 1419. Ông đóng một vai trò quan trọng trong các vấn đề quốc gia của Pháp vào đầu thế kỷ 15, đặc biệt là trong các cuộc đấu tranh để cai trị đất nước cho Vua Charles VI, khi người anh họ của ông bị bệnh tâm thần, và trong cả cuộc Chiến tranh Trăm Năm với nước Anh. Jean bị cho là một chính trị gia hấp tấp, tàn nhẫn và vô đạo đức, khi đã sát hại em trai của nhà vua là Louis xứ Orléans trong một nỗ lực nhằm giành quyền kiểm soát triều đình, dẫn đến sự bùng nổ của Nội chiến Armagnac-Bourgogne ở Pháp và đỉnh điểm là vụ ám sát chính ông vào năm 1419.

Sự tham gia của Charles, người thừa kế ngai vàng Pháp trong vụ ám sát ông đã thúc đẩy con trai của Jean, Philippe III tìm kiếm một liên minh với người Anh, qua đó đưa Chiến tranh Trăm năm đến giai đoạn cuối.

Cuộc sống ban đầu

Jean được sinh ra tại Dijon vào ngày 28 tháng 5 năm 1371, là con trai của Công tước Philippe Táo bạo và Nữ bá tước Marguerite III xứ Flandre. Sau khi ông ngoại là Bá tước Louis II xứ Flandre qua đời vào năm 1384, ông được thừa hưởng lãnh địa bá tước Nevers từ họ ngoại.

Năm 1385, một đám cưới đôi cho gia đình công tước Bourgogne đã diễn ra ở Cambrai. Jean kết hôn với Margarete, con gái Bá tước Albrecht I xứ Holland, trong khi em gái của ông, Marguerite, kết hôn với William, con trai của Albrecht để củng cố vị trí của Jean ở vùng đất thấp. Cuộc hôn nhân diễn ra sau khi Jean hủy hôn ước với người chị họ của mình, Catherine, con gái của Vua Charles V của Pháp, lúc đó mới chỉ là một đứa trẻ.

Trước khi cai quản Công quốc Bourgogne, Jean là một trong những nhà lãnh đạo chính của lực lượng Pháp được cử đến hỗ trợ Vua Sigismund của Hungary trong cuộc chiến chống lại Sultan Bayezid I. Jean đã chiến đấu trong Trận Nikopolis ngày 25 tháng 9 năm 1396 với sự nhiệt tình và dũng cảm mà ông đã được trao danh hiệu Sans-Peur (Dũng cảm). Bất chấp bản lĩnh cá nhân của mình, sự lãnh đạo nóng nảy của ông đã kết thúc trong thảm họa cho chuyến hành quân châu Âu. Ông bị bắt và không được thả tự do cho đến năm sau, sau khi trả một khoản tiền chuộc khổng lồ.

Xung đột với phe Orléans

trái|nhỏ|Vụ ám sát Jean Dũng cảm trên Cầu Montereau, vào năm 1419. Bản sao thu nhỏ trong "Biên niên sử" của Monstrelet, bản thảo của thế kỷ 15, trong [[Thư viện Arsenal của Paris.]] Jean thừa kế Công quốc Bourgogne vào năm 1404 sau khi cha mình qua đời và các lãnh địa bá tước Flanders, và Artois sau khi mẹ qua đời vào năm 1405. Ông gần như ngay lập tức xung đột với Công tước Louis xứ Orléans, em trai vua Charles VI. Cả hai người đều cố gắng lấp đầy khoảng trống quyền lực do vị vua bị bệnh mất trí để lại.

Jean đã chơi một trò luẩn quẩn với hôn nhân bằng cách hoán đổi vị tri con gái Marguerite cho Michelle của Pháp, người sẽ kết hôn với người thừa kế của ông, Philippe III. Về phần mình, Marguerite đã kết hôn với Louis, Công tước xứ Guyenne, người thừa kế ngai vàng Pháp từ năm 1401 cho đến khi ông qua đời năm 1415. Vì tất cả sự tập trung vào chính trị quý tộc, Jean vẫn không bỏ qua tầm quan trọng của tầng lớp thương nhân trung lưu và thợ buôn bán hoặc Đại học Paris.

Louis đã cố gắng giành được sự sủng ái từ vợ của Charles VI, vương hậu Isabeau của Pháp, và có thể ông đã trở thành người tình của bà. Sau khi con rể của ông, Dauphin Louis, liên tiếp bị bắt cóc và được cả hai bên phục hồi, Công tước xứ Bourgogne đã tìm cách được bổ nhiệm theo sắc lệnh hoàng gia — trong một trong những giai đoạn "vắng mặt" của Nhà vua khi bệnh tâm thần biểu hiện - làm người giám hộ của Dauphin và những đứa con của Vua. Tuy nhiên, điều này không cải thiện quan hệ giữa Jean và Công tước xứ Orléans, thậm chí còn làm bùng nổ xung đột công khai giữa họ. Trong những nỗ lực hòa giải nhằm tránh một cuộc nội chiến, Công tước Jean xứ Berry đã yêu cầu cả hai người phải tuyên thệ hòa giải trước triều đình vào ngày 20 tháng 11 năm 1407; nhưng chỉ ba ngày sau, vào ngày 23 tháng 11 năm 1407, Louis bị ám sát dã man trên đường phố Paris. Không ai nghi ngờ gì, mệnh lệnh đến từ Công tước xứ Bourgogne, người ngay sau đó đã thừa nhận chủ mưu và tuyên bố đó là một hành động chính đáng. Theo Thomas Walsingham, công tước Orléans chỉ đơn giản là nhận lấy những báo ứng vì ông ta đã "tự sướng với gái điếm, loạn luân" và đã ngoại tình với vợ của một hiệp sĩ giấu tên, người đã trả thù ông ta bằng cách giết ông ta dưới sự bảo vệ của Công tước xứ Bourgogne. Sau khi trốn thoát khỏi Paris và một vài cuộc giao tranh với nhóm Orléans, Jean đã thu phục được sự sủng ái của Nhà vua. Trong hiệp ước Chartres được ký vào ngày 9 tháng 3 năm 1409, Nhà vua đã tha tội cho Công tước xứ Bourgogne, ra lệnh cho ông và con trai của Louis là Charles cam kết hòa giải. Một sắc lệnh sau đó đã đổi mới quyền giám hộ Dauphin của Jean.

Ông tiến xa hơn đến việc đảm bảo Vương quyền cho chính mình khi xử tử Jean de Montagu, Đại tổng quản của Pháp (Grand Maître de France), một cận thần của của nhà vua thuộc cánh Orlean. Lợi dụng một cuộc nổi loạn của Charles, Montagu bị bắt và bị xử chặt đầu tại Gibbet của Montfaucon vào ngày 17 tháng 10 năm 1409, sau một phiên tòa chóng vánh gồm toàn những quý tộc phe Bourgogne.

Ngay cả khi cuộc tranh chấp ở Orléans được giải quyết có lợi cho mình, Jean vẫn không được yên ổn. Charles chỉ mới 14 tuổi vào thời điểm cha mình bị sát hại, buộc phải phụ thuộc rất nhiều vào các đồng minh để hỗ trợ yêu cầu của cậu đối với tài sản đã bị tịch thu từ Jean. Đứng đầu trong số các đồng minh này không ai khác chính là cha vợ của cậu, Bernard VII xứ Armagnac. Vì liên minh này, phe của họ được gọi là Armagnacs, đối lập với phe Bourgogne. Với hòa bình giữa các phe phái được tuyên thệ một cách long trọng vào năm 1410, Jean trở về Bourgogne và Bernard ở lại Paris, nơi ông được cho là đã ngủ chung giường của vương hậu. Đảng Armagnac không bằng lòng với mức độ quyền lực chính trị của mình, và sau một loạt các cuộc bạo động và tấn công chống lại người dân, Jean bị triệu tập về thủ đô, sau đó được gửi trở lại Bourgogne vào năm 1413. Lúc này, vua Henry V của Anh xâm lược lãnh thổ Pháp và đe dọa tấn công Paris. Trong các cuộc đàm phán hòa bình với phe Armagnacs, Henry cũng tiếp xúc với Jean, người đang muốn giành quyền kiểm soát nước Pháp từ tay Vua Charles VI. Mặc dù vậy, ông vẫn tiếp tục cảnh giác về việc thành lập một liên minh với người Anh vì sợ phá hủy sự nổi tiếng to lớn của ông với người dân Pháp. Khi Henry yêu cầu sự ủng hộ của phe Bourgogne cho việc tuyên bố ông là Vua hợp pháp của Pháp, nhưng Jean đã rút lui và quyết định liên minh với phe Armagnacs. Quân đội của ông đã không tham gia Trận Agincourt năm 1415, mặc dù hai em trai ruột của ông, Antoine xứ Brabant, và Philippe II xứ Nevers, đã hy sinh khi chiến đấu cho Pháp trong trận chiến.

Xung đột với Dauphin

nhỏ|Ảnh thu nhỏ cho thấy Jean không sợ hãi Vụ ám sát của ông ta trên cây cầu ở Montereau, được vẽ bởi [[Master of the Prayer Books]] Hai năm sau, sự cạnh tranh giữa hai phe Bourgogne và Armagnacs đã lên mức đỉnh điểm vì thất bại tan nát tại Agincourt, quân của Jean bắt đầu nhiệm vụ đánh chiếm Paris. Vào ngày 30 tháng 5 năm 1418, ông đã chiếm được thành phố, nhưng không phải trước khi Dauphin mới, Charles VII tương lai của Pháp đã trốn thoát. Jean sau đó tự để mình ở Paris và trở thành người bảo vệ cho Nhà vua. Mặc dù không phải là một đồng minh cởi mở của người Anh, Jean đã không làm gì để ngăn cản sự đầu hàng của Rouen vào năm 1419. Với toàn bộ miền bắc nước Pháp trong tay Anh và Paris bị Bourgogne chiếm đóng, Dauphin đã cố gắng đưa ra một sự hòa giải với Jean. Họ gặp nhau vào tháng 7 và tuyên thệ hòa bình trên cầu Pouilly, gần Melun. Với lý do hòa bình không được đảm bảo bằng cuộc họp tại Pouilly, một cuộc phỏng vấn mới do Dauphin đề xuất diễn ra vào ngày 10 tháng 9 năm 1419 trên cây cầu ở Montereau. Jean đã có mặt cùng với đoàn hộ tống của mình cho những gì ông ấy coi là một cuộc họp ngoại giao. Tuy nhiên, ông đã bị ám sát bởi những người bạn của Dauphin. Sau đó ông được chôn cất tại Dijon. Sau đó, con trai ông và người kế nhiệm, Philippe đã thành lập một liên minh với người Anh, điều này sẽ kéo dài Chiến tranh Trăm năm trong nhiều thập kỷ và gây ra thiệt hại khôn lường cho nước Pháp và các thần dân của vương quốc.

Gia phả

Gia đình

Jean và phu nhân Marguarite kết hôn năm 1385, và có những hậu duệ sau:

  • Catherine (1391–1414, Ghent), đã hứa hôn vào năm 1410 với một người con trai của Louis xứ Anjou

  • Marie (139330 tháng 10 năm 1463, Monterberg bei Kalkar). Kết hôn với Adolph I, Công tước xứ Cleves;

  • Marguarite (Tháng 12 năm 1393Tháng 2 năm 1442, Paris), kết hôn vào ngày 30 tháng 8 năm 1404 với Louis (người thừa kế của vua Charles VI của Pháp), sau đó vào năm 1423 kết hôn với Arthur de Richemont, Công tước tương lai của Brittany;

  • Philippe (1396–1467) con trai và người thừa kế;

  • Isabelle (mất ngày 18 tháng 9 năm 1412, Rouvres), kết hôn tại Arras vào 22 tháng 6 năm 1406 với Olivier de Châtillon-Blois, Bá tước xứ Penthièvre và Périgord;

  • Jeanne (sinh 1399, Bouvres), chết trẻ;

  • Anne (140414 tháng 11 năm 1432, Paris), kết hôn với John, Công tước xứ Bedford

  • Agnes (14071 tháng 12 năm 1476, Château de Moulins), kết hôn với Charles I, Công tước xứ Bourbon. Jean và tình nhân Agnes de Croy, con gái của Jean I de Croÿ, có 1 đứa con ngoài giá thú sau:

  • Jean de Bourgogne, Giám mục xứ Cambrai Jean và tình nhân Marguerite de Borsele có những đứa con sau:

  • Guy xứ Bourgogne, Lãnh chúa xứ Kruybeke (bị giết trong cuộc bao vây Calais năm 1436), kết hôn với Johanna, con gái ngoài giá thú của Albrecht I, Công tước xứ Bavaria.

  • Antoine xứ Bourgogne.

  • Philipotte xứ Bourgogne, Nữ chúa xứ Joncy, kết hôn với Antoine xứ Rochebaron, Nam tước xứ Berze-le-Chatel.

Danh hiệu

  • Tập tin:Blason comte fr Nevers.svg 1384–1404: Công tước và bá tước xứ Nevers với tư cách Jean I
  • Tập tin:Blason fr Bourgogne.svg ngày 27 tháng 4 năm 140410 tháng 8 năm 1419: Công tước xứ Bourgogne với tư cách Jean I
  • Tập tin:Blason comte fr Nevers.svg ngày 21 tháng 3 năm 140510 tháng 9 năm 1419: Quyền bá tước xứ Bourgogne với tư cách Jean I
  • Tập tin:Blason province fr Artois.svg 21 tháng 3 năm 140510 tháng 9 năm 1419: Bá tước xứ Artois với tư cách Jean I
  • Tập tin:Blason Nord-Pas-De-Calais.svg 21 tháng 3 năm 140510 tháng 9 năm 1419: Bá tước xứ Flandre với tư cách Jean I
  • Tập tin:Blason Charolais.svg 27 tháng 4 năm 140428 tháng 1 năm 1405: Bá tước xứ Charolais với tư cách Jean I
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Jean I xứ Bourgogne** (; 28 tháng 5 năm 137110 tháng 9 năm 1419), còn được gọi là **Jean Dũng cảm** (; ) là một thành viên trong dòng dõi của hoàng gia Pháp, là
**Jean xứ Berry** (; 30 tháng 11 năm 1340 - 15 tháng 6 năm 1416), còn có biệt danh là **Jean Hoa lệ** (_Jean le Magnifique_), là Công tước các xứ Berry, Auvergne và Bá
**Marguerite xứ Bourgogne** (; 1290 – 30 tháng 4 1315) là một vương hậu Pháp với tư cách kết hôn với Vua Louis X và I. ## Cuộc sống Marguerite là một công nữ của
**Jeanne I xứ Auvergne** (; 8 tháng 5 năm 1326 - 29 tháng 9 năm 1360, Chateau d'Argilly) là nữ bá tước của Auvergne và Boulogne trong những năm 1332–1360, và là Vương hậu Pháp
**Jeanne II xứ Bourgogne** (; 15 tháng 1 năm 1292 – 21 tháng 1 năm 1330), là một Vương hậu của Pháp khi kết hôn với vua Philippe V của Pháp. Bà cũng giữ tước
phải|nhỏ|Hình ảnh mô tả cảnh Charles bị giam cầm trong Tháp Luân Đôn từ một bản thảo được phát hiện về các bài thơ của ông **Charles I xứ Orléans** (24 tháng 11 năm 1394
**Jeanne xứ Bourgogne** (; 24 tháng 6 năm 1293 - 12 tháng 12 năm 1349), còn được biết với biệt danh **Jeanne Què quặt** (tiếng Pháp: _Jeanne la Boiteuse_), là một Vương hậu của Pháp
**Louis I xứ Orléans** (; 13 tháng 3 năm 1372 - 23 tháng 11 năm 1407) là Công tước xứ Orléans từ năm 1392 cho đến khi ông qua đời. Ông cũng là Công tước
**Isabelle xứ Bourgogne** (; 1270 – tháng 8 năm 1323), đôi khi được gọi là **Élisabeth** hoặc **Agnès**, là vương hậu Đức với tư cách người vợ thứ hai và cũng là cuối cùng của
Trong lịch sử của Các quốc gia Vùng Trũng, **Nê-đéc-lan Bourgogne** (, , , ) là một số lãnh thổ thuộc Đế quốc La Mã Thần thánh và Pháp được cai trị trong liên minh
**François I** (tiếng Pháp: François Ier; tiếng Pháp Trung cổ: Francoys; 12 tháng 9 năm 1494 – 31 tháng 3 năm 1547) là Quốc vương Pháp từ năm 1515 cho đến khi qua đời vào
**Anne xứ Bretagne** (tiếng Pháp: _Anne de Bretagne_; tiếng Breton: _Anna Vreizh hay Anna Breizh_; 25 tháng 1 năm 1477 – 9 tháng 1 năm 1514), là Nữ công tước xứ Bretagne và Vương hậu
**Blanca của Navarra** (; 1226 – 12 tháng 8 năm 1283), còn được gọi là **Blanca xứ Champagne** (), là con gái của Thibaut I, Vua của Navarra và Bá tước Champagne, và người vợ
**Élisabeth Charlotte xứ Pfalz, Công tước phu nhân xứ Orléans**; ; ; 27 tháng 5 năm 1652 – 8 tháng 12 năm 1722), còn được gọi là **Liselotte von der Pfalz**, là thành viên của
**Marie xứ Anjou** (tiếng Pháp: _Marie de Anjou_) sinh ngày 14 tháng 10 năm 1404 - ngày 29 tháng 11 năm 1463 là Vương hậu nước Pháp từ năm 1422 đến năm 1461 với tư
**Vương tộc Valois** ( , also , ) là một nhánh phụ của triều đại Capet. Vương tộc này kế vị Vương tộc Capet (hay "Nhánh chính Capet") lên ngai vàng Pháp, và là hoàng
**Marguerite xứ Provence** (; 1221 – 20 tháng 12 năm 1295) là Vương hậu của Pháp với tư cách là phối ngẫu của Vua Louis IX. ## Cuộc sống ban đầu Marguerite sinh vào mùa
**Elizabeth xứ York** (tiếng Anh: _Elizabeth of York_; tiếng Pháp: _Élisabeth d'York_; Tiếng Tây Ban Nha: _Isabel de York_; 11 tháng 2, năm 1466 - 11 tháng 2, năm 1503), là Vương hậu của Vương
**Anne của Pháp** (tiếng Pháp: _Anne de France_; tiếng Ý: Anna di Francia; tiếng Tây Ban Nha: Ana de Francia; 3 tháng 4, năm 1461 - 14 tháng 11, năm 1522), hoặc **Anne xứ Beaujeu**
**Louis XV** (15 tháng 2 năm 1710 – 10 tháng 5 năm 1774), biệt danh **Louis Đáng yêu**, là quân vương của Vương tộc Bourbon, giữ tước hiệu Vua của Pháp từ 1 tháng 9
**Louis XVI của Pháp** (23 tháng 8 năm 1754 – 21 tháng 1 năm 1793) là quân vương nhà Bourbon, cai trị nước Pháp từ năm 1774 đến 1792, rồi bị xử tử hình năm
**Louis XIV của Pháp** (; 5 tháng 9 năm 16381 tháng 9 năm 1715), còn được gọi là **Louis Đại đế** (, ) hay **Vua Mặt Trời** (, ), là một quân chủ thuộc Nhà
**Louis XVIII** (Louis Stanislas Xavier; 17 tháng 11 năm 1755 - 16 tháng 9 năm 1824), có biệt danh là "le Désiré", là vua của Vương quốc Pháp từ năm 1814 đến năm 1824, bị
**Philippe VI của Pháp** (tiếng Pháp: Philippe; 1293 - 22 tháng 8 năm 1350), được gọi là _Fortunate_ (tiếng Pháp: _le Fortuné_) là bá tước của Valois, là vị vua đầu tiên của Pháp từ
**Louis X của Pháp** (; tháng 10 năm 1289 – 5 tháng 6 năm 1316), hay **Luis I của Navarra** (), còn có biệt danh là **le Hutin** (_Kẻ cứng đầu_), là vua Navarra từ
**Mary Henrietta của Anh hay Mary Henrietta, Vương nữ Vương thất** (tiếng Anh: _Mary Henrietta of England_, _Mary Henrietta, Princess Royal_; 4 tháng 11 năm 1631 - 24 tháng 12 năm 1660), là một Vương
**Leopold II** (tiếng Đức: _Peter Leopold Josef Anton Joachim Pius Gotthard_; tiếng Ý: _Pietro Leopoldo Giuseppe Antonio Gioacchino Pio Gottardo_; tiếng Anh: _Peter Leopold Joseph Anthony Joachim Pius Godehard_; 5 tháng 5 năm 1747 1
**Louis XI le Prudent** (3 tháng 7 năm 1423 – 30 tháng 8 năm 1483), được gọi là Thận trọng, là một quốc vương của Nhà Valois, người cai trị nước Pháp từ năm 1461
thumb|Huy hiệu vương miện của các _Enfants de France_. **Fils de France** () và **Fille de France** (), có nghĩa là _"Con trai nước Pháp"_ cùng _"Con gái nước Pháp"_, là một danh xưng và
**Juana II của Navarra** (; tiếng Basque: Joana II.a Nafarroakoa; ; 28 tháng 1 năm 1312 - 6 tháng 10 năm 1349) là nữ vương của Navarra từ năm 1328 cho đến khi bà qua
nhỏ|HÌnh thu nhỏ trong một sách thánh vịnh của Jutta von Luxemburg năm 1348/49 của Jean Le Noir, hiện trưng bày tại [[Viện bảo tàng Mỹ thuật Metropolitan|Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan, New York.]] **Jutta
phải|Sự sụp đổ của Constantinopolis, Trong hình là [[Mehmed II đang dẫn quân tiến vào thành. Tranh của Fausto Zonaro.]] **Hậu kỳ Trung Cổ** hay **Giai đoạn cuối Trung Cổ** (tiếng Anh: _Late Middle Ages_)
**Felipe III** (, , ; 27 tháng 3 năm 1306 – 16 tháng 9 năm 1343), là một vị vua của vương quốc Navarra từ năm 1328 cho đến khi ông qua đời. Felipe sinh
**Chiến tranh Trăm Năm** là cuộc chiến tranh giữa Anh và Pháp kéo dài từ năm 1337 đến năm 1453 nhằm giành giật lãnh thổ và ngôi vua Pháp. Hai phe chính tham gia vào
phải|thumb|Huy hiệu vương miện của các _Prince du sang_. **Prince du sang** (; tiếng Anh: _Prince of the Blood_), có thể hiểu như **Thân vương**, **Phiên vương** hoặc **Tông thất** nếu xét về các triều
**Charles VI của Pháp** (3 tháng 12 năm 1368 – 21 tháng 10 năm 1422 còn được gọi là **Charles le Bienaimé** hay **Charles le Fol** hoặc **le Fou**) là vị vua Pháp từ 1380
**Blanca xứ Évreux** (; sinh khoảng năm 1331 – 5 tháng mười năm 1398), là vương tằng tôn nữ nước Pháp và Infanta của Navarra với tư cách là thành viên của Gia tộc Évreux
nhỏ|phải|Vương cung thánh đường Saint-Denis **Vương cung Thánh đường Thánh Denis** (tiếng Pháp: _basilique Saint-Denis_ hay _cathédrale Saint-Denis_) là một nhà thờ chính tòa Công giáo, và trước đây là một đan viện dòng Biển
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Insulae_Sardiniae_novae_accurata_descriptio_-_Janssonius_Johannes,_1642-44.jpg|nhỏ|Huy hiệu của Vương quốc Sardegna từ thế kỷ 14 Sardegna ban đầu được cai trị bởi nền văn minh Nuragic, theo sau đó là cuộc xâm lược của Hy Lạp, bị người Carthage chinh
**Philippe III** (1 tháng 5 năm 1245 – 5 tháng 10 năm 1285), còn được biết tới với biệt danh là **Táo bạo** (), là Vua của Pháp từ năm 1270 cho đến khi
**Philippe IV** (Tháng 4 / tháng 6 năm 1268 – 29 tháng 11 năm 1314), được gọi là **Philippe Đẹp Trai** (), là một vị Vua Pháp từ 1285 đến khi qua đời (là vị
**Nữ Đại vương công Margarete của Áo** (tiếng Đức: _Margarete von Österreich_; tiếng Hà Lan: _Margaretha van Oostenrijk_; tiếng Tây Ban Nha: _Margarita de Austria_; tiếng Pháp: _Marguerite d'Autriche_; tiếng Anh: _Margaret of Austria_; sinh
**Jeanne của Pháp hay Jeanne của Valois** (tiếng Pháp: _Jeanne de France/Jeanne de Valois_; tiếng Tây Ban Nha: _Juana de Francia/Juana de Valois_; tiếng Anh: _Joan of France/Joan of Valois_; sinh 13 tháng 12 và
Paris 1878 Paris 2008 **Biên niên sử Paris** ghi lại các sự kiện của thành phố Paris theo thứ tự thời gian. Xem thêm hai bài Lịch sử Paris và Lịch sử Pháp để hiểu
phải|nhỏ|Hầu hết Sâm-panh trong lịch sử có màu đỏ, đây là phiên bản Sâm-panh trắng sủi tăm được biết đến rộng rãi nhất. **Lịch sử rượu sâm panh** là quá trình phát triển rượu vang
**Lorraine** (tiếng Đức: **Lothringen**) từng là một vùng của nước Pháp, bao gồm bốn tỉnh: Meurthe-et-Moselle, Meuse, Moselle và Vosges (theo quan điểm lịch sử, tỉnh Haute-Marne cũng nằm trong vùng), bao gồm 2.337 xã.
**Lịch sử Bỉ** có từ trước khi thành lập nước Bỉ hiện đại năm 1830. Lịch sử Bỉ đan xen với lịch sử các nước láng giềng là Hà Lan, Đức, Pháp và Luxembourg. Trong
**Elizabeth Woodville** (khoảng 1437 - 8 tháng 6, 1492), là Vương hậu của Vương quốc Anh, vợ của Edward IV thuộc nhà York. Bà ở cương vị Vương hậu nước Anh từ năm 1464 cho
phải|nhỏ|Bức _[[Người Vitruvius_ của Leonardo da Vinci thể hiện ảnh hưởng của các tác giả cổ đại lên những nhà tư tưởng thời Phục Hưng. Dựa trên những đặc điểm miêu tả trong cuốn _De
Ngày **1 tháng 3** là ngày thứ 60 (61 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 305 ngày trong năm. ## Sự kiện * 293 – Hoàng đế Diocletianus và Maximianus bổ nhiệm Constantius Chlorus