Louis I xứ Orléans (; 13 tháng 3 năm 1372 - 23 tháng 11 năm 1407) là Công tước xứ Orléans từ năm 1392 cho đến khi ông qua đời. Ông cũng là Công tước xứ Touraine (1386–1392), Bá tước các xứ Valois (1386? –1406), Blois (1397–1407), Angoulême (1404–1407), Périgord (1400–1407) và Soissons (1404–1407).
Tiểu sử
trái|nhỏ|Louis ở trong trại (phía trước). Trong nền, Sigismund kết hôn với Mary
Louis sinh ngày 13 tháng 3 năm 1372, là con trai thứ hai của Vua Charles V của Pháp và Jeanne xứ Bourbon. Ông cũng là em trai của hoàng tử trữ quân Pháp Charles.
Năm 1374, Louis được hứa hôn với Katalin, người thừa kế ngai vàng của Hungary. Louis và Katalin dự kiến sẽ trị vì Hungary hoặc Ba Lan, vì cha của Katalin, Lajos I của Hungary không có con trai. Cha của Katalin cũng dự định để lại cho họ quyền yêu sách của mình đối với Vương quốc Napoli và Lãnh địa Bá tước Provence, lúc đó được nắm giữ bởi người em họ ốm yếu và không có con của ông là Giovanna.Tuy nhiên, cái chết của Katalin vào năm 1378 đã làm đổ vỡ những dự định trên. Năm 1384, Elizabeta xứ Bosnia bắt đầu thương lượng với cha của Louis về khả năng Louis kết hôn với con gái của bà là Mária, bất chấp việc Mária đã đính hôn với Sigismund xứ Luxembourg. Nếu Elizabeth đưa ra đề xuất này vào năm 1378 sau khi Katalin qua đời, thì việc vua Pháp và vua Hungary không thừa nhận cùng một vị giáo hoàng sẽ có vấn đề lớn. Tuy nhiên, Elizabeth đã tuyệt vọng vào năm 1384 và không sẵn sàng để cuộc ly giáo cản trở các cuộc đàm phán. Giáo hoàng đối lập Clement VII đã ban hành một kỳ hạn hủy bỏ lời hứa hôn của Mária với Sigismund và hôn lễ ủy nhiệm giữa Louis và Mária được cử hành vào tháng 4 năm 1385. Tuy nhiên, cuộc hôn nhân không được các nhà quý tộc Hungary trung thành với Giáo hoàng Urban VI công nhận. Bốn tháng sau cuộc hôn nhân ủy nhiệm, Sigismund xâm lược Hungary và kết hôn với Mary, điều này cuối cùng đã phá hủy cơ hội trị vì của Louis với tư cách là Quốc vương của Hungary.
Vai trò trong triều và cuộc chiến tranh trăm năm
Louis đóng một vai trò chính trị quan trọng trong cuộc Chiến tranh Trăm Năm. Năm 1392, người anh trai Charles của Louis, (người vốn bị cho là có thể bị tâm thần phân liệt, hoang tưởng hoặc rối loạn lưỡng cực) xảy ra lần đầu tiên hành vi thiếu kiểm soát, trong một chuỗi các hành vi bị cho là 'mất trí' cho đến tận cuối đời. Điều này hiển nhiên cho thấy rằng Charles không thể cai trị một cách độc lập được nữa. Năm 1393, một hội đồng nhiếp chính do vương hậu Isabeau, chị dâu Louis, được chủ trì, được thành lập, và qua đó Louis bắt đầu có được ảnh hưởng mạnh mẽ đối với triều đình.nhỏ|Louis d'Orléans cho ra mắt tình nhân, vẽ khoảng 1825–26 (Bộ sưu tập [[Thyssen-Bornemisza, Madrid) của Eugène Delacroix, minh họa cho danh tiếng của Louis như một kẻ phá đám.]]
Louis tranh chấp quyền nhiếp chính và quyền giám hộ của những đứa trẻ hoàng gia với Jean Dũng cảm, Công tước xứ Bourgone. Mối hiềm khích giữa hai người đã diễn ra công khai và là nguồn gốc của tình trạng bất ổn chính trị ở nước Pháp vốn đã gặp khó khăn. Louis có lợi thế ban đầu, vì là em trai ruột chứ không phải là em họ của nhà vua như Jean, nhưng danh tiếng là người lăng nhăng và tin đồn ngoại tình với chị dâu là vương hậu Isabeau khiến ông không được lòng nhiều người. Trong những năm sau đó, những đứa con của Charles VI liên tiếp bị bắt cóc và được cả hai bên hồi trả, cho đến khi Jean được bổ nhiệm làm người giám hộ cho Thái tử Louis và là nhiếp chính của Pháp.
Louis đã không bỏ cuộc và dùng mọi nỗ lực để phá hoại quyền lực của Jean, bao gồm cả việc phung phí số tiền quyên góp được để cứu trợ Calais, vốn đang bị người Anh chiếm đóng khi đó. Mối quan hệ giữa hai người trở nên căng thẳng đến mức chỉ nhờ có sự can thiệp của chú của hai người là Jean xứ Valois, Công tước xứ Berry, mới ngăn chặn được nước Pháp xảy ra một cuộc nội chiến.
Louis được cho là chịu trách nhiệm về cái chết của bốn vũ công tại một vũ hội hóa trang thảm khốc năm 1393 được gọi là Bal des Ardents. Bốn nạn nhân đã bị thiêu sống khi một ngọn đuốc do Louis cầm đến quá gần trang phục rất dễ cháy của họ. Hai vũ công khác mặc trang phục giống hệt nhau (một trong số đó chính là Charles VI) đã thoát khỏi số phận tương tự trong gang tấc.
Bị ám sát
phải|nhỏ|283x283px|Vụ ám sát Louis trên đường Vieille du Temple.
Vào chủ nhật ngày 20 tháng 11 năm 1407, các Công tước đã tuyên thệ hòa giải long trọng trước triều đình Pháp. Nhưng chỉ ba ngày sau, Louis bị ám sát dã man trên đường phố Paris, theo lệnh của Jean Dũng cảm. Louis bị đâm khi đang cưỡi ngựa bởi 15 tên tội phạm đeo mặt nạ do Raoulet d'Anquetonville, một người hầu của Công tước xứ Bourgogne, cầm đầu. Một người hầu bị thương nặng.
Jean vốn nhận được sự ủng hộ của người dân Paris, vì vậy ông ta có thể công khai thừa nhận việc giết người. Thay vì phủ nhận, Jean đã yêu cầu học giả Jean Petit của Sorbonne đưa ra lời biện minh cho việc giết chết Louis. Tuy nhiên, vụ ám sát Louis đã làm dấy lên mối thù đẫm máu giữa xứ Bourgogne và hoàng gia Pháp. Và cuộc nội chiến đã gây chia rẽ nước Pháp trong 28 năm tiếp theo, chỉ được kết thúc bằng Hiệp ước Arras vào năm 1435.
Hôn nhân và hậu duệ
phải|nhỏ|Tượng Louis d'Orléans trong sân của [[Château de Pierrefonds, của Frémiet.]]
Năm 1389, Louis kết hôn với Valentina Visconti, con gái của Gian Galeazzo, Công tước xứ Milan. Vợ chồng họ có tám người con:
-
Một người con trai (sinh ra và mất ở Paris, ngày 25 tháng 3 năm 1390), được chôn cất tại Paris église Saint-Paul.
-
Louis (Paris, Hôtel de Saint-Pol, 26 tháng 5 năm 1391 - tháng 9 năm 1395), chôn cất tại Paris église des Célestins.
phải|nhỏ|200x200px|Tang lễ của Louis. Ảnh thu nhỏ từ Vigiles du roi Charles VII, khoảng năm 1484.
-
Jean (tháng 9 năm 1393 - Château de Vincennes, ngày 31 tháng 10 năm 1393), chôn cất Paris église des Célestins.
-
Charles (Hôtel royal de Saint-Pol, Paris, 24 tháng 11 năm 1394 - Château d'Amboise, Indre-et-Loire, 4 tháng 1 năm 1465), cha của Louis XII, vua Pháp.
-
Philip (Asnières-sur-Oise, Val d'Oise, 21/24 tháng 6 năm 1396 - Beaugency, Loiret, 1 tháng 9 năm 1420). Để lại một đứa con trai ruột Philip Anthony, còn được gọi là Kẻ du côn xứ Vertus, chết khoảng năm 1445; Không có hậu duệ.
-
Jean (24 tháng 6 năm 1399 – Château de Cognac, Charente, 30 tháng 4 năm 1467), ông nội của François I.
-
Marie (Château de Coucy, Aisne, tháng 4 năm 1401 - chết ngay sau sinh).
-
Marguerite (4 tháng 9 năm 1406 - Abbaye de Laguiche, gần Blois, 24 tháng 4 năm 1466), kết hôn với Richard xứ Bretagne, Bá tước xứ Étampes. Bà nhận được lãnh địa bá tước Vertus như của hồi môn. Tổ tiên của Công tước xứ Bretagne, Lãnh chúa xứ Chalon-Arlay và Thân vương xứ Oranje.
Với Mariette d'Enghien, tình nhân của ông, Louis có một đứa con trai ngoài giá thú:
-
Jean de Dunois (1402–1468), tổ tiên của Công tước xứ Longueville
Hình ảnh
Tập tin:LudvikOrlean Pizan.jpg|Louis xứ Orléans gặp Christine de Pisan
Tập tin:Valentina Visconti, Duchess of Orleans.jpg|Valentina Visconti, Công tước phu nhân xứ Orléans
Tập tin:Charles Ier d'Orléans.jpg|Charles I, Công tước xứ Orléans; quốc huy ở phía trên bên phải kết hợp quốc huy của cha mẹ ông-Nhà Valois và Nhà Visconti
Tập tin:Margueritedorleans.jpg|Margaret, Nữ bá tước xứ Vertus
Tập tin:Jean de Dunois.jpg|Jean de Dunois, Bá tước xứ Longueville
Danh hiệu, danh dự
-
- Công quốc xứ Orléans: Đại công tước thứ nhất và Hiệp sĩ của Dòng Nhím mà ông thành lập nhân dịp lễ rửa tội của con trai ông là Charles.
Gia phả
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Louis I xứ Orléans** (; 13 tháng 3 năm 1372 - 23 tháng 11 năm 1407) là Công tước xứ Orléans từ năm 1392 cho đến khi ông qua đời. Ông cũng là Công tước
**Philippe I xứ Orléans** (; 21 tháng 9 năm 1640 - 9 tháng 6 năm 1701), còn gọi là **Philippe của Pháp** (), là con trai của Louis XIII và Ana của Tây Ban
phải|nhỏ|Hình ảnh mô tả cảnh Charles bị giam cầm trong Tháp Luân Đôn từ một bản thảo được phát hiện về các bài thơ của ông **Charles I xứ Orléans** (24 tháng 11 năm 1394
**Louis Philippe I, Công tước xứ Orléans** còn được gọi là **le Gros** (Béo) (12 tháng 5 năm 1725 - 18 tháng 11 năm 1785) là một thân vương người Pháp, công tước đời thứ
thumb|Huy hiệu của Công tước xứ Orléans **Công tước xứ Orléans** (tiếng Pháp: _Duc d'Orléans_; tiếng Anh: _Duke of Orléans_) là một tước hiệu hoàng gia Pháp thường được các vua Pháp ban cho một
**Louis Philippe II xứ Orléans** (_Louis Philippe Joseph_; 13 tháng 4 năm 1747 – 6 tháng 11 năm 1793) là một nhà quý tộc lớn của Vương quốc Pháp thuộc Vương tộc Orléans, một nhánh
**Nhà Orléans thứ 4** (Tiếng Pháp: _Maison d'Orléans_), đôi khi được gọi là **Nhà Bourbon-Orléans** (tiếng Pháp: _Maison de Bourbon-Orléans_) để phân biệt, với 3 nhánh khác cũng được gọi là Nhà Orléans có trước
**Jean xứ Berry** (; 30 tháng 11 năm 1340 - 15 tháng 6 năm 1416), còn có biệt danh là **Jean Hoa lệ** (_Jean le Magnifique_), là Công tước các xứ Berry, Auvergne và Bá
**Marie xứ Orléans** (tiếng Pháp: Marie d'Orléans; 19 tháng 12/tháng 9 năm 1457 – 1493) là con gái của Charles I xứ Orléans và Maria xứ Kleve cũng như là chị gái của Quốc vương
**Philippe Charles xứ Orléans** (; 2 tháng 8 năm 1674 - 2 tháng 12 năm 1723), là thành viên của hoàng gia Pháp và từng là Nhiếp chính của Vương quốc từ 1715 đến 1723
**Élisabeth Charlotte xứ Pfalz, Công tước phu nhân xứ Orléans**; ; ; 27 tháng 5 năm 1652 – 8 tháng 12 năm 1722), còn được gọi là **Liselotte von der Pfalz**, là thành viên của
**Louis XII của Pháp** (27 tháng 6 năm 1462 – 1 tháng 1 năm 1515), được gọi là _le Père du Peuple_, là vua Pháp từ 1498 tới 1515 và vua Naples từ năm 1501
**Jean I xứ Bourgogne** (; 28 tháng 5 năm 137110 tháng 9 năm 1419), còn được gọi là **Jean Dũng cảm** (; ) là một thành viên trong dòng dõi của hoàng gia Pháp, là
**Louise Marie Adélaïde Eugénie xứ Orléans**, (Paris, 23 tháng 8 năm 1777 – 31 tháng 12 năm1847) là một Tông nữ Pháp, con gái của Louis Philippe II xứ Orléans (1747-1793), Công tước xứ Orléans
**Maria xứ Kleve** (19 tháng 9 năm 1426 – 23 tháng 8 năm 1487) là vợ thứ ba của Charles I xứ Orléans. Maria xuất thân là một công nữ người Đức, người con cuối
**Marguerite xứ Angoulême** (tiếng Anh: _Marguerite of Angoulême_; tiếng Pháp: _Marguerite d'Angoulême_; 11 tháng 4, 1492 - 21 tháng 12, 1549), còn gọi là **Marguerite de Navarre**, là Tông nữ Pháp, Vương hậu Navarra và
**Louis Philippe I của Pháp** (Ngày 6 tháng 10 năm 1773 – 26 tháng 8 năm 1850) là vua của Pháp từ năm ngày 6 tháng 11 năm 1830 đến ngày 24 tháng 2 năm
**Anne Marie của Orléans** (27 tháng 8 năm 1669 – 26 tháng 8 năm 1728) là Vương hậu Sardegna thông qua hôn nhân với Vittorio Amadeo II của Sardegna. Anne Marie từng là nhiếp chính
**Jeanne xứ Valois, Nữ Công tước xứ Berry** (tiếng Pháp: _Jeanne de Valois, Duchesse de Berry_; 23 tháng 4 năm 1464 - 4 tháng 2 năm 1505), là một Vương nữ người Pháp, giữ tước
**Ferdinand Philippe, Công tước xứ Orléans** (_Ferdinand Philippe Louis Charles Henri Joseph_; 03 tháng 09 năm 1810 - 13 tháng 07 năm 1842) là con trai cả của Vua Louis Philippe I của Pháp và
**Élisabeth Charlotte của Orléans** (13 tháng 9 năm 1676 - 23 tháng 12 năm 1744) là một _petite-fille de France (Cháu gái nước Pháp)_ thuộc Vương tộc Bourbon đang cai trị Vương quốc Pháp, và
**Isabelle của Pháp** (1348–1372) là một Vương nữ Pháp và là thành viên của Vương tộc Valois. Bà là vợ của Gian Galeazzo Visconti. sau khi bà qua đời, chồng bà đã trở thành Công
**Françoise Marie de Bourbon, _Légitimée de France_, Bà Công tước xứ Orléans** (4 tháng 5 năm 1677 - 1 tháng 2 năm 1749) là người con gái nhỏ tuổi nhất trong những người con ngoài
**Henrietta Anne của Anh** (tiếng Pháp: _Henriette-Anne Stuart d'Angleterre_; 16 tháng 6 năm 1644 - 30 tháng 6 năm 1670), biệt danh **Minette**, là một Vương nữ Anh, con gái của Charles I của Anh
**Louis XV** (15 tháng 2 năm 1710 – 10 tháng 5 năm 1774), biệt danh **Louis Đáng yêu**, là quân vương của Vương tộc Bourbon, giữ tước hiệu Vua của Pháp từ 1 tháng 9
**Louise Diane của Orléans** (tiếng Pháp: _Louise Diane d'Orléans_; 27 tháng 6 năm 1716 – 26 tháng 9 năm 1736) là Thân vương phi xứ Conti từ khi kết hôn với Thân vương xứ Conti
**Louis XIV của Pháp** (; 5 tháng 9 năm 16381 tháng 9 năm 1715), còn được gọi là **Louis Đại đế** (, ) hay **Vua Mặt Trời** (, ), là một quân chủ thuộc Nhà
**Charlotte Aglaé của Orléans** (; ; 22 tháng 10 năm 1700 – 19 tháng 1 năm 1761) là con gái thứ ba của Philippe II xứ Orléans và Françoise Marie de Bourbon, và khi sinh
**Louise Marie của Orléans** (3 tháng 4 năm 1812 – 11 tháng 10 năm 1850), tên đầy đủ là _Louise Marie Thérèse Charlotte Isabelle_, là _Vương nữ của Orléans_ và là Vương hậu Bỉ. Bà
**Louis Henri Joseph de Bourbon** (13 tháng 4 năm 1756 – 30 tháng 8 năm 1830) là Thân vương xứ Condé từ năm 1818 cho đến khi qua đời. Ông là anh rể của Louis
**Louise Élisabeth của Orléans** (tiếng Pháp: _Louise Élisabeth d'Orléans_; tiếng Tây Ban Nha: _Luisa Isabel de Orleans_; 9 tháng 12 năm 1709 – 16 tháng 6 năm 1742) là Vương hậu Tây Ban Nha với
**François I** (tiếng Pháp: François Ier; tiếng Pháp Trung cổ: Francoys; 12 tháng 9 năm 1494 – 31 tháng 3 năm 1547) là Quốc vương Pháp từ năm 1515 cho đến khi qua đời vào
**Louis của Pháp** (tiếng Pháp: Louis de Bourbon; 1 tháng 11 năm 1661 – 14 tháng 4 năm 1711) là trưởng nam của Louis XIV của Pháp hay còn biết đến với vương hiệu __Vua
**María Isabel của Tây Ban Nha, María Isabel của Orléans hay María Isabel de Orleans y Borbón** (tiếng Tây ban Nha: _María Isabel de Orleans y Borbón_; tiếng Pháp: _Marie-Isabelle d'Orléans_; 21 tháng 09 năm
**Marie Louise của Orléans** (tiếng Pháp: _Marie-Louise d'Orléans_; tiếng Tây Ban Nha: _María Luisa de Orleans_; 26 tháng 3 năm 1662 – 12 tháng 2 năm 1689) là một _petite-fille de France_ (_Cháu gái nước
**Vương tôn Philippe của Orléans, Bá tước xứ Paris** (_Louis Philippe Albert_; 24 tháng 08 năm 1838 - 08 tháng 09 năm 1894), được xem là Vua của Pháp từ ngày 24 đến ngày 26
**Marie xứ Guise hay Marie xứ Lothringen/Lorraine** (tiếng Pháp: _Marie de Guise/Marie de Lorraine_; tiếng Anh: _Mary of Guise/Mary of Lorraine_; tiếng Đức: _Maria von Lothringen-Guise_; sinh ngày 22 tháng 11 năm 1515, mất 11
**Françoise xứ Alençon** (1490 – 14 tháng 9 năm 1550) là con gái lớn của René I xứ Alençon và Marguerite xứ Lorraine-Vaudémont, cũng như là em gái của Charles IV xứ Alençon. Là em
**Thân vương Gaston xứ Orleans, Bá tước xứ Eu** (tiếng Pháp: _Louis Philippe Marie Ferdinand Gaston_; 28 tháng 4 năm 1842 – 28 tháng 8 năm 1922) là một Thân vương và chỉ huy quân
**Anne xứ Bretagne** (tiếng Pháp: _Anne de Bretagne_; tiếng Breton: _Anna Vreizh hay Anna Breizh_; 25 tháng 1 năm 1477 – 9 tháng 1 năm 1514), là Nữ công tước xứ Bretagne và Vương hậu
**Louise Renée de Penancoët de Kérouaille, Công tước xứ Portsmouth** (tiếng Pháp: _Louise Renée de Penancoët de Keroual_; 6 tháng 9, năm 1649 - 14 tháng 11, năm 1734), là một quý tộc người Pháp,
**Isabelle của Orléans** (tiếng Pháp: _Isabelle d'Orléans_; tiếng Tây Ban Nha: _Isabel de Orleans_; tên đầy đủ: Isabelle Marie Laure Mercédès Ferdinande; 7 tháng 5 năm 1878 – 21 tháng 4 năm 1961) là thành
**Anne Marie Louise của Orléans, Công tước xứ Montpensier**, (, 29 tháng 5 năm 1627 – 5 tháng 4 năm 1693 ), thường được gọi là **_La Grande Mademoiselle_** ( ), là con gái duy
**François I** (tiếng Pháp) hay **Franz I** (tiếng Đức) (8 tháng 12 năm 1708 – 18 tháng 8 năm 1765)), còn được gọi là **François Étienne** (tiếng Pháp) hoặc **Franz Stephan** (tiếng Đức), là Hoàng
**Louis XVI của Pháp** (23 tháng 8 năm 1754 – 21 tháng 1 năm 1793) là quân vương nhà Bourbon, cai trị nước Pháp từ năm 1774 đến 1792, rồi bị xử tử hình năm
**Luis I** **của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Luis Felipe_; 25 tháng 8 năm 1707 – 31 tháng 8 năm 1724) là vua Tây Ban Nha tại vị từ ngày 15 tháng 1
**Catalina của Aragón và Castilla**, (tiếng Tây Ban Nha: _Catalina de Aragón y Castilla_; tiếng Anh: _Catherine of Aragon_; tiếng Đức: _Katharina von Aragon_; tiếng Bồ Đào Nha: _Catarina de Aragão e Castela_; tiếng Pháp:
**Juana I của Navarra** (, , ; 14 tháng 1 năm 1273 – 31 tháng 3 hoặc 2 tháng 4 năm 1305) là nữ vương của Navarra và là nữ bá tước của Champagne từ
**Ernst II xứ Sachsen-Coburg và Gotha** (tiếng Đức: _Ernst II. von Sachsen-Coburg und Gotha_; tiếng Tây Ban Nha: _Ernesto II of Sajona-Coburgo y Gotha_; tiếng Anh: _Ernest II of Saxe-Coburg and Gotha_; tên đầy đủ:
**Maximiliano I của México** (tiếng Đức: _Ferdinand Maximilian Joseph Maria von Habsburg-Lothringen_; tiếng Tây Ban Nha: _Fernando Maximiliano José María de Habsburgo-Lorena_; 6 tháng 7 năm 1832 - 19 tháng 6 năm 1867) là một