Maria xứ Kleve (19 tháng 9 năm 1426 – 23 tháng 8 năm 1487) là vợ thứ ba của Charles I xứ Orléans. Maria xuất thân là một công nữ người Đức, người con cuối cùng của Adolf I xứ Kleve và Marie xứ Bourgogne.
Maria là người bảo trợ văn học và đã ủy quyền cho nhiều tác phẩm; bản thân Maria cũng là một nhà thơ và đã sáng tác ra những bản ballad và bài thơ khác nhau. Sau cái chết của Charles, Maria bí mật tái hôn vào năm 1480 với một trong các nam thị tùng túc trực phòng của Maria là "Sieur de Rabodanges" (Ngài Rabodanges), là người xứ Artois, kém hơn Maria vài tuổi. Maria qua đời ở Chaunay.
Hôn nhân
Ở độ tuổi mười bốn, Maria kết hôn với Charles xứ Valois, Công tước xứ Orléans (lúc ấy đã được 46 tuổi, do đó lớn hơn Maria 32 tuổi) vào ngày 27 tháng 11 năm 1440, tại Saint-Omer. Maria chính là người vợ thứ 3 và cuối cùng của Charles. Hai vợ chồng có với nhau ba người con, lần lượt là:
- Marie xứ Orléans, Tử tước phu nhân xứ Narbonne (19 tháng 12 năm 1457–1493); kết hôn với Juan của Navarra, Tử tước xứ Narbonne vào năm 1483.
- Quốc vương Louis XII của Pháp (1462–1515)
- Anne xứ Orléans, Nữ Tu viện trưởng của Tu viện Fontevraud và Poitiers (1464–1491).
Trong văn học
Maria là một nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử của Hella Haasse về Charles I xứ Orléans có tên Lang thang trong khu rừng tối (tựa gốc tiếng Hà Lan là Het Woud der Verwachting).
Gia phả
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Maria xứ Kleve** (19 tháng 9 năm 1426 – 23 tháng 8 năm 1487) là vợ thứ ba của Charles I xứ Orléans. Maria xuất thân là một công nữ người Đức, người con cuối
**Anna xứ Kleve hay gọi là Anna xứ Jülich-Kleve-Burg** (tiếng Đức: _Anna von Kleve/Anna von Jülich-Kleve-Burg;_ tiếng Anh: _Anne of Cleves/Anne of Jülich-Cleves-Burg_; Tiếng Tây Ban Nha: _Ana de Cléveris/Ana de Jülich-Cléveris-Berg_; 22 tháng 9,
**Amalia xứ Kleve-Jülich-Berg hay Amalia xứ Kleve** (17 tháng 10 năm 1517, Düsseldorf – 1 tháng 3 năm 1586, Düsseldorf), đôi khi được viết là **Amelia**, là Công nữ của Gia tộc Mark. Là đứa
phải|nhỏ|Hình ảnh mô tả cảnh Charles bị giam cầm trong Tháp Luân Đôn từ một bản thảo được phát hiện về các bài thơ của ông **Charles I xứ Orléans** (24 tháng 11 năm 1394
**Marie xứ Orléans** (tiếng Pháp: Marie d'Orléans; 19 tháng 12/tháng 9 năm 1457 – 1493) là con gái của Charles I xứ Orléans và Maria xứ Kleve cũng như là chị gái của Quốc vương
**Louis XII của Pháp** (27 tháng 6 năm 1462 – 1 tháng 1 năm 1515), được gọi là _le Père du Peuple_, là vua Pháp từ 1498 tới 1515 và vua Naples từ năm 1501
**Mary I của Anh** (tiếng Anh: _Mary I of England_; tiếng Tây Ban Nha: _María I de Inglaterra_; tiếng Pháp: _Marie Ire d'Angleterre_; tiếng Đức: _Maria I. von England_; tiếng Ý: _Maria I d'Inghilterra;_ 18
**Carolina Maria Annunziata Bonaparte Murat Macdonald** (tiếng Pháp: _Caroline Marie Annonciade Bonaparte_; 25 tháng 3 năm 1782 – 18 tháng 5 năm 1839), hay được biết đến nhiều hơn với cái tên **Caroline Bonaparte**, là
**Wilhelm I** (tên đầy đủ: _Wilhelm Friedrich Ludwig_; 22 tháng 3 năm 1797 – 9 tháng 3 năm 1888), là quốc vương Phổ từ ngày 2 tháng 1 năm 1861, chủ tịch Liên bang Bắc
phải|nhỏ|440x440px|_Schloss Burg an der Wupper_ (2010) **Schloß Burg** nằm ở khu phố Burg an der Wupper (Solingen), là lâu đài được xây dựng lại lớn nhất ở Nordrhein-Westfalen, Đức và là một điểm thu hút
nhỏ|Bergisches Land ở Đức nhỏ|Ngôi nhà Bergisch điển hình ở Wuppertal-Beyenburg nhỏ|Sư tử Bergisch trên cửa sổ kính **Bergisches Land** là một vùng ở Nordrhein-Westfalen (Đức) được đặt tên theo lãnh thổ lịch sử của