✨Đế quốc Quý Sương

Đế quốc Quý Sương

Đế quốc Quý Sương, tức Đế quốc Kushan (vào khoảng thế kỷ thứ 1–3), là một cường quốc cổ đại tại Trung Á. Vào thời đỉnh cao (105-250), đế chế này trải dài từ Tajikistan tới Biển Caspi và từ Afghanistan xuống đến lưu vực sông Hằng. Đế chế này được thành lập từ bộ lạc Quý Sương của dân Nguyệt Chi 月氏) đến từ Tân Cương (Trung Quốc) ngày nay, một dân tộc có thể có liên hệ với người Tochari. Do nằm tại trục giao thông huyết mạch của Trung Á, họ có quan hệ ngoại giao với Đế chế La Mã, Ba Tư Sassanid và nhà Hán Trung Quốc, và trong vài thế kỷ họ là trung tâm trao đổi giữa Đông Phương và Tây Phương.

Trong thế kỷ 1 và đầu thế kỉ 2 SCN, người Kushan bành trướng nhanh chóng trên phần phía bắc của khu vực Nam Á ít nhất là xa tới tận Saketa và Sarnath gần Varanasi (Benares), nơi mà các chữ khắc đã được tìm thấy với niên đại tới những năm đầu của thời đại của vị vua Quý Sương nổi tiếng nhất, Kanishka, mà dường như bắt đầu khoảng năm 127 SCN.

Các vị vua Kushan là một nhánh của liên minh Nguyệt Chi. Trước đó họ là một dân tộc du mục cư trú tại các thảo nguyên phía tây bắc của Trung Quốc, họ di chuyển về phía tây nam và định cư ở Bactria cổ đại. Họ cũng đã có quan hệ ngoại giao với Đế chế La Mã, nhà Sassanid của Ba Tư và nhà Hán ở Trung Quốc. Đế chế này suy yếu từ thế kỷ thứ 3 và sụp đổ bởi đế chế Sassanid và Đế chế Gupta.

Nguồn gốc

Tên Quý Sương từ tiếng Hoa 貴霜 để chỉ một trong năm bộ lạc người Nguyệt Chi, một liên minh lỏng lẻo của những dân tộc Ấn-Âu dùng các ngôn ngữ Tochari. Họ là người Ấn-Âu sống ở phía cực đông, trên những đồng cỏ khô cằn của lưu vực sông Tháp Lý Mộc ở Tân Cương ngày nay, đến khi dân Hung Nô đuổi họ về phía tây vào khoảng từ năm 176 TCN đến năm 160 TCN. Trong lịch sử Trung Quốc, năm bộ lạc Nguyệt Chi được gọi là Hưu Mật (休密), Quý Sương (貴霜), Song Mỹ (雙靡), Hật Đốn (肸頓), và Đô Mật (都密).

Dân Quý Sương tới Vương quốc Hy Lạp-Bactria, thuộc địa hạt Đại Hạ (miền bắc Afghanistan và Uzbekistan) vào khoảng năm 135 TCN, và chiếm đất và đẩy những triều đại Hy Lạp ở đấy tái định cư tại lưu vực sông Ấn Độ (ở nước Pakistan ngày nay) thuộc miền tây của Vương quốc Ấn-Hy Lạp.

Thời kì đầu

Một số dấu vết về sự hiện diện của người Quý Sương vẫn còn lại trong khu vực của Bactria và Sogdiana. Các công trình khảo cổ học được biết đến ở Takht-I-Sangin, Surkh Kotal (một ngôi chùa hoành tráng), và trong cung điện của Khalchayan. Một loạt các tác phẩm điêu khắc và những trụ gạch khác nhau đã được biết đến, đại diện là những cung thủ cưỡi ngựa, và đáng kể là một người đàn ông với hộp sọ nhân tạo bị biến dạng, chẳng hạn như hoàng tử Quý Sương của Khalchayan (một thực tế cũng chứng thực về nguồn gốc du mục Trung Á). Người Trung Quốc đầu tiên gọi những người này là Nguyệt Chi và nói rằng họ thành lập đế quốc Quý Sương, mặc dù mối quan hệ giữa người Nguyệt Chi và Quý Sương vẫn còn chưa rõ ràng. Trên đống đổ nát của thành phố cổ đại Hy Lạp cổ đại như Ai-Khanoum, Người Quý Sương được biết đến vì đã xây dựng pháo đài bảo vệ. Vị vua trong thư tịch đầu tiên, và là một trong những người đầu tiên tuyên bố mình là một vị vua Quý Sương, tên là Heraios. Ông tự gọi chính mình là một "bạo chúa" trên đồng tiền của mình. Ông có thể là được một đồng minh của người Hy Lạp, và ông đã chia sẻ cùng một phong cách của tiền đúc. Heraios có thể là cha của quốc vương Quý Sương đầu tiên, Kujula Kadphises.

Người Quý Sương mặc quần áo truyền thống có [[áo chẽn và đôi giày ống, thế kỷ thứ 2, Gandhara.|trái]]

Tài liệu Hậu Hán Thư của Trung Quốc ghi lại về sự hình thành của đế chế Quý Sương dựa trên một bản tấu của tướng Ban Dũng (con Ban Siêu) dâng lên Hán An Đế vào năm 125:

:"Hơn một trăm năm sau [sau khi người Đại Nguyệt Chi chiếm Bactria], hấp hậu (nguyên văn chép 翕候, có lẽ là phiên âm từ thủ lĩnh theo ngôn ngữ địa phương) của Quý Sương (Badakhshan) là Khâu Tựu Tức (丘就卻, Kujula Kadphises) đã tấn công và tiêu diệt bốn hấp hậu khác, tự lập làm vương, quốc hiệu là Quý Sương (Kushan) vương. [Y] xâm chiếm An Tức (Indo-Parthia) và chiếm khu vực Cao Phụ (高附 - tức Kabul). [Y] diệt Bộc Đạt (濮达, Paktiya), Kế Tân (罽賓, Kapisha và Gandhara), mở rộng vương quốc. Khâu Tựu Tức ngoài 80 tuổi thì chết, con trai Diêm Cao Trân (閻高珍, có thể là Vema Tahktu hoặc em trai ông ta, Sadaṣkaṇa) kế nghiệp xưng vương. [Y] tiếp tục chinh phục Thiên Trúc (天竺 - Tây bắc Ấn Độ) và đặt một tướng cai quản ở đó. Người Nguyệt Chi từ đó trở nên giàu mạnh, các nước lân cận đều gọi là Quý Sương vương. Ở Hán vẫn theo tên cũ, gọi là Đại Nguyệt Chi". (Hậu Hán Thư,).

Ảnh hưởng văn hóa đa dạng

Trong thế kỷ 1 trước Công nguyên, người Quý Sương (贵霜) đã trở nên hùng mạnh hơn các bộ lạc Nguyệt Chi khác, và thống nhất họ thành một liên minh chặt chẽ dưới quyền yabgu Kujula Kadphises. Tên Quý Sương đã được chấp nhận ở phương Tây và sửa đổi thành Kushan để chỉ liên minh này, mặc dù người Trung Quốc tiếp tục gọi họ là Nguyệt Chi.

Dần dần giành giật quyền kiểm soát của khu vực từ các bộ tộc Scythia, người Quý Sương bành trướng về phía nam tiến vào các khu vực theo truyền thống được biết đến là Gandhara và thiết lập hai kinh đô song song ở Kabul ngày nay và Peshawar mà sau đó được gọi là Kapisa và Pushklavati. Hệ thống chữ viết Quý Sương sử dụng [[chữ cái Hy Lạp, cộng thêm chữ Sho.]] Người Quý Sương chấp nhận các yếu tố của văn hóa Hy Lạp cổ đại của Bactria. Họ đã chấp nhận bảng chữ cái Hy Lạp cho phù hợp với ngôn ngữ riêng của họ (với sự phát triển thêm các chữ Þ "sh", như trong "Kushan") và sớm bắt đầu đúc tiền đúc theo kiểu Hy Lạp. Trên đồng tiền của họ họ sử dụng truyền thuyết ngôn ngữ Hy Lạp kết hợp với truyền thuyết Pali (trong chữ viết Kharoshthi), cho đến những năm đầu của triều đại Kanishka.

Người Quý Sương được cho chủ yếu là theo Hỏa Giáo.Tuy nhiên, từ triều đại Vima Takto, nhiều người Quý Sương bắt đầu chấp nhận các khía cạnh của văn hóa Phật giáo. Giống như Ai Cập, họ tiếp thụ các tàn dư của văn hóa Hy Lạp của các vương quốc Hy Lạp, ít nhất một phần bị Hy Lạp hóa. Đại đế Quý Sương Vima Kadphises có thể đã chấp nhận đạo Saivism, như phỏng đoán từ tiền xu đúc trong thời gian này.

Sự cai trị của người Quý Sương liên kết thương mại biển Ấn Độ Dương với thương mại của Con đường tơ lụa thông qua văn minh sông Ấn. Tại thời điểm đỉnh cao của triều đại, Người Quý Sương cai trị cai trị một vùng lãnh thổ lỏng lẻo mở rộng tới biển Aral ngày nay từ Uzbekistan, Afghanistan, và Pakistan tới miền bắc Ấn Độ.

Sự thống nhất lỏng lẻo và nền hòa bình tương đối của một vùng rộng lớn như vậy khuyến khích thương mại đường dài, mang lụa Trung Quốc tới La Mã, và tạo ra chuỗi các trung tâm đô thị phát triển.

Bành trướng lãnh thổ

Tác phẩm điêu khắc về một chiến binh ngoại quốc ném thương, [[Đông Hán|Hậu Hán, Tam Quốc, thế kỷ 3, Trung Quốc.]] Bằng chứng khảo cổ trực tiếp về sự thống trị của người Quý Sương suốt một thời gian dài về cơ bản có sẵn trong một khu vực trải dài từ Surkh Kotal, Begram, kinh đô mùa hè của người Quý Sương, Peshawar kinh đô dưới thời Kanishka I, Taxila và Mathura, kinh đô mùa đông của người Quý Sương.

Các khu vực khác có thể nằm dưới sự cai trị của họ bao gồm Khwarezm Orissa. mô tả những thành phố trực thuộc dưới sự cai trị của Kanishka, trong đó có sáu tên được nhận biết: Ujjain, Kundina, Saketa, Kausambi, Pataliputra, và Champa Về phía bắc, trong thế kỷ thứ 2 CN, người Quý Sương dưới thời Kanishka đã tiến hành những cướp phá khác nhau vào các lưu vực Tarim, dường như là đất đai ban đầu của tổ tiên của họ, người Nguyệt Chi,nơi họ đã có một số sự tiếp xúc với Trung Quốc. Cả hai phát hiện khảo cổ học và bằng chứng văn học cho thấy sự cai trị của người Quý Sương, tại Kashgar, Yarkand và Khotan."

Những cuộc chinh phục có thể diễn ra vào khoảng giữa năm 45 và 60, và đặt cơ sở cho Đế quốc Quý Sương mà đã nhanh chóng được mở rộng bởi các con cháu của ông.

Kujula đã ban hành rộng rãi một loạt tiền xu và là cha của ít nhất người hai con trai, Sadaṣkaṇa (người được biết đến chỉ từ hai câu khắc, đặc biệt là văn bia Rabatak, và dường như không bao giờ cai trị), và dường như là Vima Takto.

Kujula Kadphises là ông cố nội của Kanishka.

Vima Taktu hay Sadashkana (khoảng năm 80 – 95)

Vima Takto (tiếng Trung Quốc cổ: 阎膏珍 Diêm Cao Trân) không được đề cập trong văn bia Rabatak. Ông là tiên vương của Vima Kadphises, và Kanishka I. Ông đã mở rộng đế quốc Quý Sương về phía tây bắc của khu vực Nam Á. Hậu Hán Thư ghi lại:

Vima Kadphises (khoảng năm 95 – 127)

Vima Kadphises (tiếng Quý Sương: Οοημο Καδφισης) là một hoàng đế Quý Sương vào khoảng năm 90-100 CN, ông là con trai của Sadashkana và cháu trai của Kujula Kadphises, và cha của Kanishka I, theo ghi chép từ văn bia Rabatak.

Vima Kadphises đã mở rộng thêm lãnh thổ Quý Sương bằng những cuộc chinh phục của mình ở Afghanistan và tây bắc Pakistan. Ông cũng đã ban hành rộng rãi một loạt tiền xu và chữ khắc. Ông là người đầu tiên phát hành tiền đúc bằng vàng ở Ấn Độ, ngoài tiền đồng hiện có và tiền đúc bằng bạc

Kanishka I (khoảng năm 127-140)

Khoảng năm 127, vị vua thứ năm của Vương triều Quý Sương là Kanishka I (tức Ca Nị Sắc Vương) lên ngôi báu và trị nước phồn thịnh trong suốt 13 năm. Khi lên ngôi, Kanishka cai trị một vùng lãnh thổ lớn (hầu như tất cả miền bắc Ấn Độ), phía nam Ujjain và Kundina và phía đông vượt qua Pataliputra, theo văn bia Rabatak: nhỏ|Pháo đài [[Qila Mubarak ở Bathinda, Ấn Độ do Kanishka cho xây dựng.]]

Lãnh thổ của ông được quản lý từ hai kinh đô: Purushapura (nay là Peshawar ở miền bắc Pakistan) và Mathura, ở miền bắc Ấn Độ. Ông cũng được ghi nhận (cùng với Raja Thoa) đã xây dựng pháo đài lớn, pháo đài Bathinda cổ(Qila Mubarak), tại thành phố Bathinda ngày nay, thuộc vùng Punjab của Ấn Độ.

Người Quý Sương cũng có một kinh đô mùa hè ở Bagram (sau đó được gọi là Kapisa), nơi mà "kho báu Begram ", bao gồm các tác phẩm nghệ thuật từ Hy Lạp tới Trung Quốc, đã được tìm thấy. Theo văn bia Rabatak, Kanishka là con trai của Vima Kadphises, cháu trai của Sadashkana, chắt nội của Kujula Kadphises. Thời đại Kanishka nói chung được ngày nay chấp nhận là bắt đầu vào năm 127 dựa trên cơ sở nghiên cứu đột phá của Harry Falk Thời đại Kanishka của sử dụng như là một lịch đối chiếu bởi người Quý Sương khoảng một thế kỷ, cho đến giai đoạn suy vong của vương quốc Quý Sương.

Vāsishka (khoảng năm 140 –160)

Vāsishka là một hoàng đế Quý Sương mà dường như đã trị vì 20 năm sau thời Kanishka. Sự cai vì của ông được ghi nhận là phía nam đến tận Sanchi (gần Vidisa), nơi một số chữ khắc tên của ông đã được tìm thấy, ngày tháng là năm 22 (văn bia Sanchi của "Vaksushana" - tức là Vasishka Kushana) và năm 28 (văn bia Sanchi của Vasaska - tức là Vasishka) của thời đại Kanishka.

Huvishka (khoảng năm 160 –190)

Huvishka (Tiếng Quý Sương Οοη ϸ κι, "Ooishki") là một hoàng đế Quý Sương khoảng 20 năm sau khi Kanishka qua đời (giả định trên các bằng chứng tốt nhất có sẵn trong năm 140 CN) cho đến khi Vasudeva I lên kế vị khoảng ba mươi năm sau đó. Thời kì trị vì của ông là một khoảng giai đoạn xây dựng và củng cố cho Đế quốc. Đặc biệt, ông dành thời gian và công sức vào giai đoạn đầu triều đại của ông cho các nỗ lực của kiểm soát thành phố Mathura tốt hơn.

Vasudeva I (khoảng năm 190 – 230)

Vasudeva I (tiếng Quý Sương: Βαζοδηο "Bazodeo", chữ Hán: 波调, "Ba Điệu") là vị đại đế Quý Sương cuối cùng. Các chữ khắc tên ông có niên đại từ năm 64 đến năm 98 của thời đại Kanishka, đưa ra giả thuyết là triều đại của ông kéo dài từ ít nhất năm 191 đến 225 CN. Ông là hoàng đế Quý Sương vĩ đại cuối cùng, và sự cai trị của ông kết thúc trùng hợp với cuộc xâm lược của nhà Sassanid xa tới tận Tây Bắc Ấn Độ, và thành lập triều đại Ấn-Sassanid hoặc Kushanshahs từ khoảng năm 240 CN.

Các vị thần của người Quý Sương

Hệ thần trong tôn giáo của người Quý Sương là cực kỳ đa dạng, như tiết lộ từ các đồng tiền của họ và con dấu của họ, mà trên đó có hơn 30 vị thần khác nhau xuất hiện, của người Hy Lạp, Iran, và một mức độ thấp hơn từ Ấn Độ. Các vị thần Hy Lạp, với những cái tên Hy Lạp xuất hiện trên các đồng xu vào giai đoạn đầu. Trong thời gian trị vì của Kanishka, ngôn ngữ của các tiền đúc thay đổi thành tiếng Bactria (mặc dù nó vẫn còn những chữ khắc Hy Lạp cho tất cả các vị vua). Sau thời Huvishka, chỉ có hai vị thần xuất hiện trên các đồng tiền: Ardoxsho và Oesho.

Đại diện cho sự xuất hiện của các thần từ thần thoại Hy Lạp và thuyết hỗn mang Hy Lạp cổ đại là:

*Ηλιος (Helios), Ηφαηστος (Hephaistos), Σαληνη (Selene), Ανημος (Anemos). Hơn nữa, các đồng tiền của Huvishka cũng miêu tả hai bán-thần: erakilo Heracles, và sarapo Sarapis.

Các vị Phật, thần Ấn Độ xuất hiện trên tiền đúc bao gồm:

Βοδδο (boddo, Phật Thích-ca Mâu-ni) Μετραγο Βοδδο (metrago boddo, Bồ tát Di-lặc) Mαασηνo (maaseno, Mahasena) Σκανδo koμαρo (skando komaro, Skanda Kumara) *þακαμανο Βοδδο (shakamano boddho, Phật Thích-ca Mâu-ni)

Các vị thần Iran xuất hiện trên tiền xu bao gồm:

Αρδοχþο (ardoxsho, Ashi Vanghuhi) Aþαειχþo (ashaeixsho, Asha Vahishta) Αθþο (athsho, Atar) Φαρρο (pharro, Khwarenah) Λροοασπο (lrooaspa, Drvaspa) Μαναοβαγο, (manaobago, Vohu Manah) Μαο (mao, Mah) Μιθρο, Μιιρο, Μιορο, Μιυρο (mithro and variants, Mithra) Μοζδοοανο (mozdooano, Mazda vana "Mazda thần chiến thắng?") Νανα, Ναναια, Ναναϸαο (variations of pan-Asiatic nana, Sogdian nny, in a Zoroastrian context Aredvi Sura Anahita) Οαδο (oado Vata) Oαxþo (oaxsho, "Oxus") Ooρoμoζδο (ooromozdo, Ahura Mazda) Οραλαγνο (orlagno, Verethragna) Τιερο (tiero, Tir)

Người Quý Sương và Đạo Phật

Giao lưu văn hóa cũng phát triển mạnh mẽ, khích thích sự phát triển của Hy Lạp-Phật giáo, một sự hợp nhất của các yếu tố Hy Lạp với các yếu tố văn hóa Phật giáo, mà đã mở rộng vào vùng trung và phía bắc châu Á.

Vua Kanishka đã nổi tiếng trong truyền thuyết Phật giáo vì ông đã triệu tập một Hội đồng Phật giáo lớn ở Kashmir.

Nghệ thuật Quý Sương

Nghệ thuật và văn hóa Gandhara, ở giai đoạn bước ngoặt người Quý Sương nắm quyền bá chủ, là sự biểu hiện tốt nhất được biết đến của ảnh hưởng Quý Sương với người phương Tây. Một số miêu tả trực tiếp của người Quý Sương được biết đến từ Gandhara, nơi họ được thể diện với một đai lưng, áo dài và quần dài và đóng vai các tín đồ của Đức Phật, cũng như Bồ Tát và Phật Di Lặc tương lai.

Trong hình tượng, tuy nhiên,họ không có liên quan với những bức tượng "Phật Đứng" rất Hy Lạp (xem hình ảnh), do đó có thể tương ứng với một giai đoạn lịch sử trước đó. Phong cách của những trụ gạch kết hợp tín đồ Quý Sương đã được Ấn Độ hóa mạnh mẽ, khác xa những miêu tả theo kiểu Hy Lạp cổ đại trước đó của Đức Phật:

Tiếp xúc với La Mã

Một vài nguồn La Mã cổ đại đã mô tả chuyến thăm của sứ thần từ các vua Bactria và Ấn Độ trong thế kỷ thứ 2, có thể đề cập đến người Quý Sương.

Historia Augusta, khi nói về Hoàng đế Hadrian (117-138), có ghi:

:"Reges Bactrianorum legatos ad eum, amicitiae petendae causa, supplices miserunt" :"Các vị vua của người Bactria đã gửi những sứ thần nhún nhường tới chỗ ngài, thỉnh cầu tình hữu nghị với ngài."

Cũng trong năm 138, theo Aurelius Victor (Epitome, XV, 4), và Appian (Praef., 7), Antoninus Pius, người kế vị Hadrian, cũng đã tiếp đón một số người Ấn Độ, những sứ thần người Bactria Hyrcania.

Tiếp xúc với Trung Hoa

Trong thế kỷ 1 và 2, Vương triều Quý Sương đã mở rộng các chiến dịch quân sự về phía bắc và chiếm đóng các phần của lòng chảo Tarim, vùng đất ban đầu của họ, đặt nó vào trung tâm của thương mại Trung Á đang sinh lợi với Đế chế La Mã. Họ có liên quan đến việc liên kết quân sự với người Trung Quốc để chống lại sự xâm nhập của các bộ lạc du cư, cụ thể là khi họ liên kết với tướng Trung Quốc là Ban Siêu để chống lại người Sogdian năm 84, khi những người này cố gắng ủng hộ cuộc nổi dậy của vua Kashgar. Khoảng năm 85, họ cũng hỗ trợ người Trung Quốc trong cuộc tấn công Thổ Phồn, ở miền đông lòng chảo Tarim.

Để đòi hỏi sự ghi nhận việc ủng hộ của mình với người Trung Quốc, người Quý Sương đã đòi hỏi (nhưng bị từ chối) các công chúa người Hán, ngay sau khi họ gửi các tặng phẩm cho triều đình Trung Quốc. Để trả thù, họ đã tấn công Ban Siêu năm 86 bằng một lực lượng tới 70.000 quân, nhưng, bị mệt mỏi do cuộc hành quân, cuối cùng họ đã bị lực lượng Trung Quốc ít người hơn đánh bại.

  • Chhu (khoảng năm 310? – 325?)
  • Shaka I (khoảng năm 325 – 345)
  • Kipunada (khoảng năm 345 – 375)
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Đế quốc Quý Sương**, tức **Đế quốc Kushan** (vào khoảng thế kỷ thứ 1–3), là một cường quốc cổ đại tại Trung Á. Vào thời đỉnh cao (105-250), đế chế này trải dài từ Tajikistan
**Nhà Sassan**, còn gọi là **Sassanian**, **Sasanid**, **Sassanid**, (tiếng Ba Tư: ساسانیان) hay **Tân Đế quốc Ba Tư**, là triều đại Hỏa giáo cuối cùng của Đế quốc Ba Tư trước sự nổi lên của
**Đế chế Parthia** hay còn được gọi là **Đế chế Arsaces** (247 TCN – 224 CN) (tiếng Việt trong một số tài liệu Phật giáo còn dịch Parthia là **An Tức**) là một quốc gia
thumb|Bản đồ đế quốc La Mã Thần Thánh dưới triều Hoàng đế [[Karl IV của Thánh chế La Mã|Karl IV]] **Đế quốc La Mã Thần Thánh** (tiếng Latinh: _Sacrum Romanum Imperium_; tiếng Đức: _Heiliges Römisches
Sự di cư của người Nguyệt Chi qua vùng Trung Á, từ khoảng năm [[176 TCN đến năm 30]] **Nguyệt Chi** (tiếng Trung:月氏, hoặc 月支) hay **Đại Nguyệt Chi** (tiếng Trung:大月氏, hoặc 大月支), là tên
**Vương quốc Ấn-Hy**, **Vương quốc Ấn-Hy Lạp** hay **Vương quốc Graeco-Ấn Độ**, còn được gọi trong lịch sử là **Vương quốc Yavana** (Yavanarajya), là một vương quốc Hy Lạp thời kỳ Hy hóa bao gồm
**Quan hệ La Mã – Trung Quốc** là các tiếp xúc chủ yếu gián tiếp, quan hệ mậu dịch, luồng thông tin và các lữ khách đi lại không thường xuyên giữa đế quốc La
**Hoàng đế Kanishka** (, Tiếng Đại Hạ: __, Trung Cổ Hán ngữ: 迦腻色伽) là vua của vương quốc Quý Sương ở Trung Á, là người Quý Sương thuộc tộc Nguyệt Chi. Âm Hán-Việt của Kanishka
**Vương quốc Hy Lạp-Bactria** cùng với vương quốc Ấn-Hy Lạp là các vương quốc nằm ở cực đông của thế giới Hy Lạp hóa, vương quốc này tồn tại từ năm 256 cho tới năm
**Nhà Hán** là hoàng triều thứ hai trong lịch sử Trung Quốc, do thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Lưu Bang thành lập và được cai trị bởi gia tộc họ Lưu. Tiếp nối nhà
**Samarkand** (, ; ; ; ) là thành phố lớn thứ hai của Uzbekistan và là thủ phủ của tỉnh Samarqand, cách thủ đô Tashkent khoảng 350 km. Đây là một thành phố du lịch nổi
nhỏ|Lăng mộ năm 1342 của [[Katarina Vilioni, thành viên của một gia đình thương gia người Ý ở Dương Châu]] Dựa trên bằng chứng văn bản và khảo cổ học, người ta tin rằng hàng
**Đệ Nhất đế chế**, hay **chế độ Napoleon**, tên chính thức **Cộng hòa Pháp**, sau đó là **Đế quốc Pháp** (; ) là một chế độ chính trị trong lịch sử nước Pháp, do Napoléon
**Honorius** (; 384 – 423), là một vị Hoàng đế của Đế quốc Tây La Mã, ở ngôi từ năm 395 cho đến khi mất năm 423. Ông là người con út của Hoàng đế
**Hãn quốc Sát Hợp Đài** hay **Sát Hợp Đài hãn quốc** (tiếng Mông Cổ: Tsagadai Khan Uls/Цагадайн улс) là một hãn quốc Turk-Mông Cổ bao gồm các phần lãnh thổ do Sát Hợp Đài cùng
**Đế chế thứ hai** hay **Đệ Nhị đế chế** là vương triều Bonaparte được cai trị bởi Napoléon III từ 1852 đến 1870 tại Pháp. Đế quốc này được bắt đầu sau Đệ Nhị Cộng
**Ngũ đại Thập quốc** (, 907-979) là một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ khi triều Đường diệt vong, kéo dài đến khi triều Tống thống nhất Trung Quốc bản thổ.
Váy Dập Ly Dáng Suông Cổ Đức Siêu XinhLỜI HỨA CỦA NOVA SHOP – BÁN HÀNG VÌ CHỮ TÍN - Luôn đặt chữ tín lên hàng đầu - Gía rẻ nhất đến tay khách hàng
Váy Dập Ly Dáng Suông Cổ Đức Siêu XinhLỜI HỨA CỦA NOVA SHOP – BÁN HÀNG VÌ CHỮ TÍN - Luôn đặt chữ tín lên hàng đầu - Gía rẻ nhất đến tay khách hàng
Váy Maxi Dập Ly Dáng Suông 6 Màu Siêu XinhLỜI HỨA CỦA NOVA SHOP – BÁN HÀNG VÌ CHỮ TÍN - Luôn đặt chữ tín lên hàng đầu - Gía rẻ nhất đến tay khách
Váy Dập Ly Dáng Suông Cổ Đức Siêu XinhLỜI HỨA CỦA NOVA SHOP – BÁN HÀNG VÌ CHỮ TÍN - Luôn đặt chữ tín lên hàng đầu - Gía rẻ nhất đến tay khách hàng
Váy Maxi Dập Ly Dáng Suông 6 Màu Siêu XinhLỜI HỨA CỦA NOVA SHOP – BÁN HÀNG VÌ CHỮ TÍN - Luôn đặt chữ tín lên hàng đầu - Gía rẻ nhất đến tay khách
Váy Maxi Dập Ly Dáng Suông 6 Màu Siêu XinhLỜI HỨA CỦA NOVA SHOP – BÁN HÀNG VÌ CHỮ TÍN - Luôn đặt chữ tín lên hàng đầu - Gía rẻ nhất đến tay khách
Váy Dập Ly Dáng Suông Cổ Đức Siêu XinhLỜI HỨA CỦA NOVA SHOP – BÁN HÀNG VÌ CHỮ TÍN - Luôn đặt chữ tín lên hàng đầu - Gía rẻ nhất đến tay khách hàng
**Vương Sưởng** (chữ Hán: 王昶, ? – 259) tự **Văn Thư**, người Tấn Dương, Thái Nguyên , quan viên, tướng lãnh nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc. ## Thiếu thời Bác của Sưởng là Nhu,
Top giọt sương vinimay , top giọt nước* Mô tả :- Top giọt sương là phụ kiện không thể thiếu khi trang trí móng - Top giọt sương vinimay hỗ trợ trong quá trình làmgiọt
Top giọt sương Jeliva , top giọt nước*Chú ý: Sản phẩm có thể thay đổi mẫu mã theo từng đợt nhập hàng* Mô tả :- Top giọt sương Jeliva là phụ kiện không thể thiếu
Top giọt sương Vinimay , top giọt nước* Mô tả :- Top giọt sương Vinimay là phụ kiện không thể thiếu khi trang trí móng - Top giọt nước Vinimay hỗ trợ trong quá trình
**Lương Võ Đế** (chữ Hán: 梁武帝; 464 – 549), tên húy là **Tiêu Diễn** (蕭衍), tự là **Thúc Đạt** (叔達), tên khi còn nhỏ **Luyện Nhi** (練兒), là vị Hoàng đế khai quốc của triều
**Eugène de Savoie-Carignan** (18 tháng 10 năm 1663 – 21 tháng 4 năm 1736), hay **François Eugène de Savoie**, thường được biết đến với biệt danh **Hoàng thân Eugène** (, , ), là một lãnh
**_Tam quốc chí_** (giản thể: 三国志; phồn thể: 三國志; Wade-Giles: _Sanguo Chih_; bính âm: _Sānguó Zhì_), là một sử liệu chính thức và có căn cứ về thời đại Tam Quốc của Trung Quốc từ
**Ẩm thực Trung Quốc** (, ) là một phần quan trọng của văn hóa Trung Quốc, bao gồm ẩm thực có nguồn gốc từ các khu vực đa dạng của Trung Quốc, cũng như từ
Bản đồ Rio de Janeiro, 1895 **Rio de Janeiro** (phát âm IPA ; theo tiếng Bồ Đào Nha nghĩa là "dòng sông của tháng Giêng"), hay còn gọi tắt là **Rio** là thành phố tại
**Tấn An Đế** () (382–419), tên thật là **Tư Mã Đức Tông** (司馬德宗), là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Đông Tấn, và là Hoàng đế thứ 15 của Nhà Tấn trong lịch sử
**Lịch sử Trung Quốc** đề cập đến Trung Hoa, 1 trong 4 nền văn minh cổ nhất thế giới, bắt nguồn từ lưu vực phì nhiêu của hai con sông: Hoàng Hà (bình nguyên Hoa
**Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland** hoặc **Vương quốc Liên hiệp Đại Anh và Ireland** () là quốc gia được thành lập ngày 1 tháng 1 năm 1801 khi Vương quốc Đại Anh và
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
Nền kinh tế nhà Hán (206 TCN - 220 CN) đã trải qua các thời kỳ thịnh suy thuận theo các thăng trầm trong dòng lịch sử của Trung Hoa cổ đại. Thời kỳ nhà
**Lịch đại Đế Vương miếu** (chữ Hán phồn thể: 厯代帝王廟; chữ Hán giản thể: 历代帝王庙, bính âm Hán ngữ: _Lìdài Dì Wáng miào_), còn gọi là **Miếu Lịch đại Đế Vương Trung Quốc** hay **Đế
**Phổ** (tiếng Đức: Preußen; tiếng Latinh: _Borussia_, _Prutenia_; tiếng Anh: Prussia; tiếng Litva: _Prūsija_; tiếng Ba Lan: _Prusy_; tiếng Phổ cổ: _Prūsa_) là một quốc gia trong lịch sử cận đại phát sinh từ Brandenburg,
**Minh Đức Mã hoàng hậu** (chữ Hán: 明德馬皇后; ? - 9 tháng 7, 79), hay thường gọi **Minh Đức hoàng thái hậu** (明德皇太后), **Đông Hán Minh Đức Mã hoàng hậu** (東漢明德馬皇后), **Đông Hán Mã thái
là một bộ manga Nhật Bản do Gotōge Koyoharu sáng tác và minh hoạ. Truyện kể về hành trình trở thành kiếm sĩ diệt quỷ của thiếu niên Kamado Tanjirō sau khi gia đình cậu
**Ủy ban Toàn quốc Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc** (), viết tắt **Chính Hiệp Toàn quốc** () hoặc **Ủy ban Toàn quốc Chính Hiệp** (), là tổ chức cấp quốc
**Triều đại Gondophares**, và hay còn được gọi là các vị vua **Ấn-Parthia** là một nhóm các vị vua cổ đại cai trị vùng đất ngày nay là Afghanistan, Pakistan và Bắc Ấn Độ, trong
**Mạnh Sưởng** () (919–12 tháng 7, 965), sơ danh **Mạnh Nhân Tán** (孟仁贊), tự **Bảo Nguyên** (保元), được Tống Thái Tổ truy thụy hiệu là **Sở Cung Hiếu Vương** (楚恭孝王), là hoàng đế thứ hai
**Lịch sử của Afghanistan,** (**' **' **' **') với tư cách là một nhà nước bắt đầu vào năm 1747 với sự thành lập của Ahmad Shah Durrani. Văn bản ghi lại lịch sử của
**Người Ấn-Scythia** là một thuật ngữ được sử dụng để chỉ người Saka (hoặc Scythia), những người đã di cư vào Bactria, Sogdiana, Arachosia, Gandhara, Kashmir, Punjab, Gujarat, Maharashtra và Rajasthan, từ giữa thế kỷ
**Trận Austerlitz** (còn gọi là **Trận Ba Hoàng đế** hay **Trận Tam Hoàng**), là một trong những trận đánh quan trọng và có tính chất quyết định trong chiến tranh Napoléon. Trận đánh xảy ra
**Người Saka** (tiếng Ba Tư cổ: ; Kharoṣṭhī: ; tiếng Ai Cập cổ: , ; , tiếng Hán thượng cổ , mod. , ), **Shaka** (tiếng Phạn (Brāhmī): , 12x12px 12x12px, ; tiếng Phạn (Devanāgarī):
**_Đêm và sương mù_** (tiếng Đức: **_Nacht und Nebel_**, tiếng Anh: **_Night and Fog_**) còn được gọi là **Nghị định về Đêm và Sương mù**, là một chỉ thị do Adolf Hitler ban hành vào