✨Mạnh Sưởng (Hậu Thục)

Mạnh Sưởng (Hậu Thục)

Mạnh Sưởng () (919–12 tháng 7, 965), sơ danh Mạnh Nhân Tán (孟仁贊), tự Bảo Nguyên (保元), được Tống Thái Tổ truy thụy hiệu là Sở Cung Hiếu Vương (楚恭孝王), là hoàng đế thứ hai và cuối cùng của nước Hậu Thục thời Ngũ Đại Thập Quốc tại Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 934 cho đến khi quốc gia bị triều Tống chinh phục vào năm 965.

Trong hơn ba thập niên ông trị vì, Hậu Thục phần lớn được hưởng sự thái bình. Quốc gia trở thành một trong các trung tâm về nghệ thuật và văn học, chúng phát triển mạnh mẽ với sự bảo trợ của triều đình. Hậu Thục cũng nằm trong số các vương quốc phương nam ổn định nhất, song lại đình đốn về quân sự và chính trị. Khi triều Tống thay thế triều Hậu Chu tại Trung Nguyên vào năm 960, hoàng đế khai quốc của triều Tống là Tống Thái Tổ tiến hành công cuộc thống nhất Trung Hoa. Quân Tống buộc Mạnh Sưởng phải đầu hàng vào năm 965.

Thân thế

Mạnh Nhân Tán sinh tháng 11 âm lịch năm Kỉ Mão (919) tại Thái Nguyên. Cha ông là Mạnh Tri Tường, đương thời là giáo luyện sứ dưới quyền Tấn vương Lý Tồn Úc, và được Lý Tồn Úc cho kết hôn với một người trong vương thất. Tuy nhiên, Mạnh Nhân Tán lại do một phụ nữ họ Lý khác sinh ra, người này nguyên là thiếp của Lý Tồn Úc, song được tặng cho Mạnh Tri Tường làm thiếp. Ông là con thứ ba của Mạnh Tri Tường. Năm 925, Hậu Đường Trang Tông khiển quân đi chinh phục nước Tiền Thục ở tây nam. Sau đó, Hậu Đường Trang Tông bổ nhiệm Mạnh Tri Tường là Tây Xuyên tiết độ sứ, cai quản một lãnh thổ lớn của Tiền Thục lúc trước. Tuy nhiên, một thời gian ngắn sau, toàn lãnh thổ Hậu Đường ngập chìm trong nội loạn, và Hậu Đường Trang Tông bị sát hại trong một cuộc binh biến tại kinh thành Lạc Dương vào năm 926. Kế vị Hậu Đường Trang Tông là Lý Tự Nguyên, tức Hậu Đường Minh Tông.

Mạnh Tri Tường có mâu thuẫn với chính quyền một thời gian ngắn sau đó, đặc biệt là với Xu mật sứ An Trọng Hối (安重誨) đầy quyền lực, vị quan này nghi ngờ cả Mạnh Tri Tường (do có quan hệ hôn nhân với họ hàng của Hậu Đường Trang Tông) và Đông Xuyên tiết độ sứ Đổng Chương (董璋). Căng thẳng bắt đầu leo thang, đặc biệt là sau khi Mạnh Tri Tường hành quyết Tây Xuyên đô giám Lý Nghiêm (李嚴) do Hậu Đường Minh Tông phái đến, vào năm 927., tin tức về việc Mạnh Tri Tường hành hình Lý Nghiêm đã lan đến đây. Phượng Tường tiết độ sứ Lý Tòng Nghiễm do vậy giữ họ lại Phượng Tường một thời gian, song Hậu Đường Minh Tông sau đó ban lệnh cho phép học tiếp tục đến Tây Xuyên. Hậu Thục ban cho Mạnh Tri Tường các chức kiểm giáo thái bảo, Đông Xuyên tiết độ sứ, Sùng Thánh cung sứ, và Đồng trung thư môn hạ bình chương sự. Khi đó ông 16 tuổi (âm).. Mạnh Sưởng thoạt đầu bất đắc dĩ chấp thuận, thăng Lý Nhân Hãn cai quản lục quân vào ngày Giáp Dần (17) tháng 9 (tức 27 tháng 10), cho Triệu Đình Ấn làm phó. Tuy nhiên, sang tháng 10 ÂL, Trương Công Đạc và một vài thân tín khác của Mạnh Sưởng buộc tội Lý Nhân Hãn có ý đồ khác, Mạnh Tri Tường quyết định bắt giữ Lý Nhân Hãn khi người này nhập triều, sau đó hạ chiếu trừ khử Lý Nhân Hãn cùng kỳ tử Lý Kế Hoành (李繼宏) và một vài tùy tòng khác. Chiêu Vũ tiết độ sứ Lý Triệu (李肇) trước đó mặc dù biết Mạnh Sưởng tức hoàng đế vị song không chịu nhập triều, song trước diễn biến này, Lý Triệu thay đổi thái độ và trở nên rất phục tùng. Các thân tín của thuyết phục Mạnh Sưởng giết Lý Triệu vì tội ngạo mạn, song Mạnh Sưởng chỉ buộc Lý Triệu trí sĩ.- là nơi hàng phục Hậu Thục trong những ngày cuối Mạnh Tri Tường trị vì. Tuy nhiên, cuộc tiến công này bị tướng Hậu Thục Lý Diên Hậu (李延厚) đẩy lui. và đến năm 937 thì khiển sứ sang Hậu Thục thông báo sự việc cho Mạnh Sưởng. Mạnh Sưởng viết thư hồi đáp, dùng lễ giữa hai nước ngang hàng.

Tháng 8 ÂL năm 939, chư hầu của Hậu Thục là Khê châu thứ sử Bành Sĩ Sầu (彭士愁) dẫn hơn vạn người Man tiến công hai châu Thìn và Lễ của Sở (chư hầu chính thức của Hậu Tấn), Bành Sĩ Sầu khiển sứ sang Hậu Thục cầu viện để tiến quân hơn nữa. Tuy nhiên, Mạnh Sưởng thấy chiến dịch diễn ra quá xa nên không đồng ý. Sau đó, lực lượng do Sở vương Mã Hi Phạm (馬希範) phái đi giành được thắng lợi trước Bành Sĩ Sầu. Bành Sĩ Sầu đầu hàng Sở vào tháng giêng ÂL năm sau, lãnh thổ của người nay rơi vào tay Sở.

Kể từ khi Hậu Thục kiến quốc, các đại tướng thường được ban chức tiết độ sứ song vẫn ở lại kinh thành Thành Đô để tiếp tục giám sát các hoạt động của cấm binh. Điều này dẫn đến việc họ sao lãng quản trị các đạo, giao lại công việc cho liêu tá, song những người này thường xuyên tham nhũng và không lo liệu chính sự. Mạnh Sưởng nhận thấy được tệ này, và ngày Bính Thìn (26) tháng 2 năm Tân Sửu (26 tháng 3 năm 941), ông tiến hành cải thiện tình hình bằng cách tước các chức tiết độ sứ của Triệu Đình Ẩn, Vương Xử Hồi, và Trương Công Đạc, 'thăng' họ làm kiểm giáo quan. Đến ngày Giáp Tuất (14) tháng 3 (tức 13 tháng 4), ông khiển năm sĩ đại phu đến làm chủ năm quân. tiết độ sứ An Tòng Tiến (安從進) của Hậu Tấn mưu phản chống Hậu Tấn Cao Tổ, An Tòng Tiến khiển sứ phụng biểu cho Hậu Thục cầu viện, thỉnh cầu Hậu Thục tiến công Kim châu và Thương châu của Hậu Tấn để phân tán quân lực của Hậu Tấn. Sau khi thảo luận với quần thần, Mạnh Sưởng quyết định rằng việc khiển một đội quân nhỏ về bản chất là không giúp đỡ cho An Tòng Hiến, và nếu khiển một đội quân lớn thì sẽ gặp phải các vấn đề lớn về hậu cần. Do đó, Mạnh Sưởng từ chối viện trợ cho An Tòng Tiến.

Năm 943, Mạnh Sưởng ban một chiếu chỉ tiến hành chọn lựa mỹ nữ trong thiên hạ để sung vào hậu cung, độ tuổi giới hạn là 13-20 (âm). Lão bách tính bị náo động, nhiều gia đình nhanh chóng cho nữ nhi của nhà mình xuất giá để tránh phải tham gia tuyển chọn, gọi là 'kinh hôn'. Khi Tân Tân huyện lệnh Trần Cập Chi (陳及之) dâng thư khuyến gián, viên quan này được Mạnh Sưởng biểu dương, song vẫn không đình chỉ quá trình chinh thu. Sau khi chinh thu, số cung nữ tăng lên nhiều, Mạnh Sưởng phân họ thành 14 cấp như chiêu nghi, chiêu dung, chiêu hoa, bảo phương, bảo y, an thần, an tất, an tình, tu dung, tu ái, tu quyên. hiện nay. Tuy nhiên, quân Hậu Thục thất bại trước quân Tần châu của Hậu Tấn vào tháng 3 ÂL.

Thời kỳ trị vì giữa

Tháng 12 âm lịch năm Bính Ngọ (tháng 1 năm 947), quân Khiết Đan do Thái Tông hoàng đế Da Luật Đức Quang chỉ huy tiến đến kinh thành Khai Phong của Hậu Tấn, Hoàng đế Hậu Tấn Thạch Trọng Quý (người kế vị Thạch Kính Đường) đầu hàng Khiết Đan vào ngày Quý Dậu (17) tháng 12 (tức 11 tháng 1). Hầu hết các tiết độ sứ của Hậu Tấn nhanh chóng quy phục hoàng đế Khiết Đan. Tuy nhiên, tháng giêng âm lịch năm sau, Hùng Vũ tiết độ sứ Hà Trọng Kiến (何重建) trảm một sứ giả Khiết Đan và đem lãnh địa của mình (gồm ba châu Tần, Thành, Giai) hàng Hậu Thục. Sang 1 tháng 2 âm lịch (24/2), Da Luật Đức Quang tuyên bố mình là hoàng đế hợp pháp của cả người Hán và người Khiết Đan, xưng là Đại Liêu. Ngày Ất Sửu (9) cùng tháng (4/3), Hà Trọng Kiến thỉnh cho quân Hậu Thục cùng quân Giai-Thành tiếng công Phượng châu, ngày hôm sau Mạnh Sưởng cho 3700 lính đến. Ngày Ất Hợi (20) tháng 4 (13/5), Phượng châu phòng ngự sứ Thạch Phượng Quân (石奉頵) — một thành viên của hoàng tộc Hậu Tấn — cũng đem châu của mình đầu hàng Hậu Thục.

Tuy nhiên, do hoàng đế triều Liêu không cai trị tốt, nhiều cuộc nổi dậy của người Hán nổ ra, mạnh nhất trong số đó là của cựu tướng Hậu Tấn Lưu Tri Viễn, người này xưng là hoàng đế của triều Hậu Hán vào ngày Tân Mùi (15) tháng 2 (tức 10 tháng 3). tiết độ sứ Triệu Khuông Tán (趙匡贊) do Liêu bổ nhiệm là con của đại tướng Liêu Triệu Diên Thọ (趙延壽), Triệu Khuông Tán lo sợ sẽ không được hoàng đế của Hậu Hán dung thứ, vì vậy vào tháng 10 ÂL khiển sứ hàng Hậu Thục. Theo thỉnh cầu của Triệu Khuông Tán, ngày Canh Dần (10) tháng 12 (23 tháng 1 năm 948), Mạnh Sưởng cho hàng tướng Hậu Tấn là Tiết độ sứ Trương Kiền Chiêu (張虔釗) đem 5 vạn quân đi viện trợ Triệu Khuông Tán. Ông cũng lệnh cho Xu mật sứ Vương Xử Hồi viết thư chiêu dụ Phượng Tường tiết độ sứ Hầu Ích (侯益). Hầu Ích chấp thuận, quân Hậu Thục tiến gần tới thủ phủ của Tấn Dương, sẵn sàng sáp nhập thêm một lượng lớn lãnh thổ. Tuy nhiên, sang tháng giêng, Tấn Dương tiết độ phán quan Lý Thứ (李恕) thuyết phục Triệu Khuông Tán đổi ý và quay sang quy phục Hậu Hán; Triệu Khuông Tán khiển Lý Thứ đến kinh thành Khai Phong của Hậu Hán để cầu xin Lưu Tri Viễn tha thứ. Hay tin Triệu Khuông Tán đổi ý, Hầu Ích cũng khiển sứ giả đến chỗ Lưu Tri Viễn để xin tha thứ. Lưu Tri Viễn khiển Vương Cảnh Sùng (王景崇) đem quân hướng về Tấn Xương và Phượng Tường để chuẩn bị cho trận đánh với quân Hậu Thục, vởi chỉ thị tấn công Triệu Khuông Tán và Hầu Ích nếu như họ lại đổi ý. Tuy nhiên, Triệu Khuông Tán nhanh chóng dời đến Khai Phong, còn Hầu Ích sau khi lưỡng lự cũng làm như vậy, quân của Vương Cảnh Sùng nay chiếm được cả hai lãnh địa này. Sau đó, tướng Lý Đình Khuê của Hậu Thục đến Trường An, biết tin Triệu Khuông Tán đến Khai Phong thì muốn trở về, Vương Cảnh Sùng đón đánh Lý Đình Khuê ở Tử Ngọ Cốc. Trương Kiền Chiêu đến Bảo Kê, chư tướng chọn cách án binh không tiến. Quân Thục sau đó chiến bại trước Vương Cảnh Sùng trong một vài trận chiến nhỏ, và triệt thoái, kết thúc hy vọng giành được một lãnh thổ rộng vào đương thời.

Tuy nhiên, một cơ hội đoạt thêm lãnh thổ lại tiến đến ngay sau đó. Hầu Ích đến Khai Phong và tặng nhiều quà cho các quan chủ chốt mà Lưu Tri Viễn trước lúc qua đời đã giao phó giúp đỡ thiếu hoàng đế Lưu Thừa Hựu, Hầu Ích có được ảnh hưởng lớn trong triều đình Hậu Hán, được giữ chức Khai Phong doãn vào Bính Dần (17) tháng 3 (28 tháng 4 năm 948). Bực tức trước việc Vương Cảnh Sùng trước đó từng định giết mình, Hầu Ích tung tin đồn làm tổn hại đến thanh danh của Vương Cảnh Sùng. Vương Cảnh Sùng hay tin thì bất an. Hơn nữa, đương thời có hai cuộc nổi dậy nổ ra chống lại triều đình Hậu Hán: Hộ Quốc tiết độ sứ kiêm Trung thư lệnh Lý Thủ Trinh (李守貞) nổi dậy từ lãnh địa của mình còn Triệu Tư Oản (趙思綰) nổi dậy tại Trường An. Do đó, Vương Cảnh Sùng cũng quyết định nổi dậy, liên kết với Lý Thủ Trinh và Triệu Tư Oản, trong khi cũng khiển sứ giả đế quy phục Hậu Thục, Triệu Tư Oản cũng làm vậy. Hậu Thục cử quân nhằm viện trợ cho Vương Cảnh Sùng và Triệu Tư Oản, song quân Hậu Thục ban đầu bị tướng Hậu Hán là Triệu Huy (趙暉) cho quân tập kích và đẩy lui vào tháng 9 ÂL. Sang tháng 10 ÂL, Mạnh Sưởng cử một đội quân lớn hơn dưới quyền chỉ huy của Sơn Nam Tây đạo tiết độ sứ An Tư Khiêm (安思謙) nhằm viện trợ Vương Cảnh Sùng và Triệu Tư Oản, bất chấp việc Đồng bình chương sự Vô Chiêu Duệ (毋昭裔) nói rằng việc này quá nguy hiểm. Đội quân của An Tư Khiêm sa lầy ở mặt trận với Hậu Hán, và đến khi cạn lương thảo thì buộc phải triệt thoái. Không còn hy vọng Hậu Thục cứu viện trong khi bị Triệu Huy bao vây, Vương Cảnh Sùng tự sát vào tháng 12 ÂL năm sau. Triệu Tư Oản đầu hàng song sau đó bị tướng Quách Tòng Nghĩa (郭從義) bắt giữ và hành hình.

Trong khi quân Hậu Thục giao chiến với quân Hậu Hán, trong nội bộ triều đình Hậu Thục diễn ra một cuộc cải tổ. Đồng bình chương sự Trương Nghiệp (張業) là người ngạo mạn và xa xỉ, cưỡng đoạt tài sản của nhiều người, gây nên phẫn uất. Trương Nghiệp cũng che chở những kẻ trốn án tử trong tư đệ, giam người nợ tiền mình vào ngục. Hữu khuông thánh đô chỉ huy sứ Tôn Hán Thiều (孫漢韶) có thù với Trương Nghiệp, do vậy mật cáo Trương Nghiệp cùng con trai là Trương Kế Chiêu (張繼昭) mưu phản. Mạnh Sưởng tin theo lời của Tôn Hán Thiều, ngày Giáp Tý (17) tháng 7 (24 tháng 8 năm 948), Mạnh Sưởng cho tráng sĩ giết Trương Nghiệp khi người này nhập triều, hạ chiếu kể tội. Trong khi đó, An Tư Khiêm cũng đưa ra các cáo buộc tương tự với Vương Xử Hồi và Triệu Đình Ẩn, song Mạnh Sưởng không nỡ giết và cho phép họ được trí sĩ. Cho rằng có nhiều điều bị che giấu khi Trương Nghiệp và Vương Xử Hồi chấp chính, Mạnh Sưởng vào ngày Kỉ Mùi (14) tháng 9 (18/10/948) bắt đầu cho đặt 'quỹ hàm', sau đổi thành 'hiến nạp hàm', cho phép người dân mật báo cho ông bằng cách đặt thư từ vào trong hộp. Lý Hạo (李昊) và Từ Quang Phổ (徐光溥) thay thế vị trí tể tướng của Trương Nghiệp (song ngay sau đó Từ Quang Phổ bị bãi chức do bị cáo buộc trêu ghẹo con gái của hoàng đế khai quốc Tiền Thục Vương Kiến), song không ai được kế nhiệm chức xu mật sứ của Vương Xử Hồi. Mạnh Sưởng muốn lập hai thân tín là Phổ phong khố sứ Cao Diên Chiêu (高延昭) và Trà tửu khố sứ Vương Chiêu Viễn (王昭遠) làm xu mật sứ, song họ bị cho là không đủ thâm niên, do vậy ông ban cho họ làm 'thông tấu sứ' và làm chủ công việc của xu mật viện. Vương Chiêu Viễn còn được cho phép lấy tiền bạc từ phủ khố theo ý muốn, miễn kế toán.

Tháng 4 ÂL 951, theo ý của Cao Diên Chiêu, Mạnh Sưởng cho người này được miễn làm chủ xu mật viện. Mạnh Sưởng cho họ hàng của mình là Y Thẩm Chinh làm chủ xu mật viện. Mạnh Sưởng tin tưởng giao phó nhiều chính sự lớn nhỏ cho Y Thẩm Chinh. Y Thẩm Chinh là người có tham vọng và cần mẫn, song cũng tham lam và xa xỉ. Y Thẩm Chinh và Vương Chiêu Viễn giám sát phần lớn việc triều chính, nền chính trị của Hậu Thục do vậy mà dần lụn bại.

Ngày Đinh Dậu (13) tháng 6 năm Nhâm Tý (7 tháng 7 năm 952), một trận lụt lớn xảy ra tại kinh đô Thành Đô của Hậu Thục, làm hơn 5.000 người chết chìm và khiến hơn 1.000 nhà bị phá hủy. Thậm chí bốn thất của Thái Miếu cũng bị hư hỏng. Ngày Mậu Tuất, tức ngày sau đó, Mạnh Sưởng ban lệnh đại xá và cứu tế cho những nhà chịu thủy tai.

Trong khi đó, người Thục tức giận trước việc An Tư Khiêm vu cáo khiến Trương Nghiệp bị hành hình và việc phế Triệu Đình Ẩn. Người ta cũng đổ lỗi cho An Tư Khiêm về thất bại của quân đội Hậu Thục khi cứu viện Vương Cảnh Sùng. Khi An Tư Khiêm đang là Tả khuông thánh mã bộ chỉ huy sứ, cung môn tăng cường thủ vệ, và An Tư Khiêm cho rằng Mạnh Sưởng làm vậy vì nghi ngờ mình. Hơn nữa, An Tư Khiêm khi quản lý túc vệ thường dùng cách giết sĩ tốt để lập uy. Những lần khi An Tư Khiêm quyết định đuổi vệ sĩ do không hài lòng, và Mạnh Sưởng bác bỏ quyết định của An Tư Khiêm mà giữ các vệ sĩ đó lại, thì sau đó An Tư Khiêm thường tìm cách để các vệ sĩ đó bị giết. Mạnh Sưởng tin vào cáo buộc của Hàn lâm sứ Vương Tảo (王藻) rằng An Tư Khiêm oán giận mà mưu làm phản, ngày Đinh Tị (12) tháng 2 năm Giáp Dần (19 tháng 3 năm 954), ông sai người giết chết An Tư Khiêm và ba người con trai. Đến 1 tháng 3 (6 tháng 4), ông cũng bãi quân chức của Phủng thánh khống hạc đô chỉ huy sứ Tôn Hán Thiều. Cấm binh được phân cho 10 tướng lĩnh quản lý.

Đến ngày 1 tháng 5 ÂL (tức 24 tháng 5), Hậu Chu bắt đầu tiến công. Quân Hậu Chu nằm dưới quyền chỉ huy của Phượng Tường tiết độ sứ Vương Cảnh (王景) và Trấn An tiết độ sứ Hướng Huấn (向訓). Triệu Quý Trát đến Đức Dương thì biết tin quân Hậu Chu tiến vào biên cảnh, người này sợ hãi và tự mình chạy về phía tây. Đến ngày Đinh Hợi (20) cùng tháng (tức 12 tháng 6), Triệu Quý Trát về đến Thành Đô, dân chúng trong thành khiếp sợ do nghĩ rằng quân Hậu Thục thua chạy. Khi Mạnh Sưởng hỏi cơ sự, Triệu Quý Trát không ứng đáp được. Mạnh Sưởng tức giận và cho xử trảm Triệu Quý Trát vào ngày Giáp Ngọ (27) tại Sùng Lễ môn. Trước đó, ngày Mậu Dần (11) tháng 5 (tức 3 tháng 6), Mạnh Sưởng phong Lý Đình Khuê (李廷珪) làm Bắc lộ hành doanh đô thống và Cao Ngạn Trù (高彥儔) làm Chiêu thảo sứ, sai họ đem quân đi giao chiến với Hậu Chu. Ngày Đinh Mùi (10) tháng 6 (2 tháng 7), Mạnh Sưởng khiển sứ sang Bắc Hán và Nam Đường để đề nghị cùng xuất binh chế ngự Bắc Chu, quân chủ hai nước đều đồng ý, song không thấy ghi chép rằng họ thực sự tiến hành các hành động.

Tuy nhiên, Mạnh Sưởng không nghe theo lời của bà. lục sự tham quân.

Trong khi đó, Nam Bình vương Cao Bảo Dung (một chư hầu của Hậu Chu) nhiều lần đưa thư cho Mạnh Sưởng, khuyên ông xưng thần với Hậu Chu. Còn Quách Uy thì sau khi kết thúc chiến dịch chống Nam Đường (kết quả Nam Đường xưng thần và cắt đất phía bắc Trường Giang cho Hậu Chu), lại tiến hành chuẩn bị cho chiến dịch nữa chống Hậu Thục. Mạnh Sưởng quan tâm nghiêm túc đến vấn đề này, nghị với các đại thần. Các đại thần cho rằng giang sơn Thục hiểm trở thuận lợi cho phòng thủ và họ sẵn sàng tử vệ xã tắc. Do đó, ngày Đinh Dậu (20) tháng 10 (tức 3 tháng 12), Mạnh Sưởng mệnh Lý Hạo thảo thư cho Cao Bảo Dung, hết lời cự tuyệt. Sau đó, Cao Bảo Dung thỉnh Quách Uy phạt Hậu Thục. Để chuẩn bị chống lại cuộc xâm nhập sắp tới của Hậu Chu, vào tháng 11 ÂL, Mạnh Sưởng bổ nhiệm các tướng lĩnh Triệu Sùng Thao, Mạnh Di Nghiệp (孟貽業), Triệu Tư Tiến (趙思進), và Cao Ngạn Trù trấn giữ các tuyến đường vào Thục. Tuy nhiên, khi chiến dịch chưa diễn ra, Quách Uy lâm bệnh và qua đời vào hè năm 959. Tuy thế, người dân Hậu Thục hoảng sợ trước viễn cảnh cuộc xâm nhập. Đô quan lang trung Từ Cập Phủ (徐及甫) tự phụ vì nghiệp quan trường không được như ý, thấy cơ hội này thì âm mưu kết đảng và tôn cháu của Vương Kiến là Thiếu phủ thiếu giám Vương Lệnh Nghi (王令儀) làm chủ để làm phản. Tuy nhiên, đến khi biết chắc rằng Hậu Chu không tiến công, trong đảng có người cáo giác, Từ Cập Phủ tự sát, Mạnh Sưởng ban chết cho Vương Lệnh Nghi vào ngày Giáp Ngọ (24) tháng 12 (tức 24 tháng 1 năm 960).

Tháng 2 năm Nhâm Tuất (962), Mạnh Sưởng lập trưởng tử Mạnh Huyền Triết là hoàng thái tử.

Cũng trong năm đó, Mạnh Sưởng mệnh quan viên truy đốc tiền thuế thiếu của 4 trấn 16 châu trong lãnh thổ. Long Du (huyện) lệnh Tứ Thuần (四淳) thượng sớ khuyến gián, cho rằng thúc ép hơn nữa sẽ chỉ khiến dân thêm gắng nặng và hại cho quốc gia, song Mạnh Sưởng không nghe theo.

Năm 964, theo ý của Vương Chiêu Viễn, Mạnh Sưởng khiển Tôn Ngộ, Triệu Ngạn Thao, Dương Quyên bí mật đem thư sang cho Bắc Hán chủ Lưu Quân, đề nghị đồng thời tấn công phủ đầu Tống. Tuy nhiên, khi vào đến đất Tống, Triệu Ngạn Thao lại đem thư dâng cho Tống Thái Tổ. Tống Thái Tổ nhận được thư thì vui cười nói "Cuộc tây thảo của ta có danh rồi", đồng thời tha cho Tôn Ngộ và Dương Quyên, lệnh cho ba người vẽ lại hình thế sông núi, những vị trí phòng thủ của Hậu Thục. Ngày Giáp Tuất (2) tháng 11 (tức 8 tháng 12), Tống Thái Tổ bổ nhiệm Vương Toàn Bân (王全斌) làm Phượng châu lộ đô bộ thự, thống suất lộ quân qua Phượng châu ở mặt bắc Hậu Thục; Lưu Quang Nghĩa (劉光義) làm Quy châu lộ phó đô bộ thự, thống suất lộ quân qua Quy châu ở mặt đông của Hậu Thục; tổng cộng có 6 vạn bộ binh và kị binh.

Hay tin quân Tống đến, Mạnh Sưởng bổ nhiệm Vương Chiêu Viễn làm Tây Nam hành doanh đô thống, Triệu Sùng Thao làm Đô giám, Hàn Bảo Chính làm Chiêu thảo sứ, Lý Tiến (李進) làm Phó chiêu thảo sứ, suất binh cự chiến. Vương Chiêu Viễn vốn cho rằng mình có tài phương lược, tại lễ xuất quân người này tự so sánh mình với Thừa tướng Gia Cát Lượng của Thục Hán thời Tam Quốc, tự cho rằng không những có thể địch lại quân Tống mà còn có thể đoạt lấy Trung Nguyên. Không lâu sau, tướng Tống là Lại Diên Đức (吏延德) bắt được Hàn Bảo Chính và Lý Tiến, quân Hậu Thục dưới quyền Vương Chiêu Viễn liên tiếp bại trận. Tháng giêng năm Ất Sửu, lo sợ trước việc Vương Chiêu Viễn bại trận, Mạnh Sưởng mộ binh trấn thủ Kiếm Môn quan, mệnh Thái tử Mạnh Huyền Triết làm nguyên soái, Lý Đình Khuê và Trương Huệ An (張惠安) làm phó, cầm đầu hơn vạn giáp binh. Tuy nhiên, trước khi quân của Mạnh Huyền Triết có thể tiến đến Kiếm Môn quan, quân của Vương Toàn Bân đã vượt qua được cửa ải này và cắt đứt đường trở về Thành Đô của Vương Chiêu Viễn. Vương Chiêu Viễn cố gắng giao chiến với Vương Toàn Bân, song thất bại, Vương Chiêu Viễn và Triệu Sùng Thao đều bị bắt. Mạnh Huyền Triết biết tin Kiếm Môn quan bị phá, quyết định đưa quân trở về Thành Đô.

Hay tin Vương Chiêu Viễn và Triệu Sùng Thao bị bắt, Mạnh Sưởng kinh hoàng và ban đầu không biết phải làm thế nào. Ông hỏi ý các đại thần còn lại. Lão thướng Thạch Phụng Quần (石奉頵) chủ trương phòng thủ Thành Đô, cho rằng quân Tống không thể bao vây lâu dài. Tuy nhiên, Mạnh Sưởng bác bỏ ý kiến này, nói rằng:

Theo chủ trương của Lý Hạo, Mạnh Sưởng mệnh Lý Hạo thảo biểu đầu hàng. Ngày Kỉ Mão (11) tháng 1 (7) tháng 1 (11 tháng 2), Mạnh Sưởng khiển Y Thẩm Chinh đem biểu đến chỗ quân Tống. Ngày Ất Dậu (13) tháng 1 (17 tháng 2), Y Thẩm Chinh mang biểu đầu hàng của Mạnh Sưởng đến chỗ Vương Toàn Bân, Vương Toàn Bân chấp thuận và khiển Khang Diên Trạch (康延澤) đến Thành Đô để đảm bảo với Mạnh Sưởng rằng ông được an toàn. Ngày Tân Mão cùng tháng (23 tháng 2), Vương Toàn Bân đến Thành Đô, Mạnh Sưởng đầu hàng, Hậu Thục diệt vong.

Sau khi hàng Tống

Lúc đầu hàng, Mạnh Sưởng cùng em là Nhã vương Mạnh Nhân Chí (孟仁贄) đến Khai Phong phụng biểu cầu ai, trong biểu của Mạnh Sưởng có đoạn "tự lượng quá cữu, thượng thiết ưu nghi." (tức lo sợ vì mắc nhiều lỗi). Tống Thái Tổ hạ chiếu trả lời rằng "đã tự cầu đa phúc, nay trừ bỏ hết sai trái khi trước. Trẫm không nuốt lời. Ngươi đừng quá lo." Chiếu không đề tên húy của Mạnh Sưởng, gọi Lý thái hậu là "quốc mẫu".

Vào tháng 3 ÂL 965, Mạnh Sưởng cùng quan thuộc và gia tộc bắt đầu hành trình đến Khai Phong, xuôi theo Trường Giang. Khi đến Giang Lăng, họ được ban cho ngựa và xe ngựa. Mạnh Sưởng đến Khai Phong vào tháng 5 ÂL, ngày Bính Tuất (17), tức 18 tháng 6, Tống Thái Tổ mở lễ lớn, Mạnh Sưởng cùng những người Hậu Thục khác mặc áo trắng chờ tội bên ngoài Minh Đức môn, Tống Thái Tổ một lần nữa hạ chiếu tha tội. Ngày Giáp Thìn (5) tháng 6 (6 tháng 7), Tống Thái Tổ phong Mạnh Sưởng làm Khai phủ nghi đồng tam ty, kiểm giáo thái sư, Trung thư lệnh, Tần quốc công. Ngày Canh Tuất (11) cùng tháng (12 tháng 7), Mạnh Sưởng qua đời. Tống Thái Tổ chuyết triều năm ngày, truy tặng Mạnh Sưởng là Thượng thư lệnh, truy phong là Sở vương, truy thụy Cung Hiếu. Sau khi Mạnh Sưởng qua đời, Lý thái hậu không khóc song ngừng ăn và cũng mất sau đó vài ngày.

Gia đình

Hậu phi

Trương Thái Hoa (張太華), là phi được Mạnh Sưởng sủng nhất, bị sét đánh chết khi cùng Mạnh Sưởng đến Thanh Thành Sơn. Từ quý phi, hay Hoa Nhị phu nhân, là phi được Mạnh Sưởng sủng nhất sau khi Trương Thái Hoa mất.

Tử

Hoàng thái tử Mạnh Huyền Triết (孟玄喆) (937-991), sau làm quan và tướng cho Tống Bao vương Mạnh Huyền Giác (孟玄珏) (?-992, sau làm tướng cho Tống *Mạnh Huyền Bảo (944-950), truy thụy Toại vương

Nữ

  • Một công chúa gả cho Y Sùng Độ (伊崇度)- con của Y Thẩm Trưng (伊審徵)
  • Một công chúa gả cho Hàn Sùng Toại (韓崇遂)- con của Hàn Bảo Chính (韓保正)
  • Một công chúa gả cho Triệu Văn Lượng (趙文亮)- con của Triệu Sùng Thao (趙崇韜)
  • Phượng Nghi công chúa, gả cho Lý Hiếu Liên (李孝連)- con của Lý Hạo (李昊)
  • Loan Quốc công chúa, gả cho Vô Khắc Cung (毋克恭)- con của Vô Chiêu Duệ (毋昭裔)
  • Một công chúa gả cho Triệu Thừa Hú (趙承煦)- con của Triệu Phổ
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mạnh Sưởng** () (919–12 tháng 7, 965), sơ danh **Mạnh Nhân Tán** (孟仁贊), tự **Bảo Nguyên** (保元), được Tống Thái Tổ truy thụy hiệu là **Sở Cung Hiếu Vương** (楚恭孝王), là hoàng đế thứ hai
**Hậu Thục** (chữ Hán: 後蜀) là một trong 10 quốc gia thời Ngũ đại Thập quốc trong lịch sử Trung Quốc, tồn tại từ năm 934 đến năm 965. Quốc gia này đóng tại vùng
**Mạnh Tri Tường** (, 10 tháng 5 năm 874 gọi theo miếu hiệu là **Hậu Thục Cao Tổ** (後蜀高祖), là vị quân chủ khai quốc của nước Hậu Thục thời Ngũ Đại Thập Quốc. Thoạt
**Chiêu Từ Thánh Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭慈聖獻皇后, 1073 - 1131), thường gọi **Nguyên Hựu hoàng hậu** (元祐皇后), **Nguyên Hựu Mạnh hoàng hậu** (元祐孟皇后) hay **Long Hựu Thái hậu** (隆祐太后), là Hoàng hậu đầu
**Chương Đức Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章德竇皇后; ? - 14 tháng 8, 97), cũng gọi **Chương Đức Đậu Thái hậu** (章德竇太后), **Đông Hán Đậu Thái hậu** (東漢竇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán
nhỏ|Roastbeef với Yorkshire puddings, khoai tây nướng và rau cải. **Ẩm thực Anh** bao gồm các phong cách nấu ăn, truyền thống và công thức nấu ăn liên quan đến nước Anh. Nó có những
**Hoa Nhị Phu nhân** (chữ Hán: 花蕊夫人; ? - 976), còn gọi **Từ Tuệ phi** (徐慧妃), là một phi tần rất được sủng ái của Hậu Thục Hậu chủ Mạnh Sưởng, vị quân chủ cuối
**Đế quốc Quý Sương**, tức **Đế quốc Kushan** (vào khoảng thế kỷ thứ 1–3), là một cường quốc cổ đại tại Trung Á. Vào thời đỉnh cao (105-250), đế chế này trải dài từ Tajikistan
**Ẩm thực Trung Quốc** (, ) là một phần quan trọng của văn hóa Trung Quốc, bao gồm ẩm thực có nguồn gốc từ các khu vực đa dạng của Trung Quốc, cũng như từ
**Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc năm 2021** (tiếng Anh: _2021 United Nations Climate Change Conference_), thường được biết đến nhiều hơn với tên viết tắt **COP26** là
**Hậu Triệu** (tiếng Trung giản thể: 后赵, phồn thể: 後趙, bính âm: Hòuzhào; 319-352) là một quốc gia thuộc Ngũ Hồ thập lục quốc trong thời Đông Tấn (265-420) tại Trung Quốc. Nhà nước này
**Loạn Hầu Cảnh** (chữ Hán: 侯景之乱, _Hầu Cảnh chi loạn_) là cuộc nổi dậy chống lại triều đình nhà Lương của hàng tướng Hầu Cảnh đến từ nhà Đông Ngụy, diễn ra từ tháng 8
**Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝誠仁皇后, ; 26 tháng 11 năm 1653 – 16 tháng 6 năm 1674), còn được biết đến với thụy hiệu ban đầu là **Nhân Hiếu Hoàng hậu** (仁孝皇后),
MÔ TẢ SẢN PHẨMBareMinerals Dew Mist Shimmering Setting SprayXịt khoáng cho trang điểm này của BareMinerals sẽ tạo lớp nền lâu trôi và mang lại cho làn da của bạn vẻ tươi tắn, rạng rỡ
nhỏ| Sương mù từ Đại Tây Dương chuyển 100   hướng km về phía đông vào [[Hoang mạc Namib|Namib -Desert đến Aus
]] **Sa mạc sương mù** là một loại sa mạc nơi
nhỏ|phải|Giọt sương sớm nhỏ|phải|Giọt sương vương trên quả táo Hạt sương đọng trên lá cây nhỏ|Sương sớm trên [[cỏ]] nhỏ|Sương sớm trên [[mạng nhện]] **Sương** hay còn gọi là **giọt sương** hay **sương móc** hay
**Mạnh** là một họ của người châu Á. Họ này có mặt ở Trung Quốc (chữ Hán: 孟, Bính âm: Meng) và Triều Tiên (Hangul: 맹, Romaja quốc ngữ: Maeng). Họ này đứng thứ 94
nhỏ|Những nghiên cứu phủ nhận quá trình ấm lên toàn cầu do con người gây nên được kiểm duyệt bởi hội đồng chuyên gia là gần như không tồn tại trong khoảng 2013-14. Hơn 99.99%
**Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝賢纯皇后, ; 28 tháng 3, năm 1712 - 8 tháng 4, năm 1748), là nguyên phối Hoàng hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Xuất thân vọng
**Ẩm thực Triều Tiên** là truyền thống nấu ăn thông thường và cách thức chế biến thành nghệ thuật ẩm thực Triều Tiên. Ẩm thực Triều Tiên đã phát triển qua nhiều thế kỷ thay
**Minh Đức Mã hoàng hậu** (chữ Hán: 明德馬皇后; ? - 9 tháng 7, 79), hay thường gọi **Minh Đức hoàng thái hậu** (明德皇太后), **Đông Hán Minh Đức Mã hoàng hậu** (東漢明德馬皇后), **Đông Hán Mã thái
[[Tập tin:Koppen World Map Dfc Dwc Dsc Dfd Dwd Dsd.png|thumb|right|upright=1.8|_Khí hậu cận Bắc cực_ trên thế giới ]] **Khí hậu cận Bắc Cực** (còn gọi là **khí hậu cận cực**, **khí hậu cận alpine** hoặc
**Hoa hậu Hòa bình Việt Nam 2023** là cuộc thi Hoa hậu Hòa bình Việt Nam được tổ chức lần thứ 2. Đêm chung kết diễn ra vào ngày 27 tháng 8 năm 2023 tại
[[Phở - món ăn mang tính biểu tượng quốc tế của ẩm thực Việt Nam]] **Ẩm thực Việt Nam** là cách gọi của phương thức chế biến món ăn, nguyên lý pha trộn gia vị
**Khiêu dâm hậu môn**, trong phân tâm học, là khoái cảm nhục dục bắt nguồn từ cảm giác hậu môn. Sigmund Freud, người sáng lập ra phân tâm học, đưa ra giả thuyết rằng giai
**Đế quốc thực dân Pháp** bao gồm các thuộc địa hải ngoại, xứ bảo hộ và lãnh thổ ủy thác nằm dưới sự cai trị của Pháp từ thế kỷ 16 trở đi. Các nhà
**Hiếu Văn U Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文幽皇后; 469 - 499), cũng gọi **Cao Tổ U hậu** (高祖幽后), là Hoàng hậu thứ hai của Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế Nguyên Hoành của triều Bắc Ngụy
**Sinh lý học thực vật** là một phân ngành của thực vật học liên quan đến chức năng hoặc sinh lý của thực vật. Những chuyên ngành có liên quan mật thiết gồm có hình
thumb|[[Bộ Dương xỉ mộc|Cây dương xỉ trong một khu rừng mây trên núi Kinabalu, Borneo]] **Rừng mây mù** hay **rừng sương mù** thường là rừng thường xanh nhiệt đới hay cận nhiệt đới, trên vùng
**Lưu Sưởng** (; 943-980), hay **Nam Hán Hậu Chủ** (南漢後主), là vua thứ tư và là vua cuối cùng của nước Nam Hán thời Ngũ đại Thập quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông ở
**Trần Ngọc Sương** (sinh 1949) là một nữ doanh nhân người Việt Nam. Bà được phong tăng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới và là người phụ nữ Việt Nam đầu
Sau cuộc bạo loạn tại Điện Capitol Hoa Kỳ 2021, các cuộc điều tra tội phạm, lo ngại về sức khỏe cộng đồng và các tác động chính trị khác nhau đã xảy ra, đáng
thumb|right|Một đề xuất quản trị bức xạ Mặt Trời, sử dụng các bóng bay có dây nối xuống đất, để phun các [[sol khí sunfat vào tầng bình lưu Trái Đất.]] **Quản trị bức xạ
‼️ XỊT KHOÁNG BE BALANCE E xin trích Review : Mình cũng đã từng nghĩ Xịt Khoáng là thứ "vô thưởng vô phạt", chỉ là " đồ trang trí" trong quá trình dưỡng da... cho
**Hậu Hán Thư** () là một trong những tác phẩm lịch sử chính thức của Trung Quốc do Phạm Diệp biên soạn vào thế kỷ thứ 5, sử dụng một số cuốn sách sử và
**Tây sương** (**西廂**, _Mái Tây_) là một truyện thơ Việt Nam bằng chữ Nôm, ra đời vào thời Nguyễn. Theo nhiều nhà nghiên cứu văn học thì đây là "một tác phẩm ca ngợi tình
**_Hương mật tựa khói sương_** (giản thể: 香蜜沉沉烬如霜; phồn thể: 香蜜沉沉燼如霜; Hán-Việt: Hương mật trầm trầm tẫn như sương; tiếng Anh: _Ashes of Love_) là bộ phim truyền hình của đài Giang Tô, chuyển thể
**Charles Robert Darwin** (; phiên âm tiếng Việt: **Đác-uyn**; sinh ngày 12 tháng 2 năm 1809 – mất ngày 19 tháng 4 năm 1882) là một nhà tự nhiên học, địa chất học và sinh học
Trong vài thập kỷ tới, suy thoái sinh thái, sự nóng lên toàn cầu và các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt có thể gia tăng các mối đe dọa tới sức khỏe con người.Sốt
nhỏ|261x261px|Hầu quyền **Hầu Quyền** (猴拳) là một môn võ dựa theo thần thái, động tác, kỹ thuật chiến đấu của loài khỉ, nằm trong hệ thống các kỹ thuật được gọi là tượng hình quyền
Biến đổi khí hậu đối với khoai tây là khả năng khoai tây bị ảnh hưởng bởi những thay đổi carbon dioxide trong bầu khí quyển, nhiệt độ và lượng mưa, cũng như sự tương
XỊT KHOÁNG DẠNG PHUN SƯƠNG KOPHER PRIMIUM GIÀU DINH DƯỠNG, CẤP ẨM CHO DA, SẢN PHẨM KHÔNG THỂ THIẾU TRONG TAY ▶️thương hiệu: SOULSSA KOPHER ▶️Sản xuất: KOREA ▶️ Dung tích: 90ml, chỉ với #480kChỉ
, cũng được biết đến với cái tên _Boruto - Naruto Hậu Sinh Khả Úy_, là một bộ manga Nhật Bản được viết bởi Kodachi Ukyō, Kishimoto Masashi và minh họa bởi Ikemoto Mikio. Được
**_Fallout 4_** là một game nhập vai hành động hậu tận thế do hãng Bethesda Game Studios phát triển và Bethesda Softworks phát hành. Đây là phần thứ năm trong dòng game _Fallout_ và được
**Thạch Sương Sở Viên** (zh: 石霜楚圓, ja: _Sekisō Soen_, 986 - 1039), còn có hiệu là **Từ Minh** (慈明), là Thiền sư Trung Quốc đời Tống. Sư thuộc tông Lâm Tế và là pháp tử
CHÍNH SÁCH HẬU MÃI ------xxx----- ✅ CAM KẾT NÓI KHÔNG với Hàng Kém Chất Lượng, Sản phẩm lỗi, hoàn tiền và đổi trả . ✅ MIỄN PHÍ VẬN CHUYỂN TOÀN QUỐC ✅ CHẾ ĐỘ BẢO
**Quyết (Pteridophyta)** là tên gọi chung của nhóm thực vật có thân, rễ, lá thật và có mạch dẫn (Mạch rây và mạch gỗ); sinh sản bằng bào tử. Bào tử mọc thành nguyên tản
**Ngũ đại Thập quốc** (, 907-979) là một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ khi triều Đường diệt vong, kéo dài đến khi triều Tống thống nhất Trung Quốc bản thổ.
**Tống Thái Tổ** (chữ Hán: 宋太祖, 21 tháng 3, 927 - 14 tháng 11, 976), tên thật là **Triệu Khuông Dận** (趙匡胤, đôi khi viết là **Triệu Khuông Dẫn**), tự **Nguyên Lãng** (元朗), là vị
**Sở** (chữ Hán: 楚國), (chữ Phạn: श्रीक्रुंग / **Srikrung**) đôi khi được gọi **Kinh Sở** (chữ Hán: 荆楚), là một chư hầu của nhà Chu tồn tại thời Xuân Thu Chiến Quốc kéo đến thời