✨Mạnh Tri Tường
Mạnh Tri Tường (, 10 tháng 5 năm 874 gọi theo miếu hiệu là Hậu Thục Cao Tổ (後蜀高祖), là vị quân chủ khai quốc của nước Hậu Thục thời Ngũ Đại Thập Quốc. Thoạt đầu, ông là một tướng lĩnh của triều Hậu Đường, kết hôn với họ hàng của Hậu Đường Trang Tông, và giữ chức Tây Xuyên tiết độ sứ. Đến thời Hậu Đường Minh Tông, ông nổi dậy cùng với Đông Xuyên tiết độ sứ Đổng Chương. Liên quân Mạnh-Đổng đẩy lui các cuộc tiến công của Hậu Đường, sau đó Mạnh Tri Tường đánh bại Đổng Chương và thôn tính lãnh địa của người này. Sau một thời gian xưng thần với Hậu Đường Minh Tông, ông lập quốc vào năm 934, đặt quốc hiệu là Thục.
Thân thế
Mạnh Tri Tường sinh năm 874, dưới triều đại của Đường Ý Tông. Ông là người Hình châu, tổ tiên từng nhiều đời làm sĩ quan tại Hình châu, tổ phụ Mạnh Sát (孟察) và cha Mạnh Đạo (孟道) giữ chức quận giáo. Bá phụ Mạnh Phương Lập (孟方立) của ông được bổ nhiệm làm Chiêu Nghĩa tiết độ sứ vào cuối thời nhà Đường, Sau khi Mạnh Phương Lập tự sát vào năm 889, Em Mạnh Phương Lập là Mạnh Thiên (孟遷)- chú bác của Mạnh Tri Tường- kế nhiệm, người này sau đó đầu hàng Hà Đông tiết độ sứ Lý Khắc Dụng vào năm 890.
Lý Khắc Dụng sau đó bổ nhiệm Mạnh Thiên làm Chiêu Nghĩa lưu hậu vào năm 899. Tuy nhiên, khi Chiêu Nghĩa quân bị Tuyên Vũ tiết độ sứ Chu Toàn Trung tiến công, Mạnh Thiên quyết định dâng quân hàng Chu Toàn Trung. Tuy nhiên, Mạnh Đạo vẫn tiếp tục phụng sự Lý Khắc Dụng. Lý Khắc Dụng thấy Mạnh Tri Tường tài năng tráng kiện, đã gả cháu gái, con của người em là Lý Khắc Nhượng (李克讓), cho Mạnh Tri Tường. tiết độ sứ Dương Ác, Phượng Tường tiết độ sứ Lý Mậu Trinh, và Tây Xuyên tiết độ sứ Vương Kiến, từ chối công nhận Chu Toàn Trung là quân chủ, Lý Khắc Dụng mang tước Tấn vương và lãnh địa ông ta cai quản được gọi là Tấn quốc. Năm 908, Lý Khắc Dụng qua đời và con trai Lý Tồn Úc kế tập trước Tấn vương.
Mạnh Tri Tường tiếp tục giữ chức Giáo luyện sứ. Trong một sự kiện vào khoảng năm 912, khi Lý Tồn Úc tức giận trước việc Lý Nghiêm (李嚴)- một người mới hàng phục- từ chối lời đề nghị làm thầy cho trưởng tử Lý Kế Ngập (李繼岌), Lý Tồn Úc định xử trảm Lý Nghiêm. Tuy nhiên, Mạnh Tri Tường can thiệp, nói rằng: "Cường địch chưa diệt, sao Đại vương có thể vì một cơn giận mà giết kẻ sĩ hướng nghĩa chứ", Lý Tồn Úc do vậy tha cho Lý Nghiêm.
Khoảng năm 919, Lý Tồn Úc muốn bổ nhiệm Mạnh Tri Tường làm Trung môn sứ của Thiên Hùng quân mới chiếm được. Tuy nhiên, do trước đó từng có một số Trung môn sứ bị xử tử do phạm lỗi, Mạnh Tri Tường sợ hãi và từ chối. Khi Lý Tồn Úc hỏi ông muốn ai thay thế, ông tiến cử Giáo luyện sứ Quách Sùng Thao (郭崇韜), Lý Tồn Úc sau đó bổ nhiệm Quách Sùng Thao làm Trung môn phó sứ. Từ khi Mạnh Tri Tường tiến cử, Quách bắt đầu thăng tiến trong sự nghiệp, sau này trở nên cảm kích Mạnh Tri Tường.. Hậu Đường Trang Tông lập Thái Nguyên làm Tây đô và bổ nhiệm Mạnh Tri Tường làm Thái Nguyên doãn, Tây kinh phó lưu thủ. (Chính thất của Mạnh Tri Tường do là họ hàng của Hoàng đế nên được phong làm Quỳnh Hoa trưởng công chúa vào thời điểm này hoặc vào năm 925.) Không lâu sau, Hậu Đường Trang Tông tiêu diệt Hậu Lương, định đô tại Lạc Dương. Cũng trong năm đó, Lý Kế Ngập và Quách Sùng Thao chiếm được kinh thành Thành Đô của Tiền Thục, Hậu Đường Trang Tông triệu Bắc đô lưu thủ sự Mạnh Tri Tường đến Lạc Dương và bổ nhiệm ông làm Tây Xuyên tiết độ sứ, Đồng bình chương sự, sẵn sàng cử ông đến Tây Xuyên.
Lúc này, xích mích giữa Hậu Đường Trang Tông và Quách Sùng Thao bắt đầu nổi lên, Hậu Đường Trang Tông và Lưu hoàng hậu nghi ngờ rằng Quách Sùng Thao không giao lại hết số của cải mà ông ta tịch thu được từ Tiền Thục. Cũng xuất hiện tin đồn rằng Quách Sùng Thao sẽ nổi dậy và chiếm cứ đất Thục. Sau khi Mạnh Tri Tường đến Lạc Dương, được Hậu Đường Trang Tông hậu đãi, khi Mạnh Tri Tường đi, Hậu Đường Trang Tông nói với ông: "Nghe thấy Quách Sùng Thao có chí khác, Khanh đến nơi thì giết hắn cho Trẫm". Mạnh Tri Tường đáp lại: "Sùng Thao là bề tôi lâu năm có công lao với quốc gia, có lẽ hắn không có như vậy. Sĩ thần đến Thục sẽ xem xét, nếu hắn không có ý khác thì sẽ khiển hắn trở về.", Hậu Đường Trang Tông khi đó đồng ý.
Lập căn cứ ban đầu
Tháng 6 ÂL, Hậu Đường Minh Tông ban cho Mạnh Tri Tường chức Thị trung. Tuy nhiên, Mạnh Tri Tường bắt đầu có mưu đồ cát cứ đất Thục, trong kho có 20 vạn áo giáp, lập nên 16 doanh, gồm 16.000 người, đóng ở trong ngoài nha thành. Lúc trước, Quách Sùng Thao phân kị binh Tiền Thục thành lục doanh Tả hữu kiêu vệ, gồm 3.000 lính; bộ binh phân thành 20 doanh Tả hữu ninh viễn, gồm 24.000 lính. Sau đó, Mạnh Tri Tường tăng thêm lục doanh Tả hữu xung sơn gồm 6.000 người, đóng ở trong ngoài la thành; ông cũng lập 20 doanh Tả hữu nghĩa ninh gồm 16.000 lính, phân tới các châu huyện; thiết lập tứ doanh Tả hữu lao thành, gồm 4.000 người phân ra đóng tại Thành Đô.
Trong khi đó, Mạnh Tri Tường và Đổng Chương tranh chấp với nhau về nguồn lợi từ các mỏ muối mà cả hai quân kiểm soát. Nhằm giành được lợi thế thương mại với Mạnh Tri Tường, Đổng Chương giảm giá muối Đông Xuyên, do đó thu hút các thương nhân đến Đông Xuyên mua muối, đem sang Tây Xuyên bán, giá muối Tây Xuyên vì thế cùng giảm. Năm 928, Mạnh Tri Tường cho thiết lập các trạm thu thuế trên ranh giới giữa Tây Xuyên và Đông Xuyên, đánh thuế rất nặng. Kết quả là các thương nhân không còn đến Đông Xuyên để mua muối. tiết độ sứ Cao Quý Hưng, nhằm đoạt lại ba châu mà trước đó Hậu Đường Minh Tông giao cho Cao Quý Hưng: Quỳ châu (夔州), Vạn châu (萬州), và Trung châu (忠州), nay đều thuộc Trùng Khánh. Mạnh Tri Tường khiển Tả túc biên chí huy sứ Mao Trọng Uy (毛重威) đem 3.000 tiến đến. Sau khi quân triều đình Hậu Đường tái chiếm được ba châu, Mạnh Tri Tường lại tấu xin được phép thu binh về; Hậu Đường Minh Tông từ chối. Sau đó, Mạnh Tri Tường ngầm sai người đến chỗ Mao Trọng Uy và thuyết phục ông ta đem binh lính trở về Thành Đô. Mao Trọng Uy làm theo, và đến khi Hậu Đường Minh Tông mệnh xử tội Mao Trọng Uy, Mạnh Tri Tường thỉnh miễn tội. Ngoài ra, Mạnh Tri Tường cũng bắt đầu từ chối tuân theo lệnh của triều đình là tiếp tế lương thực cho Ninh Giang quân mới được thành lập, tuyên bố cần dùng chúng cho binh lính Tây Xuyên. tiết độ sứ, Lý Nhân Củ được bổ nhiệm là tiết độ sứ của Bảo Ninh quân mới được thành lập từ những lãnh thổ tách ra từ Đông Xuyên, Tây Xuyên và Sơn Nam Tây đạo, và bổ nhiệm Vũ Kiền Dụ (武虔裕) làm Miên châu thứ sử, Miên châu vốn nằm ở trung tâm của Đông Xuyên.-tách ra từ Đông Xuyên.
Vào mùa thu năm 930, khi An Trọng Hối khiển Tuân Hàm Nghệ (荀咸乂) đến tăng viện cho Lãng châu- thủ phủ của Bảo Ninh quân, Đổng Chương công khai tuyên bố nổi dậy, ông ta cùng Mạnh Tri Tường hội binh chuẩn bị tiến công các quân Bảo Ninh, Vũ Tín, Chiêu Vũ- những quân trung thành với triều đình. Theo đề xuất của Triệu Quý Lương, họ đề ra kế sách là nhanh chóng chiếm Bảo Ninh và Vũ Tín, sau đó trấn thủ Kiếm Môn Quan để ngăn không cho quân triều đình nhập Thục., khiến cả Đổng Chương và Mạnh Tri Tưởng sửng sốt. Tuy nhiên, Vương Hoằng Chí không nhận được tiếp viện, ông ta quyết định bỏ Kiếm châu để tập trung trấn thủ Kiếm Môn Quan. Quân Tây Xuyên dưới quyền Triệu Đình Ẩn và Lý Triệu (李肇) sau đó đoạt lấy Kiếm châu và trấn thủ thành, làm dịu bớt tình hình. Trong khi đó, Mạnh Tri Tường sai cựu tướng Tiền Thục là Trương Vũ (張武) làm Hiệp lộ hành doanh chiêu thu thảo phạt sứ, đem thủy quân chiếm Vũ Thái quân do triều đình kiểm soát. tiết độ sứ, sau đó giết chết. Sau khi An Trọng Hối bị giết, Hậu Đường Minh Tông đổ cho An Trọng Hối tội gây xung đột với Đổng Chương, Mạnh Tri Tường và Ngô Việt vương Tiền Lưu, thể hiện thiện chí hòa giải bằng việc khiển Tây Xuyên tiến tấu quan Tô Nguyện (蘇願) và Đông Xuyên quân tướng Lưu Trừng (劉澄)- những người đang bị giữ tại Lạc Dương, trở về quân của họ để thông báo về cái chết của An Trọng Hối và ý định hòa bình của triều đình., Đổng Chương tiến đến Thành Đô. Quân của Mạnh Tri Tường giao chiến với quân của Đổng Chương, song thoạt đầu quân Đổng Chương chiếm ưu thế; đến khi Triệu Đình Ẩn đem quân dự bị giao chiến với quân Đông Xuyên, quân Đông Xuyên bị tiêu diệt, Đổng Chương chạy về Tử châu, sau bị thuộc hạ sát hại và dâng thủ cấp và thành cho Mạnh Tri Tường. tiết độ sứ Tôn Hán Thiều (孫漢韶) quay sang quy phục Hậu Thục, lãnh thổ Hậu Thục nay mở rộng đến khu vực phía nam Tần Lĩnh.
Ngày 27 tháng 5 năm 934, Thục tiến hành tại xá, cải nguyên Minh Đức.
Trong khi đó, Mạnh Tri Tường được chép lại là bị đột quỵ từ một năm trước đó, bệnh tình này càng trở nên nặng. Ngày Giáp Tý tháng 7 ÂL năm 934, ông lập Mạnh Nhân Tán làm Thái tử, giám quốc. Ngoài ra, ông cũng hạ chiếu lệnh triệu Tư không/Đồng bình chương sự Triệu Quý Lương, Vũ Tín tiết độ sứ Lý Nhân Hãn, Bảo Ninh tiết độ sứ Triệu Đình Ẩn, Xu mật sứ Vương Xử Hồi (王處回), Phủng thánh khống hạc đô chỉ huy sứ Trương Công Đạc (張公鐸), Phụng loan túc vệ chỉ huy phó sứ Hầu Hoàng Thực (侯弘實) đến thụ khiển chiếu phụ chính. Đêm hôm đó, ông qua đời, song triều đình Tiền Thục giữ bí mật chưa phát tang ngay, Mạnh Nhân Tán kế vị.
Gia đình
; Thê thiếp
- Lý Hoàng hậu, (873-932), con gái Lý Khắc Nhượng (李克讓)- em Lý Khắc Dụng, sau trở thành con nuôi Lý Khắc Dụng, vai chị của Hậu Đường Trang Tông, sau được phong Quỳnh Hoa trưởng công chúa, Hậu Đường Minh Tông cải phong là Phúc Khánh trưởng công chúa, sau khi qua đời được truy sách là Tấn quốc Ung Thuận trưởng công chúa
- Lý Quý phi (? - 965), là thiếp của Lý Tồn Úc trước khi lên ngôi, sinh Mạnh Sưởng, sau là Thái hậu ;Con trai
- Mạnh Di Phạm (孟貽範)
- Mạnh Di Ung (孟貽邕)
- Mạnh Di Củ (孟貽矩)
- Yết vương Mạnh Di Nghiệp (孟貽鄴)
- Hậu Chủ Mạnh Nhân Tán (孟仁贊), tức Mạnh Sưởng
- Quỳ Cung Hiếu vương Mạnh Nhân Nghị (孟仁毅)
- Nhã vương Mạnh Nhân Chí (孟仁贄, 928-971
- Bành vương Mạnh Nhân Dụ (孟仁裕, 927-970)
- Gia vương Mạnh Nhân Thao (孟仁操, ?-986) ;Con gái
- Sùng Hoa công chúa Mạnh Cửu Trụ (孟久柱), gả cho Y Diên Sinh (伊延瓌), sinh Y Thẩm Trưng (伊審徵)
- Ngọc Thanh công chúa Mạnh Diên Ý (孟延意), có khả năng gả cho là Đổng Quang Tự (董光嗣)- con Đổng Chương.
Trong bóng rổ, có năm người chơi mỗi đội, mỗi người được chỉ định cho các vị trí. Trong lịch sử, những