✨Phùng hoàng hậu (Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế)

Phùng hoàng hậu (Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế)

Hiếu Văn U Hoàng hậu (chữ Hán: 孝文幽皇后; 469 - 499), cũng gọi Cao Tổ U hậu (高祖幽后), là Hoàng hậu thứ hai của Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế Nguyên Hoành của triều Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc.

Xuất thân hiển hách, bà là con gái Phùng Hi, chị ruột của Phế hậu Phùng thị, là một cháu gái ruột của vị Thái hoàng thái hậu quyền lực đương thời là Văn Minh Phùng Thái hậu. Trong lịch sử Bắc Ngụy, U Hoàng hậu Phùng thị nổi danh vì có tiếng độc ác, bà đã hạ bệ em ruột để trở thành Hoàng hậu. Rồi sau đó, bà lại gây tai tiếng vì khi tư thông với nhân tình dù đã là Hoàng hậu có nhiều quyền lực (thói dâm đãng này giống hệt như người cô ruột của bà là Văn Minh Phùng Thái hậu). Sự việc tư thông bị bại lộ, Phùng hậu còn có ý ám sát Hiếu Văn Đế nhưng bị phát giác. Hiếu Văn Đế vì nghĩ đến công ơn của Văn Minh Phùng Thái hậu nên không giết hoặc phế truất tước hiệu của bà mà chỉ giam giữ trong cung. Trước khi chết, sợ rằng Phùng hậu còn sống thì sẽ làm loạn triều đình, Hiếu Văn Đế đã có di chiếu ra lệnh giết chết Phùng hậu nhưng vẫn cho an táng theo nghi lễ hoàng hậu.

Thân thế

Hiếu Văn U Hoàng Hậu Phùng thị người huyện Tín Đô, Trường Lạc (nay là huyện Đông Bắc, tỉnh Hà Bắc). Xuất thân từ đại tộc Trường Lạc Phùng thị (長樂馮氏) danh giá của hoàng tộc Bắc Yên, bà là con gái của Thái sư Phùng Hi (馮熙) - anh trai của Văn Minh Thái hậu, người nhiếp chính qua hai triều Hiến Văn Đế và Hiếu Văn Đế.

Mẹ bà là thị thiếp Thường thị (常氏), nên xét theo vai vế bà thuộc hàng ["Thứ xuất"; 庶出]. Nguyên Thường thị xuất thân ti tiện, sau được Phùng Hi tư thông, nạp làm thiếp. Vợ cả của Hi là Bác Lăng công chúa (博陵公主) qua đời, Thường thị từ đấy có danh chủ quản gia sự, Phùng thị là con gái bà do đó cũng được cất nhắc. Bà còn có người em là Phùng Túc (馮夙), sau thụ tước Bắc Bình công.

Nhập cung Ngụy

Bái làm Chiêu nghi

Năm Thái Hòa thứ 7 (483), Văn Minh Thái hoàng thái hậu muốn gia tộc họ Phùng cùng hoàng thất liên hôn, bèn đến phủ của anh trai Phùng Hi, chọn ra hai người con gái khi vừa 14 tuổi, Phùng thị cũng là một trong số ấy, nhập cung làm phi tần của Hiếu Văn Đế, thụ Quý nhân. Cả hai đều được sủng ái, nhưng người chị không may qua đời sớm do bị tai biến khi sinh đẻ. Bản thân Phùng thị cũng mắc bệnh, và được Thái hoàng thái hậu đưa về nhà cha mẹ, bắt xuất gia làm ni cô. Hiếu Văn Đế lưu luyến vẻ kiều diễm và dâm mỹ của Phùng thị, mãi không quên được

Năm Thái Hòa thứ 17 (493), người em cùng cha khác mẹ với bà là Phùng thị theo di mệnh của Văn Minh Thái hoàng thái hậu mà nhập cung, được lập làm Hoàng hậu. Khi ấy, Phùng Hoàng hậu là một người phụ nữ hết sức mẫu mực. Kể từ ngày được lập làm Hoàng hậu, Phùng hậu đã làm hết vai trò mẫu nghi thiên hạ, mọi việc trong hậu cung được quản lý đâu ra đấy. Tuy nhiên, Phùng hậu lại không hề nhận được sự sủng ái của Hiếu Văn Đế.

Sang năm sau (494), Hiếu Văn Đế nghe Phùng Quý nhân khỏi bệnh, bèn cho hoạn quan nghênh Phùng thị về Lạc Dương, bái làm Tả Chiêu nghi, địa vị chỉ dưới Hoàng hậu. Từ khi về cung, Phùng Chiêu nghi đắc sủng, sự sủng ái của Hiếu Văn Đế dành cho bà còn vượt hơn khi trước, khiến cung nhân trong Nội đình đều bị ghẻ lạnh, kể cả Hoàng hậu. Phùng Chiêu nghi cho rằng mình là chị gái lại nhập cung trước nên không chịu kém cạnh Phùng hậu, dù Phùng hậu không hề tỏ ý đối nghịch với bà. Phùng Chiêu nghi bắt đầu tìm cách để làm suy yếu vị trí của em gái, khiến Phùng hậu bị phế truất trong chỉ 2 năm sau, tức năm Thái Hòa thứ 20 (496). Phùng hậu phải đến chùa làm ni cô cho đến hết đời.

Lập làm Hoàng hậu

Năm Thái Hòa thứ 21 (497), tháng 7, ngày Mậu Ngọ, Hiếu Văn Đế lập Phùng Chiêu nghi làm Hoàng hậu. Khi đó trong cung Phùng hậu có tiếng hà khắc, gặp khi Cao Quý nhân, mẹ đẻ của Thái tử Nguyên Khác bạo vong, có tin đồn phổ biến rằng Phùng hậu đã bí mật đầu độc bà để có thể nuôi dưỡng Nguyên Khác. Sau khi mẹ mất, Nguyên Hoành được Phùng hậu phủ dưỡng, cứ 3 ngày triều kiến Hoàng hậu một lần.

Cũng vào mùa thu năm ấy, Hiếu Văn Đế đã mở một cuộc tấn công lớn khác vào Nam Tề, lần này quân Bắc Ngụy tập trung vào Uyển Thành (宛城, nay thuộc Nam Dương, Hà Nam). Tuy nhiên, trong khi Hiếu Văn Đế vắng mặt, Phùng Hoàng hậu đã bí mật tư thông với hầu cận là một tên Thái giám giả hiệu tên là Cao Bồ Tát (高菩薩). Bề ngoài, thái giám này rất khôi ngô tuấn tú và lươn lẹo. Khi được đưa vào cung, Thái giám họ Cao này đã dùng thủ đoạn tinh vi để vượt qua vòng kiểm duyệt. Vì thế, dù danh là Thái giám nhưng thực chất Cao Bồ Tát vẫn là đàn ông. Cao Bồ Tát rất giỏi lấy lòng người khác, y nắm trong tay cả một bè lũ thân cận sẵn sàng vì mình mà bán mạng. Trong khi đó, Phùng hậu cũng tự xây dựng thế lực riêng. Do vậy, khi Phùng hậu và họ Cao tư thông với nhau cũng đồng thời hình thành một thế lực lớn mạnh trong triều đình. Cũng vì thế, mặc dù tông thất đều biết chuyện Phùng hậu tư thông với tên thái giám họ Cao nhưng không ai dám hé ra nửa lời.

Tuy nhiên, cuối cùng thì chuyện tai tiếng của Phùng hoàng hậu cũng tới tai Hiếu Văn Đế. Lúc bấy giờ, em trai của Phùng hậu là Phùng Túc rất thích Bành Thành công chúa (彭城公主) - em gái Hiếu Văn Đế, vốn là vợ của Tống vương Lưu Sưởng Tử (劉昶子), từ nhỏ đã rời quốc gia. Phùng Túc cầu Hiếu Văn Đế ban hôn, Hoàng đế từng hứa qua, nhưng công chúa vì quá yêu người chồng vừa mất mà nhất định không chịu tái giá, còn tuyên bố nếu có tái giá cũng không tái giá với người như Phùng Túc. Khi Phùng Túc định ép buộc công chúa về nhà thì một người hầu của công chúa đã bí mật tới gặp Hiếu Văn Đế tố cáo chuyện tư thông giữa Phùng hậu và Cao Bồ Tát. Hiếu Văn Đế nghe xong, vừa sững sờ vừa giận dữ, tuy nhiên cho rằng em gái vì không muốn cưới Phùng Túc nên mới nghĩ ra chuyện này. Thế nhưng sau đó, một hoạn quan thân tín của Hiếu Văn Đế là Lưu Đằng đã tới mật báo với Hiếu Văn Đế chuyện tư tình của Phùng hậu.

Mưu hại Hoàng đế

Phùng hậu cũng nhanh chóng biết được chuyện tư thông của mình đã bại lộ nên tìm gặp mẹ đẻ là Thường thị để bàn cách đối phó. Hai mẹ con họ Phùng quyết định mời một nữ phù thủy vào cung tìm cách yểm bùa, nguyền rủa Hiếu Văn Đế sớm chết để mình có thể thâu tóm quyền lực trong triều đình. Sau đó, để thám thính tình hình, Phùng hậu cử rất nhiều tâm phúc của mình tới doanh trại của Hiếu Văn Đế để thăm dò. Để khỏi rút dây động rừng, Hiếu Văn Đế giả như không biết chuyện gì đang xảy ra trong cung. Vì thế, khi bọn thuộc hạ báo tin về, Phùng hậu rất vui, cho rằng mình đã qua khỏi kiếp nạn..

Không lâu sau đó, Hiếu Văn Đế bí mật đột ngột quay trở về kinh đô Lạc Dương. Vừa về tới nơi, Hiếu Văn Đế đã ra lệnh cho bắt toàn bộ người của Cao Bồ Tát. Tối ngày hôm đó, Hiếu Văn Đế cho Phùng hậu ngồi ở căn phòng bên cạnh rồi sai người đưa Cao Bồ Tát vào, bắt khai hết những chuyện dâm loạn giữa mình với Hoàng hậu. Đến nước này, họ Cao cũng không còn cách nào khác, đành khai ra tất cả, ngoài ra Hiếu Văn Đế còn tìm thấy một thanh đoản kiếm được Phùng hậu giắt bên người, là do Phùng hậu có ý nhân sơ hở dùng dao giết Hoàng đế. Sau khi tra hỏi Cao Bồ Tát, Hiếu Văn Đế cho gọi hai người em của mình là Bành Thành vương Nguyên Hiệp (元勰) và Bắc Hải vương Nguyên Tường (元詳) vào, chỉ tay về phía phòng của Hoàng hậu và nói:"Ta nể cô ta là người nhà họ Phùng mà không phế truất, chỉ giam trong cung. Nếu như cô ta còn chút liêm sỉ nào thì ắt tự biết mà tìm cái chết. Vì thế, các ngươi đừng nghĩ ta còn tình cảm gì với cô ta".

Sau khi Bành Thành vương và Bắc Hải vương đi ra, Hiếu Văn Đế sai giết Cao Bồ Tát, tống giam Hoàng hậu vào Đông phòng, không muốn nhìn thấy Hoàng hậu nữa. Khi Hiếu Văn Đế sai hoạn quan đến hỏi Hoàng hậu chuyện, bà mắng:"Ta là vợ của Thiên tử, có chuyện thì đích thân Thiên tử đến hỏi, cớ gì để lũ các ngươi truyền?!". Hiếu Văn Đế nghe rất giận, mệnh Thường thị vào cung dùng gậy đánh để trừng phạt. Do không có chiếu lệnh phế truất, mệnh phụ triều kiến đều như cũ đối đãi với Hoàng hậu cung kính, chỉ là Hiếu Văn Đế lệnh cho Thái tử ở tại Đông Cung, không triều kiến Hoàng hậu nữa.

Bị ban chết

Năm Thái Hòa thứ 23 (499), Hiếu Văn Đế bệnh tình đã chuyển nặng. Ông vì chuyện ngoại tình của Phùng hậu lại thêm chinh chiến liên miên nên sức khỏe ngày càng suy kiệt. Tuy nhiên, do không muốn gia tộc họ Phùng phải hổ thẹn, ông đã không phế truất bà, song không bao giờ nhìn mặt bà một lần nữa.

Lúc bệnh nguy kịch, Hiếu Văn Đế sắp xếp cho phi tần ổn thỏa, lại sợ rằng Phùng thái hậu còn sống thì sẽ làm loạn triều đình, giống như nạn ngoại thích chuyên quyền vào cuối thời nhà Hán. Ông truyền Bành Thành vương vào, nói:"Hậu cung cửu quai âm đức, tự tuyệt vu thiên. Nếu không sớm định căn bản, thì sẽ thành như Hán mạt. Sau khi ta qua đời, lệnh cho ngươi đem Biệt cung tự tẫn, dùng lễ Hoàng hậu mà an táng. Như thế, cũng là để diệt đi khí thế của nhà họ Phùng!".

Khi Hiếu Văn Đế băng hà, khi linh cữu được đưa đến Lỗ Dương, Bắc Hải vương và Bành Thành vương tuân theo lời di chiếu của Hiếu Văn Đế, cùng Trường Thu khanh Bạch Chỉnh (白整) đưa thuốc độc vào Biệt cung để gặp Phùng hậu, tiến hành theo di chế. Tuy nhiên, khi đưa thuốc độc đến cho Phùng hậu, bà nhất định không chịu uống, quát mắng: ["Thiên hạ làm gì có chuyện hoang đường như thế này hả?! Chư Vương vào cung bức chết Hoàng hậu?!"]. Bắc Hải vương không còn cách nào khác, đành sai người đè Phùng hậu ra rồi đổ thuốc độc vào miệng. Phùng hậu bèn qua đời, thay áo Xiêm y, lễ nghi an táng, đều như lễ Hoàng hậu bình thường, thụy hiệu là U Hoàng hậu (幽皇后), táng vào bên trong Trường lăng (長陵).

Phim ảnh

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hiếu Văn U Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文幽皇后; 469 - 499), cũng gọi **Cao Tổ U hậu** (高祖幽后), là Hoàng hậu thứ hai của Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế Nguyên Hoành của triều Bắc Ngụy
**Hiếu Văn Phế Hoàng hậu Phùng thị** (chữ Hán: 孝文廢皇后馮氏) là nguyên phối Hoàng hậu của Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế Nguyên Hoành của triều Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
**Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế** (chữ Hán: 北魏孝文帝; 13 tháng 10 năm 467 – 26 tháng 4 năm 499), tên húy lúc sinh là **Thác Bạt Hoành** (拓拔宏), sau đổi thành **Nguyên Hoành** (元宏), là
**Bắc Ngụy Hiến Văn Đế** (chữ Hán: 北魏獻文帝; 454–476), tên húy là **Thác Bạt Hoằng** (), là hoàng đế thứ sáu của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Năm 471, ông trở
**Bắc Ngụy Hiếu Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏孝武帝; 510 – 3 tháng 2, 535), tên húy là **Nguyên Tu** (元脩 hay 元修), tên tự **Hiếu Tắc** (孝則), vào một số thời điểm được gọi là
**Bắc Ngụy Tuyên Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏宣武帝; 483 – 13/1 ÂL (12/2 DL) 515), tên húy lúc sinh là **Thác Bạt Khác** (拓拔恪), sau đổi thành **Nguyên Khác** (元恪) là hoàng đế thứ tám
**Hồ thái hậu** (chữ Hán: 胡太后, ? - 17 tháng 5, năm 528), còn thường gọi là **Linh thái hậu** (靈太后), một phi tần của Bắc Ngụy Tuyên Vũ Đế, và Hoàng thái hậu nhiếp
**Nhà Bắc Ngụy** (tiếng Trung: 北魏朝, bính âm: běi wèi cháo, 386–535), còn gọi là **Thác Bạt Ngụy** (拓拔魏), **Hậu Ngụy** (後魏) hay **Nguyên Ngụy** (元魏), là một triều đại thời Nam Bắc triều trong
**Bắc Ngụy Thái Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏太武帝; 408 – 11 tháng 3, 452), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông thường được nhìn nhận
**Chiến tranh Nam Tề-Bắc Ngụy** diễn ra vào thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Nam Tề và nhà Bắc Ngụy. Từ năm 479 đến năm 500, Nam Tề cùng Bắc Ngụy
**Bắc Ngụy Tiết Mẫn Đế** () (498 – 21/6/532), cũng gọi là **Tiền Phế Đế** (前廢帝), hay còn được gọi với tước hiệu trước khi lên ngôi là **Quảng Lăng vương** (廣陵王), tên húy là
**Lý Mậu** (chữ Hán: 李茂, 432 – 502), tên tự là **Trọng Tông**, người huyện Địch Đạo, quận Lũng Tây , quan viên nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc.
**Minh Nguyên hoàng hậu** (chữ Hán: 明元皇后; ? - 263), họ Quách, là Hoàng hậu thứ hai của Tào Ngụy Minh Đế Tào Duệ, và là Hoàng thái hậu dưới thời Tào Ngụy Phế Đế
**Tân Hùng** (chữ Hán: 辛雄, 485 – 534), tự Thế Tân, người Địch Đạo, Lũng Tây , quan viên cuối đời Bắc Ngụy. ## Khởi nghiệp Cha là Tân Sướng, tự Ấu Đạt, được làm
Quảng Lăng Huệ vương **Nguyên Vũ** (chữ Hán: 元羽, 470 – 19/06/501 ), tự Thúc Phiên, hoàng tử nhà Bắc Ngụy. ## Khởi nghiệp Vũ là con trai thứ tư của Bắc Ngụy Hiến Văn
**Bắc Tề Hiếu Chiêu Đế** (chữ Hán: 北齊孝昭帝; 535–561), tên húy là **Cao Diễn** (高演), tên tự là **Diên An** (延安), là hoàng đế thứ ba của triều Bắc Tề trong lịch sử Trung Quốc.
**Lý quý nhân** (chữ Hán: 李贵人; ? - 456), là phi tần của Bắc Ngụy Văn Thành Đế, hoàng đế Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Bà là sinh mẫu của Bắc Ngụy Hiến
**Vũ Văn Thái** () (507 – 556), biệt danh là **Hắc Thát** (黑獺), tước hiệu là **An Định Văn công** (安定文公) sau được nhà Bắc Chu truy tôn là miếu hiệu Thái Tổ (太祖), thụy
**Văn Đức Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 文德順聖皇后, 15 tháng 3, 601 – 28 tháng 7, 636), thông thường được gọi là **Trưởng Tôn hoàng hậu** (長孫皇后), là Hoàng hậu duy nhất của Đường
**Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝賢纯皇后, ; 28 tháng 3, năm 1712 - 8 tháng 4, năm 1748), là nguyên phối Hoàng hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Xuất thân vọng
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**Tây Ngụy Văn Đế** (西魏文帝) (507–551), tên húy là **Nguyên Bảo Cự** (元寶炬), là một hoàng đế của triều đại Tây Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Năm 534, Nguyên Bảo Cự, khi đó là
**Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 仁孝文皇后; 5 tháng 3 năm 1362 - 6 tháng 8 năm 1407), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Thành Tổ Chu Đệ và là sinh mẫu của
**Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 皇太后; Kana: こうたいごうKōtaigō; Hangul: 황태후Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Dowager Empress_, _Empress Dowager_ hay _Empress Mother_), thường được gọi tắt là **Thái hậu** (太后), là một tước vị được quy
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Văn Hiến hoàng hậu** (chữ Hán: 文獻皇后, 544 - 10 tháng 9, 602), hay thường gọi **Độc Cô hoàng hậu** (獨孤皇后), là vị Hoàng hậu duy nhất dưới thời Tùy Văn Đế Dương Kiên, vị
**Hiếu Ai Triết Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝哀悊皇后, 20 tháng 11 năm 1610 - 25 tháng 4 năm 1644), thường gọi là **Ý An Hoàng hậu** (懿安皇后), là Hoàng hậu duy nhất dưới triều Minh
**Nguyên Lãng** () (513–532), tên tự **Trọng Triết** (仲哲), thường được biết đến với tước hiệu trước khi lên ngôi là **An Định vương** (安定王), vào một số thời điểm được gọi là **Hậu Phế
**Phùng Hoằng** () (?-438), tên tự **Văn Thông** (文通), gọi theo thụy hiệu là **(Bắc) Yên Chiêu Thành Đế** ((北)燕昭成帝), là hoàng đế cuối cùng của nước Bắc Yên vào thời Ngũ Hồ thập lục
**Nam Bắc triều** (, 420-589) là một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ năm 420 khi Lưu Dụ soán Đông Tấn mà lập nên Lưu Tống, kéo dài đến năm 589
**Bắc Ngụy Văn Thành Đế** (chữ Hán: 北魏文成帝; 440–465), tên húy là **Thác Bạt Tuấn** (), là hoàng đế thứ năm của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông đăng cơ sau
**Vũ Văn Hộ** (, 513–572), biểu tự **Tát Bảo** (薩保), được phong tước **Tấn Quốc công** (晉國公), là một tông thân, đại thần nhiếp chính của triều đại Bắc Chu trong lịch sử Trung Quốc.
**Dương Khoan** (, ? – 561), tự Cảnh Nhân hay Mông Nhân , người Hoa Âm, Hoằng Nông, quan viên nhà Bắc Ngụy, nhà Tây Ngụy và nhà Bắc Chu. Ông sinh gặp thời loạn,
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Hiếu Trang Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊睿皇后; 2 tháng 8, 1426 - 15 tháng 7, 1468), còn gọi là **Từ Ý Hoàng thái hậu** (慈懿皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Anh Tông
**Bắc Tề Vũ Thành Đế** (北齊武成帝) (537–569), tên húy là **Cao Đam**/**Cao Trạm** (高湛), biệt danh **Bộ Lạc Kê** (步落稽), là hoàng đế thứ tư của triều đại Bắc Tề trong lịch sử Trung Quốc.
**Chương Hiến Minh Túc Lưu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章献明肃劉皇后, 968 - 1033), hay còn gọi là **Chương Hiến Lưu Hoàng hậu** (章獻劉皇后), **Chương Hiến Thái hậu** (章獻太后) hoặc **Chương Hiến hậu** (章獻后), thỉnh thoảng
**Thái thượng hoàng** (chữ Hán: 太上皇), cũng gọi **Thái thượng hoàng đế** (太上皇帝), giản xưng **Thượng Hoàng** (上皇), là một tước vị mang ý nghĩa là _"Hoàng đế bề trên"_, địa vị cơ bản được
**Tuyên Nhân Thánh Liệt Cao Hoàng hậu** (chữ Hán: 宣仁聖烈高皇后, 1032 - 1093), hay còn gọi **Tuyên Nhân Hoàng thái hậu** (宣仁皇太后) hay **Tuyên Nhân hậu** (宣仁后), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Anh
**Minh Đức Mã hoàng hậu** (chữ Hán: 明德馬皇后; ? - 9 tháng 7, 79), hay thường gọi **Minh Đức hoàng thái hậu** (明德皇太后), **Đông Hán Minh Đức Mã hoàng hậu** (東漢明德馬皇后), **Đông Hán Mã thái
**Dương Quân** (chữ Hán: 杨钧, ? - 524), người Hoa Âm, Hoằng Nông , quan viên nhà Bắc Ngụy. ## Thân thế Quân là thành viên của sĩ tộc họ Dương ở quận Hoằng Nông.
**Hiếu Bình Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝平王皇后; 4 TCN – 23), còn gọi là **Hiếu Bình Vương hậu** (孝平王后) hoặc **Hoàng Hoàng Thất chúa** (黃皇室主), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Bình Đế
**Ngụy thư** (chữ Hán giản thể: 魏书; phồn thể: 魏書) là một sách lịch sử theo thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ sử_) do Ngụy Thâu, người Bắc
**Lưu Tống Văn Đế** (chữ Hán: 劉宋文帝; 407–453), tên húy là **Lưu Nghĩa Long** (), tiểu tự **Xa Nhi** (車兒), là một hoàng đế của triều Lưu Tống thời Nam-Bắc triều. Ông là con trai
**Tống Hiếu Tông** (chữ Hán: 宋孝宗, 27 tháng 11 năm 1127 – 28 tháng 6 năm 1194), tên thật là **Triệu Bá Tông** (趙伯琮), **Triệu Viện** (趙瑗), **Triệu Vĩ** (趙瑋) hay **Triệu Thận** (趙昚), tên
**Nhĩ Chu Vinh** (, 493 -530), tên tự là **Thiên Bảo** (天寶), người Bắc Tú Dung, là tướng lĩnh, quyền thần nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Ông là
**Bác Nhĩ Tế Cát Đặc Phế hậu** (chữ Hán: 博爾濟吉特废后), còn gọi **Thanh Thế Tổ Phế hậu** (清世祖废后) hoặc **Phế hậu Tĩnh phi** (废后静妃), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Thanh Thế
**Lịch đại Đế Vương miếu** (chữ Hán phồn thể: 厯代帝王廟; chữ Hán giản thể: 历代帝王庙, bính âm Hán ngữ: _Lìdài Dì Wáng miào_), còn gọi là **Miếu Lịch đại Đế Vương Trung Quốc** hay **Đế
**Bắc sử** (北史) là một quyển sách trong Nhị thập tứ sử do Lý Đại Sư viết về giai đoạn lịch sử từ năm 386 tới 618. Sau khi Lý Đại Sư mất, Lý Diên