Tân Hùng (chữ Hán: 辛雄, 485 – 534), tự Thế Tân, người Địch Đạo, Lũng Tây , quan viên cuối đời Bắc Ngụy.
Khởi nghiệp
Cha là Tân Sướng, tự Ấu Đạt, được làm Đại tướng quân Tư nghị tham quân, Nhữ Nam, Hương Quận 2 quận thái thú; trong niên hiệu Thái Hòa thời Bắc Ngụy Hiếu Văn đế, Sướng được làm Trung chánh của bản quận. Hùng tính hiếu thảo, đọc nhiều sách vở, thích học thuyết Hình danh, hành vi liêm cẩn, trong sạch, không kết bạn bừa bãi, vui giận không lộ ra mặt. Ban đầu Hùng được làm Phụng triều thỉnh, biết tin cha phát bệnh ở quận, ông tự xin về, đêm ngày chăm sóc. Đến khi phục vụ tang sự, mệt mỏi đến bất tỉnh, được người đời khen ngợi.
Đầu niên hiệu Chánh Thủy thời Bắc Ngụy Tuyên Vũ đế, Hùng được trừ chức Cấp sự trung, trải qua 10 năm không được thăng chức.
Thời Hiếu Minh đế
Thanh Hà vương Nguyên Dịch làm Tư không, vời Hùng làm Hộ tào tham quân, Nhiếp điền tào sự (thay mặt Dịch coi việc quản lý nông nghiệp và ngư nghiệp). Dịch được thăng làm Tư đồ, Hùng tiếp tục làm Hộ tào tham quân cho ông ta. Hùng đảm đương những việc nặng nhọc, kiện tụng rắc rối; ông giữ thái độ ngay thẳng, ngày càng tinh tường, chánh sự qua tay ông được xử lý gọn ghẽ, không ai không thán phục. Dịch xem trọng Hùng, nói với mọi người rằng: “Muốn không còn kiện tụng, đã có Tân Hùng đây.” Nhờ vậy mà Hùng nổi danh. Dịch được thăng làm Thái úy, Hùng lại làm Ký thất tham quân cho ông ta. Trong niên hiệu Thần Quy thời Hiếu Minh đế, Hùng được trừ chức Thượng thư giá bộ lang trung, chuyển làm Tam công lang. Năm ấy, triều đình sa thải các viên Lang, chỉ có Hùng và bọn Dương Thâm 8 người được giữ lại (thay thế những người bị sa thải ấy là bọn Lý Diễm).
Trước đó, Ngự sử trung úy, Đông Bình vương Nguyên Khuông muốn chở quan tài để can ngăn, Thượng thư lệnh, Nhâm Thành vương Nguyên Trừng hặc Khuông tội Đại bất kính, có chiếu tha chết làm dân. Hùng tâu lên để nói lý cho Khuông, ít lâu sau Khuông được trừ chức Long tương tướng quân, Bình Châu thứ sử. Hữu bộc xạ Nguyên Khâm nói với Tả bộc xạ Tiêu Bảo Dần rằng rằng: “Tài năng như Tân lang trung, trong tỉnh không ai sánh bằng.” Bảo Dần nói: “Tôi nghe Du bộc xạ (tức Du Triệu) nói: ‘Có được 4, 5 người như Hùng cùng lo việc, là đủ rồi.’ Bây giờ mới khen, sao mà muộn thế.”
Ban đầu Đình úy thiếu khanh Viên Phiên cho rằng người đã phạm tội thì quen thói nhờ vả hòng chạy tội, vì thế kiến nghị nếu kẻ ấy sẵn có tiếng xấu, không cần điều tra mà lập tức kết án. Hiếu Minh đế giáng chiếu lệnh cho Môn hạ tỉnh, Thượng thư tỉnh, Đình úy nghị luận; Hùng phản đối vì điều này tạo điều kiện cho quan lại lạm quyền. Tiếp đó Hùng dựa vào kinh nghiệm bản thân mà chỉ ra 6 ngoại lệ cần thay đổi phương pháp tra án hoặc nguyên tắc kết án, triều đình nghe theo. Từ ấy về sau, mỗi khi triều nghị, Hùng tham gia giải quyết khó khăn với công khanh, nhiều ý kiến được chấp nhận, ngày càng trở nên nổi tiếng. Hùng lại làm “Lộc dưỡng luận” (bàn về việc hưu trí của quan lại), cho rằng không nên ấn định độ tuổi một cách cứng nhắc, Hiếu Minh đế nghe theo. Sau đó Hùng rời chức vì tang mẹ. Xong lễ trăm ngày, Hữu bộc xạ Nguyên Khâm tâu xin cho Hùng được khởi phục làm Lang. Ít lâu sau Hùng được kiêm Ti Châu biệt giá, gia hiệu Tiền quân tướng quân.
Năm Hiếu Xương đầu tiên (525), Từ Châu thứ sử Nguyên Pháp Tăng dâng thành đầu hàng nhà Lương, nên tướng Lương là Dự Chương vương Tiêu Tống đến chiếm cứ Bành Thành. Khi ấy triều đình đã sai Đại đô đốc, An Phong vương Nguyên Duyên Minh đốc Lâm Hoài vương Nguyên Úc tiến đánh, nhưng quân Ngụy lần lữa không tiến, vì thế giáng chiếu cho Hùng làm phó của sử giả là Thái thường thiếu khanh Nguyên Hối, được cấp Tề Khố đao, cầm cờ tiết, chạy trạm dịch để thúc giục bọn Nguyên Duyên Minh ra quân, có quyền xử chém. Hiếu Minh đế còn dặn dò Hùng rằng Nguyên Hối là hoàng thân, chỉ là chánh sứ trên danh nghĩa, mọi việc đều trông cậy vào ông. Sứ đoàn gặp quân đội, thúc ép bọn họ tiến đến Từ Châu, khiến Tiêu Tống xin hàng. Ký Châu thứ sử Hầu Cương khải trình lấy Hùng làm Trưởng sử, Hiếu Minh đế cho rằng ông thạo việc đời, không đồng ý, sau đó đổi Hùng làm Tư không trưởng sử. Vì thế đại thần hâm mộ danh vọng của Hùng, muốn mời làm liêu tá, nhưng ông đều không nhận lời.
Bấy giờ khởi nghĩa Lục trấn nổi lên, lại thêm quân nhà Lương xâm phạm, thủ lĩnh tộc Kê Hồ là Lưu Lễ Thăng xưng đế; Hiếu Minh đế muốn thân chinh, lấy Kinh Châu làm mục tiêu đầu tiên, giáng chiếu lấy Hùng làm Hành đài tả thừa, theo tiền quân của Lâm Hoài vương Nguyên Úc đi Diệp Thành, trong khi biệt tướng Bùi Diễn tây tiến để thông suốt Nha lộ . Trong khi Diễn lần lữa không tiến thì Úc đã đến Nhữ Tân. Huyện Bắc Dục cầu cứu , Úc cho rằng đông tây phân biệt, không muốn tiếp ứng, Hùng nêu cao đạo nghĩa để khuyên giải, Úc đồng ý nhưng đòi ông cùng đi; Hùng lại nhận định kẻ địch nghe tin hoàng đế thân chinh ắt sẽ không dám đối đầu, nên đáp ứng, theo Úc ra quân, đòi ông ta tiến gấp. Quả nhiên quân nhà Lương nghe tin quân Ngụy đến thì tan chạy. Hùng dâng sớ đề nghị Hiếu Minh đế tăng cường thưởng phạt để nâng cao sĩ khí.
Gặp lúc chức Hữu thừa bỏ trống, Hiếu Minh đế giáng chiếu cho Bộc xạ, Thành Dương vương Nguyên Huy tiến cử, Huy bèn chọn Hùng, vì thế ông được trừ chức Phụ quốc tướng quân, Thượng thư hữu thừa; sau đó được chuyển làm Lại bộ lang trung, rồi thăng làm Bình đông tướng quân, Quang lộc đại phu, lang trung như cũ. Hùng dâng sớ đề nghị thay đổi phương pháp tuyển cử nhân tài, nhưng đúng lúc Hiếu Minh đế băng.
Thời Hiếu Trang đế
Trước đó Tiêu Bảo Dần xưng đế ở Ung Châu, người trong thành là bọn Hầu Chúng Đức đánh đuổi ông ta, triều đình đã đồng ý phong tước cho họ. Vì vậy có chiếu cho Hùng kiêm Thượng thư, làm Quan Tây thưởng huân đại sứ, nhưng ông chưa lên đường thì Nhĩ Chu Vinh tiến vào Lạc Dương, gây ra biến cố Hà Âm. Lòng người chưa yên, Hùng trốn lánh không xuất hiện, Hiếu Trang đế chưa tìm được ông nhưng vẫn lấy làm Độ chi thượng thư, An nam tướng quân. Sau đó Nguyên Hạo được quân nhà Lương đưa vào Lạc Dương, Bắc trung lang tương Dương Khản có công tòng giá, Hiếu Trang đế lấy ông ta làm Thượng thư. Đến khi xa giá quay về Lạc Dương, Hiếu Trang đế lại triệu Hùng, lần này ông diện kiến, từ chối chức Thượng thư, nhưng đế khuyên giải, rồi cởi chức của Dương Khản để trao cho ông.
Ít lâu sau, có chiếu cho Hùng giữ bản quan kiêm Thị trung, Quan Tây úy lao đại sứ. Sắp lên đường, Hùng xin 5 điều: không đòi tô thuế nợ đọng, bãi giảm lao dịch, lệnh cho quan viên địa phương thi hành tiết kiệm, trao hư chức cho kỳ lão địa phương, biểu dương tấm gương hiếu đễ địa phương. Hiếu Trang đế nghe theo, đối với kỳ lão 70 tuổi thì trao chức huyện lệnh, 80 thì trao chức quận thú, 90 thì thêm hiệu Tứ phẩm tướng quân, 100 thì thêm hiệu Tam phẩm tướng quân.
Năm Vĩnh An thứ 3 (530), Hùng được thăng Trấn nam tướng quân, Đô quan thượng thư, Hành Hà Nam doãn.
Vài năm cuối đời
Năm Phổ Thái đầu tiên (531) thời Tiết Mẫn đế, Hùng được làm Trấn quân tướng quân, Điện trung thượng thư, còn được gia Vệ tướng quân, Hữu quang lộc đại phu, Tần Châu đại trung chánh.
Trong niên hiệu Thái Xương (532) thời Hiếu Vũ đế, Hùng lại được trừ chức Điện trung thượng thư, kiêm Lại bộ thượng thư; sau đó trừ thụ Xa kỵ đại tướng quân, Tả quang lộc đại phu, vẫn làm thượng thư. Tháng 3 ÂL năm Vĩnh Hy thứ 2 (533), Hùng lại được kiêm Lại bộ thượng thư. Bấy giờ thân tín của Hiếu Vũ đế chuyên quyền ngang ngược, Hùng sợ họ gièm pha, không dám nắm giữ chánh sự, nên bị người đời chê bai. Hiếu Vũ đế tuần thú phía nam, Hùng được kiêm Tả bộc xạ lưu thủ kinh sư. Cuối niên hiệu Vĩnh Hi (534), Hùng được kiêm Thị trung.
Trong năm ấy, Hiếu Vũ đế bỏ chạy vào Quan Trung, Cao Hoan tiến vào Lạc Dương, tập hợp triều thần ở chùa Vĩnh Ninh, trách cứ thượng thư là Hùng và bọn Thôi Hiếu Phân, Lưu Khâm, Dương Cơ, kết tội họ không can gián hoàng đế rồi giết chết. Khi ấy Hùng được 50 tuổi, cả nhà bị hại, còn hai con trai Sĩ Xán, Sĩ Trinh trốn vào Quan Trung.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tân Hùng** (chữ Hán: 辛雄, 485 – 534), tự Thế Tân, người Địch Đạo, Lũng Tây , quan viên cuối đời Bắc Ngụy. ## Khởi nghiệp Cha là Tân Sướng, tự Ấu Đạt, được làm
**Bắc Ngụy Thái Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏太武帝; 408 – 11 tháng 3, 452), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông thường được nhìn nhận
**Bắc Ngụy Minh Nguyên Đế** (chữ Hán: 北魏明元帝; 392–423), tên húy là **Thác Bạt Tự** (拓拔嗣), là hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con trai
**Chiêu Ai hoàng hậu** (chữ Hán: 昭哀皇后, ? - 420), họ Diêu (姚氏), là công chúa Hậu Tần và là phi tần của Bắc Ngụy Minh Nguyên Đế của nhà Bắc Ngụy trong lịch sử
**Bắc Ngụy Hiếu Minh Đế** (chữ Hán: 北魏孝明帝; 510 – 31/3/528) tên húy là **Nguyên Hủ** (), là hoàng đế thứ chín của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Do ông chỉ
**Hồ thái hậu** (chữ Hán: 胡太后, ? - 17 tháng 5, năm 528), còn thường gọi là **Linh thái hậu** (靈太后), một phi tần của Bắc Ngụy Tuyên Vũ Đế, và Hoàng thái hậu nhiếp
**Nhà Bắc Ngụy** (tiếng Trung: 北魏朝, bính âm: běi wèi cháo, 386–535), còn gọi là **Thác Bạt Ngụy** (拓拔魏), **Hậu Ngụy** (後魏) hay **Nguyên Ngụy** (元魏), là một triều đại thời Nam Bắc triều trong
**Bắc Ngụy Đạo Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏道武帝; 371–409), tên húy là **Thác Bạt Khuê** (拓拔珪), tên lúc sinh là **Thác Bạt Thiệp Khuê** (拓拔渉珪), là hoàng đế khai quốc của triều đại Bắc Ngụy
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
**Bắc Ngụy Tuyên Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏宣武帝; 483 – 13/1 ÂL (12/2 DL) 515), tên húy lúc sinh là **Thác Bạt Khác** (拓拔恪), sau đổi thành **Nguyên Khác** (元恪) là hoàng đế thứ tám
**An Đồng** (chữ Hán: 安同, ? – 429), sinh quán Liêu Đông, là quan viên, khai quốc công thần nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. ## Xuất thân Tổ tiên của Đồng tên
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
**Bắc Ngụy Hiếu Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏孝武帝; 510 – 3 tháng 2, 535), tên húy là **Nguyên Tu** (元脩 hay 元修), tên tự **Hiếu Tắc** (孝則), vào một số thời điểm được gọi là
Quảng Lăng Huệ vương **Nguyên Vũ** (chữ Hán: 元羽, 470 – 19/06/501 ), tự Thúc Phiên, hoàng tử nhà Bắc Ngụy. ## Khởi nghiệp Vũ là con trai thứ tư của Bắc Ngụy Hiến Văn
**Phí Mục** (chữ Hán: 費穆, 477 – 529), tự Lãng Hưng, người quận Đại , tướng lãnh cuối đời nhà Bắc Ngụy. Ông có công tham gia trấn áp các lực lượng nổi dậy cuối
**Bắc Ngụy Hiến Văn Đế** (chữ Hán: 北魏獻文帝; 454–476), tên húy là **Thác Bạt Hoằng** (), là hoàng đế thứ sáu của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Năm 471, ông trở
**Bùi Tuyên** (chữ Hán: 裴宣, 454 – 511), tự Thúc Lệnh, người huyện Văn Hỷ, quận Hà Đông , là quan viên nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. ## Thiếu thời Cha là
**Hầu Mạc Trần Kiến** (chữ Hán: 侯莫陈建, ? – 485), quen gọi là **Trần Kiến**, người bộ lạc Hầu Mạc Trần, dân tộc Tiên Ti, có hộ tịch ở quận Đại (nay thuộc Sơn Tây),
**Bùi Tuấn** (chữ Hán: 裴骏, ? – 468), tên tự là **Thần Câu**, tên lúc nhỏ là Bì, người huyện Văn Hỷ, quận Hà Đông , là quan viên nhà Bắc Ngụy trong lịch sử
**Lưu quý nhân** (chữ Hán: 劉贵人, ? - 409), là vợ của Bắc Ngụy Đạo Vũ Đế, vua đầu tiên của nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Lưu thị nguyên là con gái
**Nam Bắc triều** (, 420-589) là một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ năm 420 khi Lưu Dụ soán Đông Tấn mà lập nên Lưu Tống, kéo dài đến năm 589
**Diêu Hưng** () (366–416), tên tự **Tử Lược** (子略), gọi theo thụy hiệu là **(Hậu) Tần Văn Hoàn Đế** ((後)秦文桓帝), là một hoàng đế của nước Hậu Tần trong lịch sử Trung Quốc. Ông là
**Bắc sử** (北史) là một quyển sách trong Nhị thập tứ sử do Lý Đại Sư viết về giai đoạn lịch sử từ năm 386 tới 618. Sau khi Lý Đại Sư mất, Lý Diên
**Lý Đường** (chữ Hán: 李棠, ? – 553), tự Trường Khanh, người huyện Điệu, quận Bột Hải , quan viên nhà Bắc Ngụy, Đông Ngụy và Tây Ngụy cuối thời Nam bắc triều. Ông đi
**Tây Ngụy** (tiếng Trung:西魏) là triều đại xuất hiện sau khi có sự tan rã của nhà Bắc Ngụy và cai trị vùng lãnh thổ miền Bắc Trung Quốc từ năm 535 tới năm 557.
**Cuộc chính biến trong hoàng cung Bắc Ngụy** diễn ra vào năm 409, Thanh Hà vương Thác Bạt Thiệu giết chết phụ thân là Ngụy Thái Tổ Thác Bạt Khuê để tiếm ngôi nhưng cuối
**Dương Khoan** (, ? – 561), tự Cảnh Nhân hay Mông Nhân , người Hoa Âm, Hoằng Nông, quan viên nhà Bắc Ngụy, nhà Tây Ngụy và nhà Bắc Chu. Ông sinh gặp thời loạn,
**Triệu Túc** (chữ Hán: 赵肃, ? - ?), tự Khánh Ung, quan viên nhà Bắc Ngụy, nhà Tây Ngụy cuối thời Nam bắc triều. ## Thân thế Túc tự nhận có tổ tịch ở Lạc
**Lý Hiền** (chữ Hán: 李贤, 502 – 569), tên tự là **Hiền Hòa**, sinh quán là trấn Cao Bình , tướng lãnh nhà Bắc Ngụy, Tây Ngụy, Bắc Chu cuối thời Nam Bắc triều trong
**Cuộc chính biến trong hoàng cung Bắc Ngụy** diễn ra vào năm 452, hoạn quan Tông Ái sát hại Ngụy Thế Tổ Thác Bạt Đảo và Nam An vương Thác Bạt Dư, cuối cùng bị
**Nhà Tấn** (, ; 266–420 theo dương lịch), là một trong Lục triều trong lịch sử, sau thời Tam Quốc và trước thời Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Triều đại này do Tư Mã
**Các chiến dịch bắc phạt thời Đông Tấn** chỉ loạt trận chiến của nhà Đông Tấn ở phía nam phát động trong khoảng thời gian từ năm 317 đến 419 nhằm thu phục lại miền
**Chiến tranh Thục – Ngụy (228–234)**, hay còn gọi là **Gia Cát Lượng Bắc phạt** hoặc **Lục xuất Kỳ Sơn** (chữ Hán: 六出祁山; bính âm: Lìuchū Qíshān), là một loạt chiến dịch quân sự của
**Thư Cừ Mông Tốn** () (368–433) là một người cai trị của nước Bắc Lương thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc, và là vua đầu tiên của thị tộc Thư
**Tần Chiêu Tương vương** (chữ Hán: 秦昭襄王; 325 TCN – 251 TCN, trị vì: 306 TCN - 251 TCN) hay **Tần Chiêu vương** (秦昭王), là vị vua thứ 33 của nước Tần - chư hầu
**Nhà Tần** (221 TCN - 206 TCN) là triều đại kế tục nhà Chu và trước nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Nhà Tần được đặt tên theo nước Tần - nước đã chiến
**Thôi Hạo** (chữ Hán: 崔顥, ? - 450), tên tự là **Bá Uyên** (伯淵), tên lúc nhỏ là **Đào Giản** (桃簡) nguyên quán ở Thành Đông Vũ, quận Thanh Hà, là chính trị gia hoạt
**Hung Nô** () là các bộ lạc du cư ở khu vực Trung Á, nói chung sinh sống ở khu vực thuộc Mông Cổ ngày nay. Từ thế kỷ III TCN họ đã kiểm soát
**Hành chính Việt Nam thời Bắc thuộc lần 2** phản ánh những biến động về địa giới hành chính của Việt Nam từ năm 43 đến năm 541, qua tay 7 triều đại phong kiến
**Bắc thuộc lần thứ hai** (chữ Nôm: 北屬吝次二, ngắn gọn: **Bắc thuộc lần 2**) trong lịch sử Việt Nam kéo dài khoảng 500 năm từ năm 43 đến năm 543, từ khi Mã Viện theo
**Chiến tranh Đông Tấn – Hậu Tần** bùng nổ vào tháng 8 ÂL năm 416, kéo dài đến tháng 8 ÂL năm 417, quen gọi là **chiến tranh Lưu Dụ diệt Hậu Tần** (chữ Hán:
**Bắc thuộc** là danh từ chỉ thời kỳ Việt Nam bị đặt dưới quyền cai trị của các triều đại Trung Quốc, được coi như một đơn vị hành chính của Trung Quốc, tùy theo
**Tiền Tần** (350-394) là một nước trong thời kỳ Ngũ Hồ thập lục quốc vào cuối thời kỳ nhà Đông Tấn (265-420). Nước này do thủ lĩnh bộ tộc Đê là Bồ Hồng sáng lập
**Hồ Bắc** (, tiếng Vũ Hán: Hŭbě) là một tỉnh ở miền trung của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Giản xưng chính thức của tỉnh Hồ Bắc là "Ngạc" (鄂), lấy theo tên một
**Tân Cương** (; ; bính âm bưu chính: **Sinkiang**), tên chính thức là **Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương**, là một khu vực tự trị tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm
**Vũ Văn Thái** () (507 – 556), biệt danh là **Hắc Thát** (黑獺), tước hiệu là **An Định Văn công** (安定文公) sau được nhà Bắc Chu truy tôn là miếu hiệu Thái Tổ (太祖), thụy
**Bắc Kinh** (; ), là thủ đô của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thành phố nằm ở miền Hoa Bắc, và là một trong số bốn trực hạt thị của Trung Hoa, với
**Tần Thủy Hoàng** (tiếng Trung: 秦始皇) (sinh ngày 18 tháng 2 năm 259 TCN – mất ngày 11 tháng 7 năm 210 TCN), tên huý là **Chính** (政), tính **Doanh** (嬴), thị **Triệu** (趙) hoặc
thumb|Hậu cung ở Trung Á **Phi tần** (chữ Hán: _妃嬪_, tiếng Anh: _Imperial consort_ / _Royal concubine_), **Thứ phi** (_次妃_), **Tần ngự** (_嬪御_) hoặc **Cung nhân** (_宮人_), là những tên gọi chung cho nàng hầu
**_Tấn thư_** (chữ Hán phồn thể: 晋書; giản thể: 晋书) là một sách trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ sử_), do Phòng Huyền Linh và Lý Diên Thọ phụng mệnh Đường