✨An Đồng (Bắc Ngụy)

An Đồng (Bắc Ngụy)

An Đồng (chữ Hán: 安同, ? – 429), sinh quán Liêu Đông, là quan viên, khai quốc công thần nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc.

Xuất thân

Tổ tiên của Đồng tên Thế Cao, là thị tử (vương tử của thuộc quốc đến nhà Hán để bồi thị vua Hán) của nước An Tức (tức đế quốc Parthia) đến Lạc Dương vào đời Hán. Hậu duệ của Thế Cao lấy họ là An, trải qua các đời Ngụy, Tấn, tránh loạn đến Liêu Đông, định cư ở đấy.

Cha Đồng là Khuất, làm Điện trung lang tướng nhà Tiền Yên. Tiền Tần diệt Tiền Yên, bạn của Khuất là Công Tôn Quyến có em gái nhập cung nhà Tiền Yên, xuất làm vợ của thủ lĩnh Độc Cô bộ là Lưu Khố Nhân. Công Tôn thị được Khố Nhân sủng ái, vì thế Công Tôn Quyến có thể buôn bán trong vùng đất mà Khố Nhân kiểm soát. Đồng theo Quyến làm ăn, gặp gỡ Thác Bạt Khuê đang nương nhờ tại Độc Cô bộ, thấy Khuê có tài tế thế, bèn ở lại phụng sự ông ta. Đồng tính đoan nghiêm minh huệ, nói năng theo lối trường giả.

Phụng sự Đạo Vũ đế

Năm Đăng Quốc đầu tiên (386), Ngụy vương Thác Bạt Khuê mượn quân Hậu Yên để chống lại Thác Bạt Quật Đốt – được sự ủng hộ của Lưu Hiển (con trai Lưu Khố Nhân). Đồng nhiều lần làm sứ giả, tỏ ra đắc lực, nên được Ngụy vương sủng ái, lấy làm Ngoại triều đại nhân, cùng bọn Tố Hòa Bạt ra vào cung cấm, đổi nhau làm Điển thứ sự. Thác Bạt Khuê xưng đế, là Bắc Ngụy Đạo Vũ đế, ban thưởng công thần, Đồng làm sứ giá có nhiều công lao, được ban thế thiếp cùng 30 hộ nô lệ, 2 thớt ngựa, 50 con cừu, gia Quảng vũ tướng quân.

Đồng tòng chinh Diêu Bình ở Sài Bích, Hậu Tần đế Diêu Hưng dốc quân cứu Bình, Đạo Vũ đế bèn tăng cường đắp lũy trùng trùng, vừa vây thành vừa kháng viện. Đồng dâng kế rằng: "Thần nhận lệnh đến Giáng để đốc tô, thấy bờ đông sông Phần có vùng trũng, đông tây hơn 300 dặm, đường sá không thông. Diêu Hưng đến, ắt theo lối bờ tây sông Phần, từ chỗ cao ép xuống, nhằm thẳng Sài Bích. Nếu vậy, ắt giặc trong ngoài tiếp ứng, vòng vây khó giữ, không thể ngăn nổi. Nên chẹn ngang sông Phần bởi 2 tòa cầu nổi nam bắc, lên bờ tây đắp lũy. Bờ tây đã vững, giặc đến không còn chỗ thi hành trí lực nữa!" Đạo Vũ đế nghe theo, Diêu Hưng quả nhiên không thể cứu được Sài Bích. Đồng có công bày mưu, được ban tước Bắc Tân hầu, An viễn tướng quân. Có chiếu sai Đồng đưa tướng Hậu Tần là bọn Việt kỵ hiệu úy Đường Tiểu Phương về Trường An.

Phụng sự Minh Nguyên đế

Thanh Hà vương Thác Bạt Thiệu làm loạn, Thác Bạt Tự ở ngoài, sai sứ trong đêm báo tin, lệnh cho Đồng tập hợp hàng trăm thợ giỏi, nghệ nhân trong thành, mọi người đều hưởng ứng, nghênh đón Thác Bạt Tự lên ngôi, là Bắc Ngụy Minh Nguyên đế. Đồng nhận mệnh cùng Nam Bình công Bạt Bạt Tung thụ lý kiện cáo của dân. Lại có chiếu sai Đồng cùng Phì Như hầu Hạ Lan Hộ cầm cờ tiết tuần xét 2 châu Tịnh, Định cùng các dân tộc thiểu số trong núi là Tạp Hồ, Đinh Linh,... tuyên chiếu phủ dụ, thăm hỏi bệnh khổ, tra xét những quan lại làm việc trái phép. Đồng đến Tịnh Châu, dâng biểu tâu lên tình trạng cai trị trái phép của quan viên, tố cáo thứ sử tự ý bổ nhiệm thợ thêu là Cổ Đồng làm Tấn Dương lệnh, thông đồng làm việc tham ô, gian trá, xin dựa vào luật trị tội. Minh Nguyên đế nghe theo, vì thế tình hình ở châu được chỉnh đốn. Đồng đi hướng đông ra Tỉnh Hình, đến Cự Lộc, cứ 4 hộ chọn ra 1 người, muốn sửa thành Đại Lĩnh Sơn, thông Thiên Môn Quan, lại đắp ổ ở Tống Tử, để trấn an quận huyện. Hạ Lan Hộ ghét Đồng được lòng người, nhân dịp này sai người tố cáo ông xây thành họp quân, muốn làm việc lớn. Minh Nguyên đế cho rằng Đồng tự ý tập hợp dân chúng, bèn bỏ xe tù bắt về, giao cho quần thần luận tội. Mọi người cho rằng Đồng tự ý gây việc lao dịch, kinh động trăm họ, cần trị tội để làm gương. Đế thấy Đồng tuy chuyên quyền, nhưng làm việc công, không có ý riêng nên tha cho.

Phụng sự Thái Vũ đế

Thác Bạt Đảo giám quốc, lâm triều thính chánh, lấy Đồng làm Tả phụ. Minh Nguyên đế đánh Hà Nam, bái Đồng làm Hữu quang lộc đại phu. Thác Bạt Đảo ra giữ biên giới phía bắc, Đồng cùng An Định vương Thác Bạt Di ở lại giữ kinh sư. Thác Bạt Đảo lên ngôi, là Bắc Ngụy Thái Vũ đế, cho Đồng tiến tước Cao Dương công, bái làm Quang lộc huân. Sau đó được nhận chức Chinh đông đại tướng quân, Ký, Thanh 2 châu thứ sử.

Năm Thần Gia thứ 2 (429), ông mất, được truy tặng Cao Dương vương, thụy là Cung Huệ.

Đánh giá

Đồng tính trong sạch, tuân theo pháp luật. Con trưởng của Đồng là Khuất làm Điển thái thương sự thời Minh Nguyên đế, trộm lúa gạo để nuôi cha mẹ. Đồng cả giận, tâu xin giết Khuất, tự nhận tội không biết dạy con. Minh Nguyên đế khen mà tha cho, còn ban chiếu trường kỳ cấp lúa gạo cho Đồng.

Đồng làm quan sáng suốt, có tài dạy dân, lại khéo dạy con, được người đời khen ngợi. Nhưng về già, Đồng nhận chức ở Ký Châu, sanh tật gom góp tài sản, xây dựng nhiều chùa tháp, khiến trăm họ khổ sở.

Hậu nhân

Đồng có năm con trai: Khuất, Nguyên, Hiệt, Thông, Tát. Hiệt là người nổi danh nhất.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**An Đồng** (chữ Hán: 安同, ? – 429), sinh quán Liêu Đông, là quan viên, khai quốc công thần nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. ## Xuất thân Tổ tiên của Đồng tên
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
**Nhà Bắc Ngụy** (tiếng Trung: 北魏朝, bính âm: běi wèi cháo, 386–535), còn gọi là **Thác Bạt Ngụy** (拓拔魏), **Hậu Ngụy** (後魏) hay **Nguyên Ngụy** (元魏), là một triều đại thời Nam Bắc triều trong
**Bắc Ngụy Thái Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏太武帝; 408 – 11 tháng 3, 452), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông thường được nhìn nhận
**Chiến tranh Nam Tề-Bắc Ngụy** diễn ra vào thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Nam Tề và nhà Bắc Ngụy. Từ năm 479 đến năm 500, Nam Tề cùng Bắc Ngụy
**Bắc Ngụy Minh Nguyên Đế** (chữ Hán: 北魏明元帝; 392–423), tên húy là **Thác Bạt Tự** (拓拔嗣), là hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con trai
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
**Bắc Ngụy Đạo Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏道武帝; 371–409), tên húy là **Thác Bạt Khuê** (拓拔珪), tên lúc sinh là **Thác Bạt Thiệp Khuê** (拓拔渉珪), là hoàng đế khai quốc của triều đại Bắc Ngụy
**Bắc Ngụy Tuyên Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏宣武帝; 483 – 13/1 ÂL (12/2 DL) 515), tên húy lúc sinh là **Thác Bạt Khác** (拓拔恪), sau đổi thành **Nguyên Khác** (元恪) là hoàng đế thứ tám
**Hồ thái hậu** (chữ Hán: 胡太后, ? - 17 tháng 5, năm 528), còn thường gọi là **Linh thái hậu** (靈太后), một phi tần của Bắc Ngụy Tuyên Vũ Đế, và Hoàng thái hậu nhiếp
**Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế** (chữ Hán: 北魏孝文帝; 13 tháng 10 năm 467 – 26 tháng 4 năm 499), tên húy lúc sinh là **Thác Bạt Hoành** (拓拔宏), sau đổi thành **Nguyên Hoành** (元宏), là
**Lý Mậu** (chữ Hán: 李茂, 432 – 502), tên tự là **Trọng Tông**, người huyện Địch Đạo, quận Lũng Tây , quan viên nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc.
**Bắc Ngụy Hiếu Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏孝武帝; 510 – 3 tháng 2, 535), tên húy là **Nguyên Tu** (元脩 hay 元修), tên tự **Hiếu Tắc** (孝則), vào một số thời điểm được gọi là
**Bắc Ngụy Hiếu Minh Đế** (chữ Hán: 北魏孝明帝; 510 – 31/3/528) tên húy là **Nguyên Hủ** (), là hoàng đế thứ chín của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Do ông chỉ
**Bắc Ngụy Hiến Văn Đế** (chữ Hán: 北魏獻文帝; 454–476), tên húy là **Thác Bạt Hoằng** (), là hoàng đế thứ sáu của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Năm 471, ông trở
**Bắc Ngụy Văn Thành Đế** (chữ Hán: 北魏文成帝; 440–465), tên húy là **Thác Bạt Tuấn** (), là hoàng đế thứ năm của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông đăng cơ sau
**Bắc Ngụy Hiếu Trang Đế** (chữ Hán: 北魏孝莊帝; 507–531), tên húy là **Nguyên Tử Du** (), là hoàng đế thứ 11 triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông được tướng Nhĩ Chu
**Chiến tranh Lương-Ngụy, 528-529** là cuộc chiến tranh giữa hai nước Lương và Bắc Ngụy thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Cuộc chiến này là một phần của chiến tranh Lương-Bắc Ngụy, một
**Tân Hùng** (chữ Hán: 辛雄, 485 – 534), tự Thế Tân, người Địch Đạo, Lũng Tây , quan viên cuối đời Bắc Ngụy. ## Khởi nghiệp Cha là Tân Sướng, tự Ấu Đạt, được làm
Quảng Lăng Huệ vương **Nguyên Vũ** (chữ Hán: 元羽, 470 – 19/06/501 ), tự Thúc Phiên, hoàng tử nhà Bắc Ngụy. ## Khởi nghiệp Vũ là con trai thứ tư của Bắc Ngụy Hiến Văn
**Sơn Vĩ** (chữ Hán: 山伟, ? – ?), tự Trọng Tài, người dân tộc Tiên Ti, tịch quán ở Lạc Dương, Hà Nam, nguyên quán ở quận Đại (nay thuộc Sơn Tây), quan viên cuối
**Hiếu Văn U Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文幽皇后; 469 - 499), cũng gọi **Cao Tổ U hậu** (高祖幽后), là Hoàng hậu thứ hai của Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế Nguyên Hoành của triều Bắc Ngụy
**Nguyên Lãng** () (513–532), tên tự **Trọng Triết** (仲哲), thường được biết đến với tước hiệu trước khi lên ngôi là **An Định vương** (安定王), vào một số thời điểm được gọi là **Hậu Phế
**Dương Quân** (chữ Hán: 杨钧, ? - 524), người Hoa Âm, Hoằng Nông , quan viên nhà Bắc Ngụy. ## Thân thế Quân là thành viên của sĩ tộc họ Dương ở quận Hoằng Nông.
**Cao hoàng hậu** (chữ Hán: 高皇后, không rõ tên thật) là Hoàng hậu của Bắc Ngụy Hiếu Vũ Đế Nguyên Tu trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Phụ thân của Cao Hoàng hậu
**Phí Mục** (chữ Hán: 費穆, 477 – 529), tự Lãng Hưng, người quận Đại , tướng lãnh cuối đời nhà Bắc Ngụy. Ông có công tham gia trấn áp các lực lượng nổi dậy cuối
**Bắc Ngụy Tiết Mẫn Đế** () (498 – 21/6/532), cũng gọi là **Tiền Phế Đế** (前廢帝), hay còn được gọi với tước hiệu trước khi lên ngôi là **Quảng Lăng vương** (廣陵王), tên húy là
**Bùi Tuấn** (chữ Hán: 裴骏, ? – 468), tên tự là **Thần Câu**, tên lúc nhỏ là Bì, người huyện Văn Hỷ, quận Hà Đông , là quan viên nhà Bắc Ngụy trong lịch sử
**Nga Thanh** (chữ Hán: 娥清, ? - ?) người quận Đại , dân tộc tiên Ti, tướng lãnh nhà Bắc Ngụy. ## Cuộc đời và sự nghiệp ### Thời Minh Nguyên đế Thanh sớm tỏ
**Chiêu Ai hoàng hậu** (chữ Hán: 昭哀皇后, ? - 420), họ Diêu (姚氏), là công chúa Hậu Tần và là phi tần của Bắc Ngụy Minh Nguyên Đế của nhà Bắc Ngụy trong lịch sử
**Hầu Mạc Trần Kiến** (chữ Hán: 侯莫陈建, ? – 485), quen gọi là **Trần Kiến**, người bộ lạc Hầu Mạc Trần, dân tộc Tiên Ti, có hộ tịch ở quận Đại (nay thuộc Sơn Tây),
**Mùa bão Đông Bắc Thái Bình Dương 2015** được công nhận là mùa bão Đông Bắc Thái Bình Dương hoạt động mạnh thứ hai từng được ghi nhận; với kỷ lục 31 áp thấp nhiệt
**Chiến dịch Đông Bắc I** là một "chiến dịch nhỏ" trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất diễn ra từ ngày 8 tháng 10 đến ngày 7 tháng 12 năm 1948. Hai bên tham
nhỏ|phải|[[Hổ là loài vật ăn thịt người nhiều nhất trong họ nhà mèo.]] **Động vật ăn thịt người** dùng để chỉ về những động vật săn bắt và ăn thịt con người như là một
**Bắc sử** (北史) là một quyển sách trong Nhị thập tứ sử do Lý Đại Sư viết về giai đoạn lịch sử từ năm 386 tới 618. Sau khi Lý Đại Sư mất, Lý Diên
**Tây Ngụy Văn Đế** (西魏文帝) (507–551), tên húy là **Nguyên Bảo Cự** (元寶炬), là một hoàng đế của triều đại Tây Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Năm 534, Nguyên Bảo Cự, khi đó là
**Dương Khoan** (, ? – 561), tự Cảnh Nhân hay Mông Nhân , người Hoa Âm, Hoằng Nông, quan viên nhà Bắc Ngụy, nhà Tây Ngụy và nhà Bắc Chu. Ông sinh gặp thời loạn,
**Tây Ngụy** (tiếng Trung:西魏) là triều đại xuất hiện sau khi có sự tan rã của nhà Bắc Ngụy và cai trị vùng lãnh thổ miền Bắc Trung Quốc từ năm 535 tới năm 557.
**Gấu đen Bắc Mỹ** (danh pháp hai phần: **_Ursus americanus_**) là một loài gấu kích thước trung bình có nguồn gốc ở Bắc Mỹ. Nó là loài gấu nhỏ nhất và phổ biến nhất của
**Đông Ngụy Hiếu Tĩnh Đế** (東魏孝靜帝) (524–552), tên húy là **Nguyên Thiện Kiến** (元善見), là hoàng đế duy nhất của triều đại Đông Ngụy, một nhà nước kế thừa triều đại Bắc Ngụy trong lịch
**Lý Đường** (chữ Hán: 李棠, ? – 553), tự Trường Khanh, người huyện Điệu, quận Bột Hải , quan viên nhà Bắc Ngụy, Đông Ngụy và Tây Ngụy cuối thời Nam bắc triều. Ông đi
**Cuộc chính biến trong hoàng cung Bắc Ngụy** diễn ra vào năm 409, Thanh Hà vương Thác Bạt Thiệu giết chết phụ thân là Ngụy Thái Tổ Thác Bạt Khuê để tiếm ngôi nhưng cuối
**Đông Ngụy** (tiếng Trung: 東魏) là triều đại xuất hiện sau khi có sự tan rã của Nhà nước Bắc Ngụy và cai trị vùng lãnh thổ Bắc Trung Quốc từ năm 534 tới năm
**Triệu Túc** (chữ Hán: 赵肃, ? - ?), tự Khánh Ung, quan viên nhà Bắc Ngụy, nhà Tây Ngụy cuối thời Nam bắc triều. ## Thân thế Túc tự nhận có tổ tịch ở Lạc
**An Hiệt** (chữ Hán: 安颉, ? – 431), sinh quán Liêu Đông, là tướng lĩnh nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công bắt sống Hạ đế Hách Liên Xương. ## Xuất
**Tây Ngụy Phế Đế** (西魏廢帝) (525-554), tên húy là **Nguyên Khâm** (元欽), là một hoàng đế của triều đại Tây Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông thậm chí còn có ít quyền lực thực
**Tây Ngụy Cung Đế** (西魏恭帝) (537–557), tên húy là **Nguyên Khuếch** (元廓), sau đổi thành **Thác Bạt Khuếch** (拓拔廓), là hoàng đế cuối cùng của triều đại Tây Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông
**Cao hoàng hậu** (chữ Hán: 高皇后) là hoàng hậu của Đông Ngụy Hiếu Tĩnh Đế Nguyên Thiện Kiến, hoàng đế duy nhất của triều đại Đông Ngụy, một nhà nước kế thừa triều đại Bắc
**Vương Khánh Vân** (chữ Hán: 王慶雲, ? – 530), người dân tộc thiểu số Long Hạc , sinh quán tại quận Lược Dương , thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân cuối đời Bắc Ngụy. ##
**An Đông đô hộ phủ** là một chính quyền quân sự được nhà Đường thiết lập tại Bình Nhưỡng vào năm 668. Bộ máy này đóng vai trò quan trọng trong những sự kiện náo