✨Hung Nô

Hung Nô

Hung Nô () là các bộ lạc du cư ở khu vực Trung Á, nói chung sinh sống ở khu vực thuộc Mông Cổ ngày nay. Từ thế kỷ III TCN họ đã kiểm soát một đế chế rộng lớn trên thảo nguyên, kéo dài về phía tây tới khu vực Kavkaz (Caucasus). Các hoạt động của họ diễn ra chủ yếu tại các khu vực thuộc miền nam Siberi, miền tây Mãn Châu và các tỉnh, khu tự trị ngày nay của Trung Quốc là Nội Mông Cổ, Cam Túc và Tân Cương. Các tài liệu lịch sử rất cổ của người Trung Quốc (có lẽ là truyền thuyết) cho rằng người Hung Nô là các hậu duệ của con trai của vua Kiệt (桀) - vị vua cuối cùng của nhà Hạ (夏朝) - triều đại đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, mà các dấu vết còn lại của họ được người Trung Quốc thời Xuân Thu-Chiến Quốc cho là người của nước Kỷ (杞). Tuy nhiên, do các khác biệt và xung đột nội bộ nên người Hung Nô đã chạy lên phía bắc và tây bắc.

Quan hệ giữa người Hán và người Hung Nô rất phức tạp và bao gồm các xung đột quân sự, các trao đổi cống phẩm và thương mại, cũng như các thỏa ước về hôn nhân.

Đa số thông tin về người Hung Nô chỉ có được từ các sử liệu Trung Quốc, nên không có cách nào để khôi phục lại các phần quan trọng nhất của tiếng Hung Nô. Chỉ có một ít các tên gọi và tước vị của họ có được từ các bản dịch ra tiếng Trung.

Theo các sử liệu Trung Quốc như Sử ký, Hán thư thì đến thời Đông Hán, người Hung Nô bị phân ra thành hai bộ phận cơ bản là:

  • Nam Hung Nô: Sau bị Hán hóa. *Bắc Hung Nô: Di dời về phương Tây vào khoảng thế kỷ IV, có lẽ trở thành người Hung (Huns).

Ngoài ra còn một bộ phận nữa gọi là Tây Hung Nô, nhưng gần như không có thông tin gì về nhóm này.

Nguồn gốc và lịch sử sơ kỳ

Khu vực địa lý ban đầu của người Hung Nô nói chung được coi là khu vực Ordos. Theo Tư Mã Thiên trong Sử ký-phần Hung Nô liệt truyện, người Hung Nô là các hậu duệ của Thuần Duy (淳維), có thể là con trai của vua Kiệt, vị vua cuối cùng của nhà Hạ. Tuy nhiên, trong khi không có chứng cứ trực tiếp để bác bỏ giả thuyết này thì cũng không có chứng cứ trực tiếp để hỗ trợ nó. Thời nhà Chu, không có nhiều tư liệu viết về họ, ngoài các cụm từ như rợ (nhung) Địch, rợ Hồ đều sống ở vùng sa mạc miền tây bắc Trung Quốc, có lẽ là để chỉ các nhóm người này.

Liên minh dưới trướng Mặc Đốn

Năm 209 TCN, tức là chỉ khoảng 3 năm trước khi nhà Hán ra đời, người Hung Nô đã liên kết lại với nhau thành một liên minh hùng mạnh dưới quyền của một thiền vu (单于) mới có tên gọi là thiền vu Mặc Đốn (冒顿, khoảng 209 TCN-174 TCN). Sự thống nhất về mặt chính trị của người Hung Nô đã làm cho họ trở thành một địch thủ đáng gờm, do họ có khả năng tập trung các lực lượng quân sự lớn và thực hiện tốt hơn việc phối hợp chiến lược. Tuy nhiên, nguyên nhân dẫn đến sự liên minh này vẫn chưa rõ ràng. Người ta cho rằng sự thống nhất Trung Quốc đã thúc đẩy các bộ lạc du cư tập hợp lại xung quanh một trung tâm chính trị nhằm củng cố vị thế của họ.. Một giả thuyết khác là sự tái cơ cấu này là cách thức phản ứng của họ đối với khủng hoảng chính trị đã diễn ra đối với họ khi vào năm 215 TCN, khi quân đội nhà Tần do Mông Điềm chỉ huy đã xua đuổi họ ra khỏi các đồng cỏ bên sông Hoàng Hà.

Sau khi hoàn thành việc thống nhất nội bộ, Mặc Đốn mở rộng đế chế của mình ra các phía. Về phía bắc, ông đã chinh phục hàng loạt các bộ tộc du cư, bao gồm cả người Đinh Linh (Sắc Lặc) ở miền nam Siberia. Ông cũng đè bẹp sự kháng cự của người Đông Hồ ở miền đông Mông Cổ và Mãn Châu, cũng như của người Nguyệt Chi trong hành lang Cam Túc. Ngoài ra, ông cũng đã có khả năng khôi phục lại tất cả các vùng đất đã bị tướng của nhà Tần là Mông Điềm đánh chiếm. Trước khi Mặc Đốn chết vào năm 174 TCN thì người Hung Nô đã xua đuổi hoàn toàn người Nguyệt Chi ra khỏi hành lang Cam Túc và khẳng định sự có mặt của họ tại Tây Vực, thuộc Tân Cương ngày nay.

Bản chất nhà nước Hung Nô

Dưới thời Mặc Đốn, một hệ thống nhị nguyên của thể chế chính trị đã được hình thành. Các nhánh tả và hữu (tức là tả bộ và hữu bộ) của người Hung Nô được phân chia trên cơ sở lãnh thổ địa phương. Người đứng đầu các bộ này là tả hiền vương và hữu hiền vương. Thiền vu - người trị vì tối cao, tương đương với "Thiên tử" của người Hán, thực hiện uy quyền trực tiếp trên vùng lãnh thổ trung ương. Long Thành (蘢城), gần Koshu-Tsaidam ở Mông Cổ, đã được thiết lập như là nơi họp mặt hàng năm và là kinh đô trên thực tế (de facto).

Hệ thống thỏa ước hôn nhân

Năm 201 TCN, Hung Nô tấn công nhà Hán. Hàn vương Tín đầu hàng. Vào mùa đông năm 200 TCN, sau khi vây hãm Thái Nguyên (太原), Hán Cao Tổ Lưu Bang đích thân chỉ huy một chiến dịch quân sự chống lại Mặc Đốn. Tại trận Bạch Đăng (白登, ngày nay là Đại Đồng, Sơn Tây), quân Hán đã bị khoảng 300.000 kỵ binh Hung Nô bao vây. Vị hoàng đế này đã bị cắt nguồn tiếp tế và cứu trợ trong 7 ngày, chỉ có may mắn mới thoát được.

Sau thất bại tại Bình Thành, Lưu Bang từ bỏ giải pháp quân sự đối với mối đe dọa từ phía người Hung Nô. Thay vì thế, năm 198 TCN, một cận thần là Lưu Kính (劉敬) đã được cử đi đàm phán. Giải pháp hòa bình cuối cùng đã đạt được giữa hai bên, bao gồm việc các công chúa nhà Hán sẽ lấy các thiền vu (gọi là hòa thân 和親); các món quà tặng theo chu kỳ cho người Hung Nô, bao gồm tơ lụa, rượu và gạo; địa vị bình đẳng giữa hai quốc gia và Vạn Lý Trường Thành là biên giới chung.

Thỏa thuận đầu tiên này đã trở thành kiểu mẫu cho quan hệ giữa nhà Hán và nhà nước của người Hung Nô trong khoảng 60 năm. Cho tới năm 135 TCN, thì thỏa thuận này đã được thay đổi không dưới 9 lần, với sự gia tăng của các món "quà tặng" sau mỗi lần thỏa thuận kế tiếp. Năm 192 TCN, Mặc Đốn thậm chí còn đề nghị được cưới Lã Thái hậu. Con trai ông ta và là người kế nghiệp, một người mạnh mẽ tên là Kê Chúc (稽粥, khoảng 174 TCN-160 TCN), còn được biết đến như là Lão Thượng thiền vu (老上單于), vẫn tiếp tục thực hiện các chính sách bành trướng của cha mình. Lão Thượng đã thành công trong việc đàm phán với Hán Văn Đế các điều kiện để duy trì một hệ thống chợ được chính quyền hỗ trợ ở mức độ lớn.

Trong khi người Hung Nô thu được nhiều lợi lộc thì về phía người Hán các thỏa thuận hôn nhân là đắt đỏ và không hiệu quả. Lão Thượng đã cho thấy là ông ta không hề có ý định nghiêm chỉnh thực hiện thỏa thuận. Thỉnh thoảng, những điệp viên của ông ta đã xâm nhập tới tận Trường An. Năm 166 TCN đích thân ông ta dẫn 140.000 kỵ binh xâm lấn An Định, tiến gần tới nơi nghỉ ngơi của hoàng đế tại đất Úng (雍). Năm 158 TCN, người kế nghiệp ông là thiền vu Quân Thần (khoảng 160 TCN-127 TCN) đã đem 30.000 kỵ binh tấn công Thượng Quận (上郡- thuộc Thiểm Tây ngày nay) và 30.000 quân tấn công Vân Trung (雲中-thuộc Nội Mông Cổ ngày nay).

Chiến tranh với nhà Hán

Nhà Hán đã chuẩn bị cho việc đối đầu quân sự từ thời kỳ trị vì của vua Hán Văn Đế (trị vì từ 180 TCN đến 157 TCN). Sự tuyệt giao diễn ra năm 133 TCN, ngay sau khi có một âm mưu bất thành nhằm đánh úp thiền vu Quân Thần tại Mã Ấp (馬邑). Vào thời điểm này, đế chế Trung Hoa đã trở nên vững chắc về các mặt chính trị, quân sự, tài chính, cũng như phe ủng hộ chiến tranh đang thắng thế tại triều đình. Tuy nhiên, cũng trong năm đó thì Hán Vũ Đế (trị vì từ năm 141 TCN đến năm 87 TCN) đã đảo ngược lệnh mà ông đã đưa ra vào năm trước đó để phục hồi lại thỏa thuận hòa bình.

Mức độ đầy đủ nhất của chiến tranh đã diễn ra vào mùa thu năm 129 TCN, khi 40.000 kỵ binh Trung Quốc đột ngột tấn công người Hung Nô tại các chợ biên giới. Năm 127 TCN, tướng nhà Hán là Vệ Thanh (衛青) tái chiếm Ordos. Năm 121 TCN, người Hung Nô lại phải gánh thêm một thất bại nữa khi Hoắc Khứ Bệnh (霍去病) chỉ huy một đội kỵ binh nhẹ tiến về phía tây của Lũng Tây và trong vòng 6 ngày đã mở đường xuyên qua 5 tiểu quốc của Hung Nô. Năm 119 TCN cả Hoắc Khứ Bệnh và Vệ Thanh, mỗi người chỉ huy khoảng 50.000 kỵ binh và 100.000 bộ binh, và tiến quân theo hai hướng tây-đông, đã ép buộc được thiền vu Y Trĩ Tà (伊稚斜) và toàn bộ triều đình của ông ta chạy về phía bắc của sa mạc Gobi, hữu hiền vương đầu hàng cùng với 40.000 người.. Hoắc Khứ Bệnh tiến quân theo hướng tây, đuổi người Hung Nô tới tận Lang Cư Tư Sơn, còn Vệ Thanh theo hướng đông đánh vào triều đình Hung Nô. Tại phía đông, nhà Hán liên minh với người Ô Hoàn còn tại phía tây vẫn thực hiện chính sách hòa thân.

Năm 73 TCN, nhà Hán cùng người Ô Hoàn đem 200.000 quân tấn công Hung Nô. Năm 57 TCN, triều đình Hung Nô chia rẽ, Chí (Chất?) Chi (郅支) (?-36 TCN) rút chạy về mạc bắc (tức sa mạc Gobi), năm 51 TCN Hô Hàn Tà (Da?) (呼韓邪) (58 TCN-31 TCN) về đầu hàng nhà Hán. Sau này Chí Chi đem dân chúng rút lui về khu vực ven biển Aral và hồ Balkhash (ngày nay thuộc về Afghanistan, Uzbekistan và Kazakhstan). Hô Hàn Tà chiếm lại vương triều tại mạc bắc.

Các khó khăn cơ bản đã hạn chế thời gian và sự kéo dài các chiến dịch này là các vấn đề tự nhiên. Theo phân tích của Nghiêm Vưu (嚴尤), các khó khăn này có hai điểm chính. Thứ nhất là vấn đề tiếp tế lương thực, thực phẩm với một khoảng cách lớn. Thứ hai, thời tiết ở các vùng đất miền bắc của người Hung Nô là một rào cản cho các binh sĩ người Hán, những người không bao giờ có đủ sức lực do không hợp thủy thổ.. Theo các báo cáo chính thức, phía Hung Nô mất khoảng từ 80.000 đến 90.000 người, còn trong số 140.000 ngựa mà người Hán đưa tới vùng sa mạc, chỉ còn ít hơn 30.000 quay trở lại tới Trung Quốc.

Kết quả của các trận chiến này là người Hán đã kiểm soát được khu vực chiến lược từ sa mạc Ordos và hành lang Cam Túc tới Lop Nor (La Bố Bạc). Họ đã thành công trong việc chia cắt người Hung Nô ra khỏi người Khương (羌族) ở phía nam, cũng như có được đường đi trực tiếp tới Tây Vực.

Tranh giành quyền lực

Khi đế chế Hung Nô đã mở rộng, một điều trở nên rõ ràng là cấu trúc lãnh đạo ban đầu của người Hung Nô thiếu sự mềm dẻo và không thể duy trì sự cố kết có hiệu quả. Truyền thống kế vị của con trai trưởng ngày càng trở nên không có hiệu quả trong thời gian chiến tranh thuộc thế kỷ I TCN. Đối lại với các vấn đề của quyền kế vị, thiền vu Hô Hàn Tà sau đó đã đề ra quy tắc là kể từ người kế nghiệp ông, mọi thiền vu phải chuyển ngai vàng cho em trai mình. Kiểu kế vị mang tính anh em này trên thực tế đã trở thành tiêu chuẩn.

Sự gia tăng của chủ nghĩa cục bộ địa phương ngày càng rõ ràng vào thời kỳ này, khi các vị vua của các tiểu quốc từ chối không tham dự các cuộc họp mặt hàng năm tại cung điện của thiền vu. Trong thời kỳ này, các thiền vu buộc phải xây dựng lực lượng trên lãnh thổ riêng của mình để bảo đảm giữ được ngai vàng.

Trong giai đoạn từ năm 114 TCN đến năm 60 TCN, người Hung Nô đã dựng lên cả thảy là 7 thiền vu. Hai trong số này, Chanshilu và Hồ Diễn Đề (壺衍鞮) đã gánh vác trọng trách khi chỉ là những đứa trẻ. Năm 60 TCN, Tuqitang, trở thành thiền vu Ác Diễn Cú Đề (握衍朐鞮, Wuyanjuti). Không bao lâu sau khi ông trở thành thiền vu, thì ông bị những người ở tả bộ hất cẳng khỏi quyền lực. Năm 58 TCN giới quý tộc trong tả bộ đưa Hô Hàn Tà lên làm thiền vu của họ. Năm 57 TCN là sự tranh giành quyền bính giữa 5 nhóm cục bộ, mỗi nhóm lập ra một thiền vu của riêng mình. Năm 54 TCN Hô Hàn Tà rời bỏ kinh đô ở phía bắc sau khi bị người em của mình là thiền vu Chí Chi đánh bại.

Quan hệ triều cống với nhà Hán

Lãnh thổ của nhà Hán. Năm 53 TCN Hô Hàn Tà quyết định chấp nhận việc triều cống cho nhà Hán. Các điều kiện ban đầu mà triều đình nhà Hán đòi hỏi là: thứ nhất là thiền vu hoặc sứ giả của ông ta phải tới kinh đô của nhà Hán để tỏ lòng thần phục; thứ hai là thiền vu phải đưa con trai đến làm con tin; và thứ ba là thiền vu phải cống nộp cho hoàng đế nhà Hán. Địa vị chính trị của Hung Nô trong trật tự thế giới của người Hán đã bị hạ từ "quốc gia anh em" xuống thành "ngoại thần" (外臣). Tuy nhiên, trong thời kỳ này thì người Hung Nô vẫn duy trì được chủ quyền chính trị và độc lập hoàn toàn về lãnh thổ. Vạn Lý Trường Thành vẫn tiếp tục là đường ranh giới giữa nhà Hán và nhà nước Hung Nô.

Hô Hàn Tà đã gửi con trai của mình, Shuloujutang, tới triều đình nhà Hán làm con tin. Năm 51 TCN đích thân ông tới Trường An để tỏ lòng thần phục hoàng đế nhà Hán nhân dịp Tết Nguyên Đán. Về mặt tài chính, Hô Hàn Tà đã được ban tặng nhiều vàng, tiền, quần áo, tơ lụa, ngựa và lương thực. Hô Hàn Tà còn hai lần nữa tới Trường An, vào năm 49 TCN và năm 33 TCN, dưới thời Tuyên Đế và Nguyên Đế; với mỗi lần này thì đồ ban thưởng của hoàng đế lại tăng lên. Lần cuối cùng, Hô Hàn Tà đã nhân cơ hội đề nghị được làm con rể hoàng đế. Như là dấu hiệu của sự suy tàn địa vị chính trị của người Hung Nô, Hán Nguyên Đế đã từ chối, thay vì thế đã ban cho ông này 5 tì thiếp của mình. Một trong số này là Vương Chiêu Quân (王昭君), một trong Tứ đại mỹ nhân Trung Hoa trong các câu chuyện dân gian của người Trung Quốc.

Khi Chí Chi biết được sự khuất phục của anh trai mình, ông ta cũng gửi con trai tới triều đình nhà Hán làm con tin vào năm 53 TCN. Sau đó, hai lần vào các năm 51 TCN và 50 TCN, ông cũng đã gửi các phái đoàn tới triều đình nhà Hán cùng cống phẩm. Nhưng vì không chịu tự đến thần phục nên ông đã không được chấp nhận cho triều cống. Năm 36 TCN, một viên tướng trẻ là Trần Thang (陈汤), với sự hỗ trợ của Cam Duyên Thọ (甘延壽), quan tổng nhiếp chính ở Tây Vực, đã chỉ huy một lực lượng viễn chinh đánh bại Chí Chi tại trận Taraz và gửi đầu ông này về Trường An làm chiến lợi phẩm.

Quan hệ triều cống đã bị gián đoạn trong thời gian cai trị của Hô Đô Nhi Thi (18-48), tương ứng với thời gian chính biến của nhà Tân tại Trung Quốc. Người Hung Nô nắm lấy cơ hội để giành lại sự kiểm soát đối với Tây Vực, cũng như đối với các bộ lạc láng giềng, chẳng hạn đối với người Ô Hoàn. Năm 24, Hô Đô Nhi Thi thậm chí còn nhắc đến vấn đề đảo ngược lại hệ thống triều cống.

Bắc và Nam Hung Nô

Quyền lực mới của người Hung Nô là trùng hợp với chính sách xoa dịu của Hán Quang Vũ Đế (5 TCN-57, cầm quyền từ năm 25 đến năm 57). Khi ở đỉnh cao nhất của quyền lực, Hô Đô Nhi Thi thậm chí còn so sánh mình với ông tổ nổi tiếng là Mặc Đốn. Tuy nhiên, do chủ nghĩa cục bộ địa phương lại gia tăng giữa những người Hung Nô nên Hô Đô Nhi Thi đã không bao giờ có thể thiết lập uy quyền ở mức không bị tranh cãi. Khi ông chỉ định con trai mình làm người kế vị (trái với quy tắc truyền ngôi cho anh em do Hô Hàn Tà đề ra) thì Bỉ, khi ấy là hữu hiền vương, đã từ chối tham dự cuộc họp mặt hàng năm tại cung điện của thiền vu.

Là con trai lớn của thiền vu trước đó, Bỉ có quyền đòi hỏi sự kế vị. Năm 48, hai năm sau khi con trai của Hô Đô Nhi Thi là Bồ Nô lên ngai vàng, tám bộ lạc Hung Nô trong khu vực căn cứ của Bỉ tại miền nam, với lực lượng khoảng 40.000 đến 50.000 người, đã tôn Bỉ làm thiền vu của họ. Trong suốt thời Đông Hán, hai nhóm này được gọi là nam Hung Nô và bắc Hung Nô.

Bị người Hung Nô miền bắc chèn ép mạnh và bị tổn thất bởi thiên tai, Bỉ đã đưa người Hung Nô miền nam trở lại quan hệ triều cống với Trung Quốc của nhà Hán vào năm 50. Hệ thống triều cống đã được thắt chặt đáng kể để giữ người Hung Nô miền nam dưới sự giám sát của nhà Hán. Thiền vu được lệnh phải đặt kinh đô tại huyện Meiji của quận Tây Hà. Người Hung Nô miền nam đã được tái định cư tại 8 quận vùng biên giới. Cùng thời gian đó, một lượng lớn người Hán đã bị ép buộc phải di cư tới các quận này, tại đây các khu định cư hỗn tạp bắt đầu xuất hiện.

Về mặt kinh tế, người Hung Nô miền nam gần như dựa hoàn toàn vào sự hỗ trợ của nhà Hán. Các quan hệ căng thẳng là hiển nhiên giữa những người Hán định cư và những người có cuộc sống du cư. Vì thế, năm 94 thiền vu An Quốc (安國) đã hợp nhất các lực lượng với người Hung Nô mới bị nô dịch hóa từ phía bắc để bắt đầu một cuộc nổi dậy lớn chống lại nhà Hán.

Vào cuối thời Đông Hán, người Hung Nô miền nam đã tham gia vào nhiều cuộc nổi dậy khi đó đang gây ra nhiều phiền toái cho nhà Hán. Năm 188, thiền vu Khương Cừ (羌渠) bị một số thần dân của mình ám sát vì đã đồng ý gửi quân đội đến giúp nhà Hán dẹp loạn tại Hà Bắc – nhiều người Hung Nô e ngại rằng điều này có thể trở thành tiền lệ cho sự phục vụ quân đội không có điểm kết thúc cho nhà Hán. Con trai của thiền vu bị sát hại này lên kế vị, nhưng ông này sau đó cũng đã bị những người nổi loạn này lật đổ vào năm 189. Ông ta chạy tới Lạc Dương để tìm kiếm sự trợ giúp của nhà Hán, nhưng vào thời gian đó thì triều đình nhà Hán cũng đang rối loạn do mâu thuẫn giữa các phe cánh của Hà Tiến và các hoạn quan, cũng như sau đó là sự chuyên quyền của Đổng Trác. Thiền vu này tên là Ư Phù La (於扶羅), với tước hiệu là Đặc Chí Thi Trục Hầu (特至尸逐侯), đã không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc cùng những người đi theo ở lại Bình Dương, một thành phố thuộc Sơn Tây, Trung Quốc ngày nay. Năm 195, ông ta chết và người em ông ta tên là Hô Trù Tuyền (呼廚泉) đã kế nghiệp.

Năm 216, Tào Tháo đã cầm giữ Hô Trù Tuyền tại Nghiệp Thành (鄴城) và chia những người đi theo ông ta tới Sơn Tây thành 5 bộ: tả, hữu, nam, bắc và trung. Điều này nhằm ngăn cản những người Hung Nô lưu vong tại Sơn Tây dính líu vào các cuộc nổi loạn, cũng như cho phép Tào Tháo sử dụng người Hung Nô làm các lực lượng bổ trợ cho đội quân kỵ binh của mình. Cuối cùng, tầng lớp quý tộc Hung Nô tại Sơn Tây đã đổi họ của mình từ Loan Thì (欒提) thành Lưu vì các lý do uy tín và thanh thế, khi họ cho rằng mình có quan hệ họ hàng với hoàng tộc nhà Hán, thông qua chính sách liên minh hôn nhân từ thời trước.

Hung Nô sau thời Hán

Sau thời Hô Trù Tuyền (呼廚泉), người Hung Nô bị chia nhỏ thành 5 bộ lạc địa phương. Tình trạng dân tộc phức tạp của các khu định cư hỗn tạp tại khu vực biên giới bắt đầu từ thời Đông Hán đã tạo ra các hậu quả nghiêm trọng, đã không được chính quyền Trung Quốc nắm rõ cho đến tận cuối thế kỷ III. Vào năm 260, Lưu Khứ Ti (劉去卑) đã tổ chức liên minh Thiết Phất (鐵弗) ở miền đông bắc và vào năm 290, Lưu Nguyên Hải (刘元海) đã làm thủ lĩnh của một nhóm nhỏ tại miền tây nam. Vào thời gian này, sự náo động của những người không phải là người Hán đã đạt tới quy mô đáng báo động dọc theo toàn biên giới của nhà Tây Tấn.

Lưu Uyên và nước Hán (304-318)

Năm 304, Lưu Uyên (劉淵) (?-310), người cháu nội đã Hán hóa của Ư Phù La (vốn có tên là Lưu Bang, Uyên chỉ là tên tự, nhưng vì trùng với tên húy của Hán Cao Tổ nên sử sách chỉ dùng tên tự), khuấy động các hậu duệ của người Hung Nô miền nam nổi lên làm loạn tại Sơn Tây, nhân nhà Tây Tấn suy yếu vì loạn bát vương (Bát vương chi loạn). Lưu Uyên nổi lên và sau đó đã hoành hành quanh kinh đô nhà Tây Tấn là Lạc Dương. Quân Lưu Uyên được nhiều người Hán vùng biên giới đi theo và được gọi là Bắc Hán. Lưu Uyên sử dụng từ 'Hán' làm quốc hiệu, hy vọng có được sự ủng hộ của những người còn luyến tiếc quá khứ huy hoàng của nhà Hán và lập kinh đô tại Bình Dương (平阳, ngày nay là Lâm Phần (臨汾)). Người Hung Nô sử dụng một lượng lớn kỵ binh nặng với áo giáp sắt cho cả người và ngựa, làm cho họ có ưu thế quyết định so với quân đội nhà Tấn đã bị suy yếu và nản lòng vì ba năm nội chiến. Năm 311, quân Hán chiếm được Lạc Dương, bắt vua nhà Tấn là Tư Mã Sí (司馬熾-tức Tấn Hoài Đế). Năm 316, vị hoàng đế tiếp theo của nhà Tấn là Tấn Mẫn Đế (晉愍帝) cũng bị bắt tại Trường An và toàn bộ miền bắc Trung Quốc nằm dưới sự thống trị của người Hung Nô trong khi những người còn lại của hoàng tộc nhà Tấn chạy xuống phía nam (các nhà sử học gọi là nhà Đông Tấn).

Lưu Diệu và nước Triệu (318-329)

Năm 318, sau cuộc đảo chính cung đình tại triều đình nước Hán của người Hung Nô (trong đó cả vua Hán (Hán Triệu) và phần lớn các quan lại đều bị thảm sát), một hoàng tử của người Hung Nô là Lưu Diệu (劉曜) (con nuôi của Lưu Uyên) đã dời kinh đô từ Bình Dương tới Trường An và đổi tên nước thành Triệu (趙), vì thế các nhà sử học gọi chung tiểu quốc này là Hán Triệu). Tuy nhiên, khu vực phía đông của miền bắc Trung Quốc đã nằm dưới sự kiểm soát của một viên tướng nước Hán Triệu này là Thạch Lặc (石勒), thuộc nhóm người Yết (羯- có lẽ có tổ tiên gốc Enisei). Lưu Diệu và Thạch Lặc đã đem quân đánh lẫn nhau cho tới tận năm 329, khi Lưu Diệu bị bắt sống tại trận và sau đó bị hành hình. Trường An ngay sau đó bị rơi vào tay Thạch Lặc, và triều đại của người Hung Nô bị xóa bỏ. Miền bắc Trung Quốc đã nằm dưới sự trị vì của Thạch Lặc (nước Hậu Triệu) trong vòng 20 năm sau.

Tuy nhiên, người Hung Nô mang họ "Lưu" vẫn còn hoạt động ở miền bắc trong ít nhất là một thế kỷ nữa.

Thiết Phất và nước Hạ (260-431)

Nhánh Thiết Phất (鐵弗) ở miền bắc của người Hung Nô đã giành được sự kiểm soát khu vực Nội Mông Cổ trong vòng 10 năm từ 376 - 386. Năm 376, nước Đại của người Thác Bạt (một nhánh của người Tiên Ti) bị nước Tiền Tần chinh phục và sau đó phục hồi vào năm 386 đổi tên là Bắc Ngụy. Sau năm 386, người Thiết Phất dần dần bị Thác Bạt bộ Tiên Ty tiêu diệt hoặc bức hàng. Những người Thiết Phất chịu quy phục được gọi là người Độc Cô (獨孤). Lưu Bột Bột (劉勃勃), một hoàng tử sống sót của người Thiết Phất chạy tới khu vực Ordos (vùng Hà Sáo, cao nguyên Hoàng Thổ), thành lập ra một tiểu quốc gọi là nước Hạ (gọi như vậy là do tổ tiên của người Hung Nô được coi là có từ triều đại nhà Hạ) và đổi họ thành Hách Liên (赫連 - tiếng Hung Nô nghĩa là Trời). Nhà nước Hạ của họ Hách Liên sau đó đã bị Bắc Ngụy của người Tiên Ty chinh phục vào năm 431. Người Hung Nô kể từ đây trở đi bị giảm vai trò trong lịch sử Trung Quốc, dần dà bị đồng hóa thành người Tiên Ti và người Hán.

Truyền thuyết của người H’Mông

Người H'Mông tại Trung Quốc tin rằng người Hung Nô cổ đại trên thực tế là một nhóm người H'Mông, vào thời gian đó được những người khôn ngoan nhất của bộ tộc lãnh đạo. Theo giả thuyết này, người H'Mông đã từng sinh sống trong khu vực gần Mãn Châu vào khoảng 5.000 năm trước. Cuối cùng thì sau thất bại tại trận Trác Lộc huyền thoại và cái chết của người thủ lĩnh là Xi Vưu, họ đã chạy về phương nam xuyên qua Trung Quốc để tới Đông Nam Á, mặc dù một số người vẫn ở lại và tập hợp lại với nhau thành người Hung Nô. Ở đây có sự suy đoán là tên gọi "Hung" có nghĩa là "người trị vì" hoặc "người vĩ đại". Trong tiếng H'Mông, từ Nô (có thể được phát âm với giọng cao) có nghĩa là "công việc". Điều đó có nghĩa là Hung Nô trong tiếng H'Mông mang nghĩa công việc của người trị vì.

Sắc tộc ngôn học của người Hung Nô

thumb|upright=1.35|Location of Xiongnu and other steppe nations in 300 AD.

Cái tên Hung Nô (phiên âm Hán Việt) là một từ miệt thị được đặt bởi người Hán, hai chữ 匈奴 có nghĩa đen là "nô lệ hung dữ". Cách phát âm này có nhiều tương đồng với từ "Hun" (người Hung) trong các ngôn ngữ châu Âu. Chữ thứ hai (奴) có nghĩa là nô lệ và không có từ nguyên tương đương trong các ngôn ngữ phương Tây. Ta không biết liệu cách phát âm giống nhau của từ thứ nhất là quan hệ họ hàng hay chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Nếu chúng thực sự có liên quan thì một trong ba giả thuyết sau đây sẽ đúng: rằng người Hung là hậu duệ của Hung Nô phương Bắc di cư về phía tây, hoặc người Hung dùng cái tên họ vay mượn từ Hung Nô phương Bắc, hoặc người Hung Nô là một bộ phận của liên minh các tộc người Hung.

Giả thuyết Hung Nô-Hung từng được đề xuất bởi nhà sử học người Pháp Joseph de Guignes vào thế kỷ 18. Ông nhận thấy rằng các sử gia Trung Quốc cổ đại gọi các bộ lạc có liên hệ với người Hung Nô bằng những cái tên tương tự như "Hung", mặc dù được viết bằng các ký tự khác nhau. Étienne de la Vaissière phát hiện ra rằng trong bảng chữ Sogdia được viết trên "Các lá thư cổ Sogdia", người Hung Nô và người Hung đều được gọi là γwn (xwn), cho thấy rằng hai cái tên này đồng nghĩa. Mặc dù giả thuyết người Hung Nô là tổ tiên của người Hung được nhiều học giả chấp nhận, quan điểm này vẫn chưa thực sự được công nhận một cách chính thức. Giả thuyết này có lẽ không hẳn đúng hoặc nó đơn giản hóa quá mức một vấn đề phức tạp hơn.

Giả thuyết ngữ chi Iran

thumb|upright=2|Đàn ông mặc trang phục Iran được thêu trên một tấm vải từ [[di chỉ chôn cất Noin-Ula của người Hung Nô. Ở xa bên phải ta có thể thấy bệ thờ lửa của Hỏa giáo và đồ cúng haoma Những người trên tấm vải này có khi được đề xuất là người Nguyệt Chi. Thế kỷ 1 TCN - Thế kỷ 1 CN.]] Nhà ngôn học Harold Walter Bailey cho rằng người Hung Nô nói một thứ tiếng có gốc Iran dựa trên các tên gọi từ thế kỷ thứ 2 TCN. Theo Beckwith, liên minh Hung Nô hầu hết là người gốc từ Iran khi mới thành lập nhưng nhiều khả năng là trước thời điểm đó, họ từng là chư hầu của người Iran và thừa kế mô hình du mục của dân Iran cổ. Các nhà khảo cổ học Mông Cổ cho rằng những dân cư của Văn hóa Mộ phiến (Slab Grave culture) là tổ tiên của người Hung Nô, và một số học giả cho rằng người Hung Nô có lẽ là tổ tiên của người Mông Cổ. GŽrard Chaliand và R. Bin Wong, sau khi xem xét Sử ký Tư Mã Thiên và các thư tịch cổ khác, kết luận rằng "Mặc dù biên niên sử Trung Quốc mô tả người Hung Nô là người Mông Cổ, chúng mô tả các chiến binh có mái tóc vàng và mắt xanh, tôn thờ một vị thần bầu trời tên là Tengri và được các pháp sư làm cầu nối". Theo "Tống Sử", người Nhu Nhiên (cuốn Ngụy thư xác định họ là hậu duệ của người Đông Hồ mà các học giả hiện đại cho rằng nói một thứ tiếng Proto-Mông Cổ) còn có các tên khác là 大檀 (Bính âm: Dàtán, Hán-Việt: Đại Đàn) "Tatar" và/hoặc 檀檀 (Bính âm: Tántán, Hán-Việt: Đàn Đàn) "Tartar". Theo Lương Thư, "họ tạo thành một nhánh riêng của Hung Nô". Nhà thơ thời Tống Tô Thức từng viết "Xích nhiêm bích nhãn lão Tiên Ti" (nghĩa là "ông lão Tiên Ti râu đỏ mắt xanh") trong bài thơ "Viết về [bức tranh] Hai con ngựa của Hàn Can" (Thư Hàn Can Nhị Mã); và Cựu Đường thư đề cập đến người Thất Vy đầu vàng (Hán tự: 黃頭室韋, Bính âm: Huángtóu Shìwéi, Hán-Việt: Hoàng đầu Thất vy) trong số 20 bộ lạc Thất Vy, mà các nguồn của Trung Quốc (Tùy thư, Cựu Đường Thư, Tân Đường thư) cho rằng có quan hệ với người Khiết Đan. Cũng theo sử liệu Trung Quốc, người Khiết Đan chính là hậu duệ của người Tiên Ti và có liên hệ với người Hung Nô. Các dân tộc Tiên Ti, Khiết Đan và Thất Vy được cho là những người nói ngữ hệ Mông Cổ và Cận-Mông Cổ. Thế mà, người Tiên Ti lại được chép là có nguồn gốc từ người Đông Hồ, sắc tộc khác hẳn với người Hung Nô và từng bị chinh phạt bởi Thiền vu Mặc Đốn. Ngoài ra, các nhà viết sử Trung Quốc thường quy nguồn gốc của người Hung Nô cho các nhóm du mục không liên quan: ví dụ, tổ tiên của Hung Nô được coi là người Kumo Xi nói thứ tiếng thuộc ngữ hệ Cận-Mông Cổ, và đồng thời là tổ tiên của người Göktürk và người Thiết Lặc nói các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Turk.

Thành Cát Tư Hãn từng viết "thời kỳ xa xôi của Thiền vu chúng ta" để chỉ thời đại Mặc Đốn trong một bức thư ông gửi cho Đạo sĩ Khâu Xứ Cơ. Biểu tượng mặt trời và mặt trăng của Hung Nô mà các nhà khảo cổ học phát hiện gần giống với biểu tượng Soyombo của người Mông Cổ.

Giả thuyết ngữ hệ Turk

Những nhà nghiên cứu ủng hộ học thuyết tiếng Hung Nô thuộc ngữ hệ Turk bao gồm E.H. Parker, Jean-Pierre Abel-Rémusat, Julius Klaproth, Kurakichi Shiratori, Gustaf John Ramstedt, Annemarie von Gabain và Omeljan Pritsak. Một số nguồn khẳng định rằng giai cấp thống trị Hung Nô nói tiếng proto-Turk. Craig Benjamin coi Hung Nô là dân tộc nói tiếng proto-Turk hoặc proto-Mông Cổ, có lẽ liên quan đến tiếng nói của người Đinh Linh.

Các sử liệu Trung Quốc liên kết người Thiết Lặc và người A Sử Na (Ashina) với Hung Nô. Theo Chu thưBắc sử, tộc A Sử Na là thành viên của liên minh Hung Nô.

Các khả hãn người Duy Ngô Nhĩ tự xưng là có nguồn gốc Hung Nô (theo Ngụy thư, người sáng lập hãn quốc Duy Ngô Nhĩ là hậu duệ của một thiền vu Hung Nô).

Cả Bắc SửChu thư, và một bản khắc cổ bằng tiếng Sogdia, chép rằng người Göktürk là một phân nhóm của người Hung Nô.

Giả thuyết ngữ hệ Enisei

Lajos Ligeti là học giả tiên phong cho học thuyết tiếng Hung Nô thuộc ngữ hệ Enisei. Vào đầu những năm 1960, Edwin Pulleyblank mở rộng ý tưởng này với nhiều bằng chứng đáng tin cậy. Năm 2000, Alexander Vovin xem xét lại các lý thuyết của Pulleyblank và tìm ra nhiều bằng chứng bổ sung dựa trên bản phục dựng gần đây nhất của âm vị học tiếng Hán thượng cổ của các tác giả Starostin và Baxter, cùng một bản phiên âm tiếng Trung duy nhất còn sót lại của một câu được viết trong ngôn ngữ của người Yết, một dân tộc thành viên của Liên minh Hung Nô. Các cách giải thích trước đây bằng ngữ hệ Turk không khớp với bản dịch tiếng Trung của câu này, nhưng khi áp dụng ngữ pháp Enisei thì lại ăn khớp hoàn toàn. Pulleybank và D. N. Keightley khẳng định rằng các tước danh Hung Nô "ban đầu là các từ của tiếng Siberia nhưng sau này được các dân tộc nối tiếng Turk và Mông Cổ vay mượn". Tiếng của người Hung Nô đã ảnh hường đến ngôn ngữ của các Đế quốc người Turk và Mông Cổ sau này; một số từ văn hóa quan trọng được vay mượn bao gồm: tängri trong tiếng Turk, tenggeri trong tiếng Mông Cổ, ban đầu đọc là chengli trong tiếng Hung Nô, đều có nghĩa là "thiên đường". Các tước danh như tarqan, tegin và kaghan cũng được kế thừa từ ngôn ngữ Hung Nô và có lẽ bắt nguồn từ ngữ hệ Enisei. Ví dụ, từ "thiên đường" trong tiếng Hung Nô được suy đoán là bắt nguồn từ tiếng Proto-Yenisei (Enisei nguyên thủy) là tɨŋVr. Theo Edwin G. Pulleyblank, sự tồn tại của các phụ âm đầu rl, cùng các cụm phát âm đầu trong tiếng Hung Nô chứng tỏ nó không thuộc vùng ngôn ngữ sprachbund Altai, và vốn từ của tiếng Hung Nô rất giống tiếng Enisei. Cách đơn giản nhất để giải thích điều này đó chính là: Tiếng Hung Nô là một ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Enisei, còn các tiếng Turk và Mông Cổ bị ảnh hưởng bởi tiếng Hung Nô. Haplogroup Q được tìm thấy ở người Hung Nô và xuất hiện ở khoảng 94% dân số người Ket. Nhiều từ Hung Nô dường như chung gốc với nhiều từ trong ngôn ngữ Enisei, chẳng hạn: "sakdak" trong tiếng Hung Nô và "saagdi" trong tiếng Ket đều mang nghĩa là 'ủng', kʷala trong tiếng Hung Nô nghĩa là 'con trai' và qalek trong tiếng Ket nghĩa là 'cháu trai'.

Từ "ket" đã được đối chiếu với tiếng phục dựng Proto-Enisei "keʔt", nghĩa là 'người'

Niên biểu Hung Nô

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hung Nô** () là các bộ lạc du cư ở khu vực Trung Á, nói chung sinh sống ở khu vực thuộc Mông Cổ ngày nay. Từ thế kỷ III TCN họ đã kiểm soát
**Nam Hung Nô** (南匈奴, 48-216) là chính quyền do quý tộc Hung Nô là Nhật Trục Vương Bỉ lập nên. Năm 48, Hung Nô phân thành hai bộ phận là Nam và Bắc, Nam Hung
**Chiến tranh Hán – Hung Nô** (漢匈戰爭 - Hán-Hung chiến tranh,漢匈百年戰爭 - Hán-Hung bách niên chiến tranh) là tên được dùng để chỉ hàng loạt các trận đánh giữa nhà Hán và các bộ lạc
nhỏ|phải|Những [[chiến binh người Hung]] **Nguồn gốc người Hung** (_Origin of the Huns_) và mối quan hệ của tộc người Hung này với những giống dân khác được nhắc đến trong các nguồn sử liệu
Trại của người Hung. **Người Hung** là một nhóm người dân du cư hay bán du cư trên lưng ngựa trong một liên minh lỏng lẻo ở khu vực Trung Á, có lẽ ban đầu
**_Captain America: Nội chiến siêu anh hùng_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Captain America: Civil War_**) là phim điện ảnh siêu anh hùng của Mỹ năm 2016 dựa trên nhân vật truyện tranh Captain America của
**Âm nhạc thời Phục Hưng** là âm nhạc được viết tại Châu Âu trong thời kỳ Phục Hưng. Các nhà nhạc sử học – với những bất đồng đáng kể – đều thống nhất cho
**Hùng Vương thứ XVI** là một vị vua truyền thuyết của nước Văn Lang trong lịch sử Việt Nam. ## Trị vì Trong thời kỳ này, các lãnh đạo địa phương đã nổi dậy chống
phải|nhỏ|Bức _[[Người Vitruvius_ của Leonardo da Vinci thể hiện ảnh hưởng của các tác giả cổ đại lên những nhà tư tưởng thời Phục Hưng. Dựa trên những đặc điểm miêu tả trong cuốn _De
** Đế quốc Áo-Hung**, **Nền quân chủ kép**, hoặc gọi đơn giản là _Áo_, là một chính thể quân chủ lập hiến và cường quốc ở Trung Âu. Đế quốc Áo-Hung được thành lập năm
**Kiến trúc thời kỳ Phục hưng** là kiến trúc của thời kỳ giữa thế kỷ 14 và đầu 17 đầu ở các vùng khác nhau của châu Âu, thể hiện một sự hồi sinh và
**_Biệt đội siêu anh hùng_** (hay **_Avengers: Biệt đội siêu anh hùng_**, tựa gốc tiếng Anh: **_The Avengers_**) là một bộ phim siêu anh hùng của Mỹ công chiếu vào năm 2012 được xây dựng
**Vương Chiêu Quân** (chữ Hán: 王昭君), cũng gọi **Minh phi** (明妃) hoặc **Minh Quân** (明君), là một nhân vật chính trị thời nhà Hán, nguyên là cung nhân của Hán Nguyên Đế, rồi trở thành
Năm 315 **Hán Triệu** (tiếng Trung giản thể: 汉赵, phồn thể 漢趙, bính âm: Hànzhào) 304-329 là một tiểu quốc trong thời kỳ Ngũ Hồ thập lục quốc vào cuối thời kỳ nhà Tây Tấn
**Mặc Đốn thiền vu** (, một số tài liệu Việt ngữ ghi là **Mạo Đốn**) sinh khoảng năm 234 TCN là vị thiền vu sáng lập nên Đế quốc Hung Nô sau khi sát hại
**Lý Quảng Lợi** (phồn thể: 李廣利, giản thể: 李广利, ? - 88 TCN) người Trung Sơn , ngoại thích, tướng lĩnh nhà Tây Hán. ## Cuộc đời ### Viễn chinh Đại Uyển, lao sư động
**Y Trĩ Tà thiền vu** (; trị vì 126–114 TCN), là một thiền vu của Hung Nô, kế vị Quân Thần thiền vu. Y Trĩ Tà thiền vu trị vì song song với Hán Vũ
**My Hero Academia: Two Heroes** (tiếng Nhật: 僕のヒーローアカデミア THE MOVIE ~2人の英雄ヒーロー~; phiên âm Hepburn: _Boku no hīrōakademia: Futari no eiyū_) là một bộ phim siêu anh hùng thể loại anime vào năm 2018 dựa trên
**Lư Quán** (chữ Hán: 盧绾; 256 TCN – 194 TCN) là tướng khai quốc nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông tham gia giúp Lưu Bang chống nhà Tần và tiêu diệt nước Tây
**Lưu Uyên** () (mất 310), tên tự **Nguyên Hải** (元海), được biết đến với thụy hiệu **Hán (Triệu) Quang Văn Đế** (漢(趙)光文帝) là vị hoàng đế khai quốc nhà Hán Triệu trong lịch sử Trung
thumb|Bài minh trên đồi Baruun Ilgen ở phía nam dãy núi Inil (Delgerkhangai) **_Phong Yên Nhiên sơn minh_** (chữ Hán: 封燕然山銘; tạm dịch: "Bài minh về buổi tế lễ trên núi Yên Nhiên"), còn được
nhỏ|240x240px|[[Linh vật siêu anh hùng cho Connecticut ComiCONN.]] **Siêu anh hùng** (tiếng Anh: **superhero**) **nữ siêu anh hùng** (tiếng Anh: **superheroine**) là một nhân vật sở hữu _siêu năng lực_, những khả năng vượt xa
nhỏ| [[Raffaello|Các bức bích họa trong Dãy phòng Raffaello của Điện Tông tòa ở Vatican, do Giáo hoàng Giuliô II ủy nhiệm cho Raffaello và xưởng vẽ của ông thực hiện. ]] nhỏ| _[[Sự tạo
**Anh hùng Belarus** (, Łacinka _Hieroj Biełarusi_; ) là danh hiệu vinh dự cao nhất có thể được trao tặng cho một công dân Belarus. Sắc lệnh tổng thống năm 1995 quy định những người
**Dương Hùng** (chữ Hán: 扬雄, 53 TCN – 18), tên tự là **Tử Vân**, người Thành Đô, Thục Quận, là nhà văn, nhà triết học cuối đời Tây Hán, đầu đời Tân. Ông được Tam
nhỏ| [[Jeanne d'Arc|Joan of Arc được coi là một nữ anh hùng Kitô giáo thời trung cổ của Pháp vì vai trò của cô trong Chiến tranh Trăm năm, và được phong thánh như một
**_Shazam! Cơn thịnh nộ của các vị thần_** (tiếng Anh: **_Shazam! Fury of the Gods_**) là bộ phim siêu anh hùng của Mỹ kể về nhân vật Shazam của DC Comics. Được sản xuất bởi
**Attila** ( Sinh: 395 hoặc 406; Không rõ – 453), người châu Âu gọi ông là **Attila Rợ Hung**, và đặt biệt hiệu là "Ngọn roi của Thượng đế" hoặc "tai họa của trời" (_fléau
**Đầu Mạn thiền vu** () – là thiền vu Hung Nô đầu tiên được biết đến, trị vì từ khoảng 220 đến 209 TCN. Tên gọi Đầu Mạn (Touman) dường như có liên hệ với
**Thọ Sơn** (), trước đây là **Đả Cẩu Sơn** (), **Đả Cổ Sơn** (), cũng thường được gọi là **Sài Sơn** (), là một ngọn núi tọa lạc tại quận Cổ Sơn ở thành phố
**Lục quân Đế quốc Áo-Hung** là lực lượng lục quân của Đế quốc Áo-Hung tồn tại từ năm 1867 khi đế quốc này được thành lập cho đến năm 1918 khi đế quốc này tan
**Thành phố Anh hùng** (tiếng Nga: город-герой, _gorod-geroy_) là một danh hiệu vinh dự được Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên bang Xô viết trao tặng cho 12 thành phố đã có những
thumb|Hình ảnh đường phố sau vụ nổ ở Cao Hùng **Vụ nổ khí đốt tại Cao Hùng, Đài Loan** () là một tại nạn về khí đốt do rò rỉ khí ga xảy ra tại
**Hưng Yên** là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, nằm ở miền Bắc Việt Nam, với trung tâm hành chính cách thủ đô Hà Nội khoảng hơn 55 km về phía Đông Nam.
**Quân Thần thiền vu** (, trị vì 161–126 TCN), là một thiền vu của Hung Nô, kế vị Lão Thượng thiền vu (老上單于). Dưới thời cai trị kéo dài của mình, Quân Thần thiền vu
**Hải Lạc Thi Trục Đê thiền vu** () hay **Hô Hàn Tà thiền vu** (呼韓邪單于, ?-55), tên là **Bỉ** là con trai của Ô Châu Lưu Nhược Đê thiền vu của Hung Nô, ban đầu
nhỏ|Tranh của Martin van Maële _Francion 15_ **Hưng phấn tình dục** (hay **hứng tình, nứng**) là sự kích thích ham muốn tình dục, trong khi hoặc do kết quả của các hoạt động tình dục.
Việc gọi tên **_Triết học phục hưng_** được sử dụng bởi các học giả để mô tả các tư tưởng của giai đoạn ở châu Âu khoảng giữa năm 1355 và 1650 (ngày nay dịch
**Triệu Phá Nô** (chữ Hán: 趙破奴, ? – 91 TCN) là tướng lĩnh giữa thời Tây Hán, quê quán ở Thái Nguyên. ## Cuộc đời Năm 121 TCN thời Hán Vũ Đế, Triệu Phá Nô
**Anh hùng dân tộc** là những người có công lao kiệt xuất trong công cuộc đấu tranh bảo vệ và phát triển của một dân tộc, được nhân dân ca ngợi và lịch sử dân
**Hàm Hưng** hay **Hamhŭng** (_Hamhŭng-si_; 咸興市/_Hàm Hưng thị_) là thành phố lớn thứ hai của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, là thủ phủ của tỉnh Hamgyong Nam. Cuối năm 2005, Hŭngnam gần
**Lão Thượng thiền vu** (, trị vì 174–160 TCN), danh là **Kê Chúc** (稽粥), là một thiền vu của Hung Nô, người kế vị Mặc Đốn thiền vu (冒頓單于). Dưới thời ông trị vì, sức
**Ư Phu La** (於夫羅, 150–196; trị vì 188–195), cũng gọi là **Ư Phù La** (於扶羅), hiệu là Trì Chí Thu Trục Hầu thiền vu (持至尸逐侯單于), là con trai của thiền vu Nam Hung Nô là
**Đình Độc Thi Trục Hầu Đê** (, ?-98), thuộc Luyên Đê thị, danh là "Sư Tử", là con trai thứ tư của Hải Đồng Thi Trục Hầu Đê thiền vu của Nam Hung Nô. Vào
**Nhà Lê trung hưng** (chữ Nôm: 茹黎中興, chữ Hán: 黎中興朝, Hán Việt: _Lê trung hưng triều_, 1533–1789) là giai đoạn sau của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê (giai đoạn đầu là nhà Lê
phải|Biểu diễn kịch Nō ở [[Đền Itsukushima, Miyajima, Hiroshima]] , hay là một thể loại quan trọng trong nghệ thuật kịch truyền thống Nhật Bản, được biểu diễn từ thế kỷ 14. Cùng với việc
**Yết** (; tiếng Hán Trung cổ: ), cũng gọi là **Yết Hồ** là một dân tộc ở phía bắc Trung Quốc thời cổ đại. Họ đã lập nên nước Hậu Triệu. Theo _Ngụy thư_, tên
Biến động biên giới Việt - Trung, 1428 - 1895. **Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Lê trung hưng** phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Lê trung hưng ở
thumb|[[Raphael, _The Betrothal of the Virgin_|alt= Oil painting. A Jewish Priest stands centrally to join the hands of the Virgin Mary who approaches from the left, followed by maidens and St. Joseph who stands to
**Bọ hung** hay **bù hung** là một nhóm các loài bọ cánh cứng thuộc họ _Scarabaeoidea_, bộ Bọ cánh cứng. ## Hình dáng, cấu tạo Cũng giống như cái loài côn trùng khác, cơ thể