✨Lưu Uyên

Lưu Uyên

Lưu Uyên () (mất 310), tên tự Nguyên Hải (元海), được biết đến với thụy hiệu Hán (Triệu) Quang Văn Đế (漢(趙)光文帝) là vị hoàng đế khai quốc nhà Hán Triệu trong lịch sử Trung Quốc.

Bối cảnh gia đình

Lưu Uyên là thành viên quý tộc Hung Nô, ông là hậu duệ của các thiền vu thuộc gia tộc Luyên Đê (欒提), các thiền vu cùng với thần dân của họ từ lâu đã là các chư hầu trung thành của nhà Hán, và sau đó là với các triều đại kế thừa nhà Hán là Tào Ngụy và nhà Tấn. Vào cuối thời Tào Ngụy hoặc đầu thời Tấn, các quý tộc Hung Nô tuyên bố rằng họ có gốc từ nhà Hán thông qua việc một công chúa nhà Hán đã kết hôn với vị thiền vu đầu tiên trong lịch sử người Hung Nô, Mặc Đốn thiền vu, và do đó cải họ thành "Lưu", cũng là họ của hoàng tộc nhà Hán. Cha của Lưu Uyên là Lưu Báo, người này là con trai của thiền vu Nam Hung Nô cuối cùng, Ư Phu La, và là cháu trai của thiền vu Hô Trù Tuyền (trước khi Tào Tháo bãi bỏ chức vụ năm 216 và chia người Hung Nô thành năm bộ), ông là lãnh đạo của Tả bộ (左部). Cả năm bộ đều định cư tại miền nam Sơn Tây ngày nay, nên có khả năng đó cũng là nơi Lưu Uyên được sinh ra.

Mẹ của Lưu Uyên là Hô Diên yên chi, xuất thân từ quý tộc Hung Nô, và có thể là vợ Lưu Báo và không phải là thê thiếp. Một số nguồn cho rằng Lưu Uyên là con của của Thái Chiêu Cơ.

Quan nhà Tấn

Do các quý tộc Hung Nô có quyền lực thường bị Tào Ngụy và Tấn bắt gửi con trai của họ đến Lạc Dương (nhằm làm cho họ trở nên Hán hóa hơn nữa và đảm bảo lòng trung thành của họ), Lưu Uyên được đưa đến Lạc Dương để cư trú và học văn hiến của người Hán. Ông nổi tiếng với những luận giải của mình, đặc biệt là Trâu thị truyện của Kinh Xuân Thu và các kế sách quân sự của Tôn Vũ và Ngô Khởi. Đại thần triều Tấn là Vương Hồn (王渾) (một trong các tướng lãnh đạo sau này tham gia chinh phạt Đông Ngô) trở nên ấn tượng với ông, Con trai của Vương Hồn là Vương Tể (王濟) trở thành bạn tâm giao của Lưu Uyên. Vương Hồn tin Lưu Uyên sẽ là một tướng tài và nhiều lần tiến cử Lưu Uyên với Tấn Vũ Đế, song Khổng Tuân (孔恂) và thúc phụ của Hoàng hậu Dương Chỉ (楊芷) là Dương Tể (楊濟) lại nghi ngờ Lưu Uyên do ông có nguồn gốc Hung Nô và thuyết phục Vũ Đế chống lại việc cử Lưu Uyên làm người chỉ huy quân sự trong các chiến dịch chống Đông Ngô và cuộc nổi loạn của người Tiên Ti do Thốc Phát Thụ Cơ Năng (禿髮樹機能). Cuối cùng, em trai của Vũ Đế là Tư Mã Du (司馬攸), ấn tượng và lo sợ trước khả năng của Lưu Uyên nên đã khuyên Vũ Đế giết chết Lưu Uyên, song Vương Hồn lại thuyết phục Vũ Đế rằng điều đó là sai lầm. Khi Lưu Báo qua đời, Vũ Đế cho phép Lưu Uyên trở thành lãnh đạo của Tả bộ.

Là người chỉ huy của Tả bộ, Lưu Uyên được sử sách biết tới khi ông cai quản một cách công bằng dựa trên pháp luật và sẵn sàng lắng nghe các ý kiến, và cũng vì ông sẵn lòng phô trương sự giàu có của mình. Vì vậy, những người đầy tham vọng tại vùng ông cai quản, không chỉ có ngũ bộ Hung Nô mà còn có các gia tộc người Hán, đã tụ tập đến chỗ ông. Sau khi Vũ Đế qua đời và Huệ Đế, nhiếp chính vương Dương Tuấn (杨骏) đã phong cho Lưu uyên làm chỉ huy toàn bộ ngũ bộ Hung Nô, song đến thời người nhiếp chính sau đó của nhà Tấn là Hoàng hậu Giả Nam Phong, Lưu Uyên bị bãi chức vụ này do không có khả năng chấm dứt một trong những cuộc nổi loạn của đồng bào mình. Sau đó, khi Thành Đô vương Tư Mã Dĩnh (司馬穎) trở thành tướng chỉ huy ở Nghiệp thành, ông ta đã mời Lưu Uyên đến làm tướng thuộc cấp của mình, Lưu Uyên chấp thuận lời mời này.

Độc lập với Tấn

Trong bối cảnh Loạn bát vương, năm 304, các quý tộc Hùng Nô do người lãnh đạo Bắc bộ, Lưu Tuyên (劉宣) cầm đầu, mệt mỏi trước nền cai trị tồi của nhà Tấn và đã âm mưu tái độc lập từ nhà Tấn. Họ cử một sứ giả đến để bí mật ban cho Lưu Uyên tước hiệu "Đại thiền vu". Lưu Uyên sau đó thuật lại cho Tư Mã Dĩnh. Tư Mã Dĩnh lúc này đang phải để tâm vào cuộc tấn công của Vương Tuấn (王浚), Vương Tuấn lúc này được tăng cường với lính Tiên Ti và Ô Hoàn. Lưu Uyên nói rằng ông nhân việc này để huy động binh lính Hung Nô để trợ giúp cho Tư Mã Dĩnh, Tư Mã Dĩnh chấp thuận cho phép Lưu Uyên trở về Hung Nô.

Khi Lưu Uyên trở về chỗ đồng bào của mình, ông đã tập được 5 vạn người một cách nhanh chóng và sẵn sàng trợ giúp cho Tư Mã Dĩnh, song ông cũng công khai chấp nhận tước hiệu Đại thiền vu (Trước đó, Tư Mã Dĩnh đã ban tước hiệu Bắc Thiền vu cho ông.) Tuy nhiên, ông khi đó lại nghe được tin rằng quân của Tư Mã Dĩnh đã bị sụp đổ trong nỗi sợ hãi trước quân của Vương Tuấn và rằng Tư Mã Dĩnh đã chống lại các lời khuyên của ông trước đó, chạy trốn đến Lạc Dương. Lưu Uyên sau đó tuyên bố thần dân của mình độc lập từ Tấn và còn tuyên bố xa hơn rằng, là một hậu duệ của nhà Hán, ông sẽ kế vị ngôi vị của nhà Hán, và do đó xưng tước hiệu Hán Vương, có ý lựa chọn tước hiệu của Lưu Bang, người sáng lập nên nhà Hán. Lưu Uyên tái lập việc thờ phụng tám vị hoàng đế nhà Hán: Cao Đế, Văn Đế, Vũ Đế, Tuyên Đế, Quang Vũ Đế, Minh Đế, Chương Đế, và Lưu Bị. Ông lập vợ mình làm Hô Diên Hoàng hậu (có thể là một người họ hàng của mẹ ông). Lưu Uyên ban đầu đặt tên quốc hiệu là Hán, song thường được sử sách gọi là "Hán Triệu" hay "Tiền Triệu" do cháu trai của ông là Lưu Diệu đã cải quốc hiệu sang Triệu vào năm 319.

Trị vì

Bất chấp năng lực ấn tượng trước đó, triều đại của Lưu Uyên đã không thể lớn mạnh. Ông dành phần lớn sức lực để cố gắng khôi phục lại hệ thống chính quyền của nhà Hán, song bản thân ông lại không thể nhanh chóng mở rộng phạm vi ảnh hưởng. Ông lập đô tại Li Thạch (離石, nay thuộc Lữ Lương, Sơn Tây), song ông chỉ có thể kiểm soát các lãnh thổ địa phương này. Quân của ông thường giành được thắng lợi trước quân Tấn song lại không thể giữ thành. Năm 305, sau một nạn đói, ông dời đô đến Lê Đình (黎亭, nay thuộc Trường Trị, Sơn Tây).

Tuy nhiên, sau nhiều năm trôi qua, các cuộc khởi nghĩa nông dân chống triều đình nhà Tấn, cho dù của người Ngũ Hồ hay Hán, thường chọn đứng dưới ngọn cờ nhà Hán của Lưu Uyên. Đứng đầu trong số này là tướng người Hán Vương Di (王彌) và tướng người Yết là Thạch Lặc (cả hai đều tuyên bố trung thành với Hán Triệu vào năm 307), họ thường chỉ nằm dưới trướng của Lưu Uyên trên danh nghĩa và vẫn duy trì thế lực độc lập song cũng thực sự tôn trọng và lo sợ Lưu Uyên. Đối với lính dưới quyền mình kiểm soát, Lưu Uyên phần lớn giao phó họ cho con trai mình là Lưu Thông và cháu trai Lưu Diệu. Bốn vị tướng quân này, trong khi không thể giữ thành, thì lại có thể thường xuyên đi khắp Hoa Bắc và Hoa Trung mà không bị quân Tấn cản trở, họ cũng đánh bại hầu hết các tướng Tấn phản kháng.

Năm 308, quân của Vương Di tiến vào kinh thành nhà Tấn là Lạc Dương song bị đẩy lui. Cùng năm, sau khi chiếm được nhiều lãnh thổ hơn, Lưu Uyên dời đô về Bồ Tử (蒲子, nay thuộc Lâm Phần, Sơn Tây) và xưng đế. Năm 309, ông lại dời đô đến Bình Dương (平陽, cũng thuộc Lâm Phần hiện nay). Thời gian này, Lưu Thông và Vương Di cuối cùng đã có thể kiểm soát toàn bộ phía nam Sơn Tây, sau đó họ tấn công Lạc Dương song lại bị đẩy lui.

Năm 310, Lưu Uyên lâm bệnh, ông lập người vợ thứ hai làm Đan Hoàng hậu và con trai cả Lưu Hòa (với Hô Diên Hoàng hậu, lúc này bà đã qua đời song cái chết của bà không được nói đến trong sử sách) làm thái tử. Sau khi ông qua đời, Lưu Hòa trở thành hoàng đế. Tuy nhiên, chỉ một tuần sau đó, tân hoàng đế bị Lưu Thông lật đổ và giết chết, Lưu Thông lên ngôi hoàng đế.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lưu Uyên** () (mất 310), tên tự **Nguyên Hải** (元海), được biết đến với thụy hiệu **Hán (Triệu) Quang Văn Đế** (漢(趙)光文帝) là vị hoàng đế khai quốc nhà Hán Triệu trong lịch sử Trung
**Lưu** là một họ của người Trung Quốc (), Việt Nam và cũng tồn tại ở Triều Tiên (Hangul: 류, Romaja quốc ngữ: Ryu hoặc Yu). Họ Lưu được biết đến nhiều nhất vì đây
**Lưu Thiện** (Trung văn giản thể: 刘禅, phồn thể: 劉禪, bính âm: Liú Shàn), 207 - 271), thụy hiệu là **Hán Hoài đế** (懷帝), hay **An Lạc Tư công** (安樂思公), hoặc **(Thục) Hán Hậu chủ**
**Lưu Thông** () (?-318), tên tự **Huyền Minh** (玄明), nhất danh **Tải** (載), người Hung Nô, gọi theo thụy hiệu là **Hán (Triệu) Chiêu Vũ Đế** (漢(趙)昭武帝), là hoàng đế thứ ba của nhà Hán
**Lưu Diệu** () (?-329), tên tự **Vĩnh Minh** (永明), là hoàng đế thứ năm của nước Hán Triệu trong lịch sử Trung Quốc. Ông trở thành hoàng đế vào năm 318 sau khi hầu hết
**Hán Chiêu Liệt Đế** (漢昭烈帝), hay **Hán Tiên chủ**, **Hán Liệt Tổ**, tên thật là **Lưu Bị** (, ; ; 161 – 10 tháng 6 năm 223), tự là **Huyền Đức,** là Hoàng đế khai
**Lưu Tử Huân** () (456–466), tên tự **Hiếu Đức** (孝德), là một thân vương và người tranh chấp ngôi vua triều Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông đã nhận được lời tuyên bố
**Lưu Tống Tiền Phế Đế** (chữ Hán: 劉宋前廢帝; 25 tháng 2, 449 – 1 tháng 1, 465), tên húy là **Lưu Tử Nghiệp** (劉子業), biểu tự **Pháp Sư** (法師), là Hoàng đế thứ sáu của
**Lưu Sở Ngọc** (chữ Hán: 劉楚玉; ? - 2 tháng 1, 466), còn được biết đến qua phong hiệu **Sơn Âm công chúa** (山陰公主), là một công chúa của triều đại Lưu Tống, con gái
**Lưu Tống Minh Đế** (chữ Hán: 劉宋明帝; 439–472), tên húy là **Lưu Úc** (), tên tự **Hưu Bỉnh** (休炳), biệt danh **Vinh Kì** (榮期), là hoàng đế thứ 7 của triều Lưu Tống trong lịch
**Lưu Hòa** () (?-310), tên tự **Huyền Thái** (玄泰), là hoàng đế thứ hai của nhà Hán Triệu trong lịch sử Trung Quốc. Ông chỉ trị vì trong bảy ngày vào năm 310. Lưu Hòa
**Lưu Quang Vũ** (17 tháng 4 năm 1948 – 29 tháng 8 năm 1988) là một cố nhà văn, nhà soạn kịch kiêm nhà thơ người Việt Nam. ## Tiểu sử và sự nghiệp Lưu
**Dòng họ Nguyễn Huy ở Trường Lưu** là một dòng họ có truyền thống văn hiến lâu đời ở Việt Nam, định cư từ thế kỷ 15 ở làng Trường Lưu thuộc tổng Lai Thạch,
**Phạm Thái** (chữ Hán: 范泰, 355 – 428), tên tự là **Bá Luân**, người huyện Sơn Âm, quận Thuận Dương , là học giả, quan viên cuối đời Đông Tấn, đầu đời Lưu Tống trong
nhỏ| _Cuộc lưu đày của [[Napoléon Bonaparte|Napoleon trên đảo Saint Helena_ của (1820) ]] nhỏ| _Đêm đầu tiên bị lưu đày_ - Bức tranh này xuất phát từ một bộ truyện nổi tiếng minh họa
**Lưu Côn** (chữ Hán: 劉琨; 271-318), tên tự là **Việt Thạch** (越石) là nhà chính trị, nhà quân sự và là nhà thơ thời Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc, người Ngụy Xương, Trung
**Lưu Đức Hoa** (sinh ngày 27 tháng 9 năm 1961) là một nam diễn viên, ca sĩ kiêm nhà sản xuất điện ảnh người Hồng Kông. Anh là một trong Tứ Đại Thiên Vương của
**Lưu Tống Hậu Phế Đế** (chữ Hán: 劉宋後廢帝; 463–477), tên húy là **Lưu Dục** (), tên tự **Đức Dung** (德融), pháp danh **Huệ Chấn** (慧震), là một hoàng đế của triều đại Lưu Tống trong
**Lưu Tống Văn Đế** (chữ Hán: 劉宋文帝; 407–453), tên húy là **Lưu Nghĩa Long** (), tiểu tự **Xa Nhi** (車兒), là một hoàng đế của triều Lưu Tống thời Nam-Bắc triều. Ông là con trai
**Lưu Báo** là con trai của Thiền vu Hung Nô Ư Phu La vào cuối thời nhà Hán và thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Lưu Báo là cha của Lưu Uyên, người
**Lộ hoàng hậu** (chữ Hán: 路皇后), không rõ tên thật, là hoàng hậu của Lưu Tống Tiền Phế Đế Lưu Tử Nghiệp trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Phụ thân của Lộ hoàng
**Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du** là quần thể những di tích liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp của Đại thi hào và dòng họ Nguyễn Tiên Điền. Các điểm di tích
**Tưởng Uyển** (tiếng Hán: 蔣琬; Phiên âm: Jiang Wan) (???-246), tự **Công Diễm** (公琰), là đại thần nhà Thục Hán trong thời kỳ Tam Quốc. Sau khi Gia Cát Lượng qua đời, ông kế nhiệm
**Lưu Diễn** (chữ Hán: 劉縯; ? – 23), biểu tự **Bá Thăng** (伯升), là tướng quân khởi nghĩa Lục Lâm cuối thời nhà Tân trong lịch sử Trung Quốc. Ông là anh trai của Hán
**Hạ Hầu Uyên** (chữ Hán: 夏侯淵: 164-219) tự **Diệu Tài** (妙才), là tướng quân phe Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là em họ của Hạ Hầu Đôn. ## Thời
**Thượng Quan Uyển Nhi** (Phồn thể: 上官婉兒; giản thể: 上官婉儿; 664 - 21 tháng 7, 710), còn gọi là **Thượng Quan Chiêu dung** (上官昭容), là một trong những nữ chính trị gia nổi tiếng của
**Lưu Văn Tĩnh** (chữ Hán: 劉文靜; 568–619), tự **Triệu Nhân** (肇仁), hiệu là **Lỗ công** (魯公), là một chính trị gia và từng giữ chức Tể tướng dưới thời nhà Đường. Ông vốn là quan
**Miêu, Lưu binh biến** (苗劉兵變), còn gọi là **Miêu Lưu chi biến** (苗劉之變), **Minh Thụ chi biến** (明受之變), là một cuộc đảo chính diễn ra vào tháng 3 đến tháng 4 năm Kiến Viêm thứ
**Thiền uyển tập anh** (chữ Hán: 禪苑集英), còn gọi là **Thiền uyển tập anh ngữ lục** (禪苑集英語錄), **Đại Nam thiền uyển truyền đăng tập lục** (大南禪宛傳燈集錄), **Đại Nam thiền uyển truyền đăng** (大南禪宛傳燈), **Thiền uyển
**Uyên Cái Tô Văn** (Hangul: Yeon Gaesomun, 603–666), một số nguồn phiên nhầm thành **Cáp Tô Văn**, là quyền thần, nhà quân sự kiệt xuất của Cao Câu Ly, có công lãnh đạo quân dân
**Hầu Uyên** (, ? - ?), người Tiêm Sơn, Thần Vũ , tướng lĩnh nhà Bắc Ngụy. Do Bắc sử được soạn vào đời Đường, Lý Duyên Thọ phải kỵ húy Đường Cao Tổ Lý
**Thẩm Uyên Tử** (chữ Hán: 沈渊子, 381 – 415), tên tự là **Kính Thâm**, người Vũ Khang, tướng lĩnh nhà Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Xuất thân Ông nội là Cảnh, xuất
**Lưu Cứ** (Phồn thể: 劉據; giản thể: 刘据, 128 TCN - 91 TCN), hay còn gọi là **Lệ Thái tử** (戾太子) hoặc **Vệ Thái tử** (衛太子), là Hoàng trưởng tử của Hán Vũ Đế Lưu
**Tố Uyên** (sinh ngày 19 tháng 7 năm 1948) là một nữ diễn viên điện ảnh người Việt Nam. Bà nổi tiếng với vai Nga trong bộ phim điện ảnh cách mạng năm 1961 _Con
**Uyển Dung** (chữ Hán: 婉容; 13 tháng 11, năm 1906 - 20 tháng 6, năm 1946), Quách Bố La thị, biểu tự **Mộ Hồng** (慕鸿), hiệu **Thực Liên** (植莲), là nguyên phối Hoàng hậu của
**_Portrait_** là album phòng thu thứ ba của ca sĩ Uyên Linh, được phát hành vào ngày 16 tháng 11 năm 2017 bởi Công ty TNHH giải trí âm nhạc Đức Trí. Album được sản
**Tạ Uyên** (1898-1940) là một nhà cách mạng Việt Nam. Ông là một trong ba Bí thư chi bộ cộng sản đầu tiên của tỉnh Ninh Bình và từng là Bí thư xứ ủy Nam
**Trận Uyển Thành (197)** (tiếng Trung: 宛城之战; Hán Việt: _Uyển Thành chi chiến_) là một cuộc binh biến diễn ra tại Uyển Thành thuộc Nam Dương vào cuối thời Đông Hán trong lịch sử Trung
nhỏ|phải|[[Akhal-Teke loài được cho rằng chính là Hãn huyết mã của Đại Uyển]] **Ngựa Đại Uyển** (tiếng Trung Quốc: 大宛馬/宛馬, Đại Uyển mã) hay **ngựa Fergana** là một giống ngựa ở vùng Trung Á tại
**Lý Uyển** (chữ Hán: 李琬; ? - 755), tự **Tự Huyền** (嗣玄), hoàng tử thứ sáu của Đường Huyền Tông Lý Long Cơ, mẹ đẻ là Lưu Hoa phi (刘华妃). ## Tiểu sử ### Tiết
**Uyển Trinh** (chữ Hán: 婉貞; 13 tháng 9 năm 1841 - 19 tháng 6 năm 1896), Na Lạp thị, còn được gọi là **Thuần Hiền Thân vương phi** (醇賢親王妃), Vương phi của Thuần Hiền Thân
**Uyển Quý phi Trần thị** (chữ Hán: 婉貴妃陳氏; 1 tháng 2 năm 1717 - 10 tháng 3 năm 1807) là một phi tần của Thanh Cao Tông Càn Long Hoàng đế. ## Cuộc đời ###
**Vinh Lưu Vương** (Yeongnyu-wang, phát âm như _Ieng-nhiu-oan_, trị vì 618 — 642) là quốc vương 27 của Cao Câu Ly. Ông là người đệ khác mẹ của Anh Dương Vương, và là con của
"**Mộng uyên ương hồ điệp**" (tạm dịch: _Giấc mơ đôi bướm_), nguyên tên "**Tân uyên ương hồ điệp mộng**" (phồn thể: 新鴛鴦蝴蝶夢, giản thể: 新鸳鸯蝴蝶梦, bính âm: _Xin yuan yang hu die meng_) là tên
**Bùi Bỉnh Uyên** (1520-1614) là công thần giúp nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Bùi Bỉnh Uyên tự là **Chuyết Phu**, người làng Định Công, huyện Thanh Đàm, nay
**Lưu Mẫn** (chữ Hán: 劉敏; ?-?), tự không rõ, quê ở huyện Tuyền Lăng, quận Linh Lăng, Kinh châu (nay là Linh Lăng, thành phố Vĩnh Châu, Hồ Nam), quan viên Quý Hán thời Tam
Thước chữ M với độ dài 2 bên: 10cm - Giúp dễ dàng căn chỉnh khuôn mày trước khi trang điểm và phun xăm - Chất liệu dẻo, dễ uốn, có thể điều chỉnh cho
Thành phần hương của nước hoa SAVAGE bao gồm:Nước Hoa Pháp Lưu Hương 12h SAVAGE✅ Thành Phần Hương Hương đầu: Hạt cây hồi hương, quả chanh vàngHương giữa: Hương hoa oải hương, Gổ cashmereHương cuối:Mùi
**_Huy nương Uyển Tâm_** (tiếng Hoa: 徽娘宛心, bính âm: _Hui niang Wan Xin_, tiếng Anh: _Maid Wan Xin_) là một bộ phim truyền hình dài 31 tập do tập đoàn truyền thông Thượng Hải phối
**Hiếu Uyên Cảnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝淵景皇后; 1427 - 15 tháng 1, 1506), nhưng được Minh sử ghi thành **Cảnh Đế Uông Phế hậu** (景帝汪廢后), là Hoàng hậu đầu tiên Minh Đại Tông Chu