Thiền uyển tập anh (chữ Hán: 禪苑集英), còn gọi là Thiền uyển tập anh ngữ lục (禪苑集英語錄), Đại Nam thiền uyển truyền đăng tập lục (大南禪宛傳燈集錄), Đại Nam thiền uyển truyền đăng (大南禪宛傳燈), Thiền uyển truyền đăng lục (禪苑傳燈錄) là một tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Hán ghi lại tương đối hệ thống các tông phái Thiền học và sự tích các vị Thiền sư nổi tiếng vào cuối thời Bắc thuộc cho đến thời Đinh, Lê, Lý và một số ít vị lớp sau còn sống đến đầu triều Trần; tức từ cuối thế kỷ 6 đến thế kỷ 13. Đây là tài liệu lịch sử cổ nhất của Phật giáo Việt Nam hiện có .
Tên và ý nghĩa
Trong bài Tựa cho lần khắc in năm 1715, Hòa thượng Thích Minh Trí đã giải thích tên và ý nghĩa của sách như sau:
:Tại sao lại lấy nghĩa là Thiền uyển tập anh? Đáp rằng: "Đó là lấy nghĩa lựa chọn những bậc anh tú trong vườn Thiền. Tại sao lại như vậy? Bởi vì môn đồ của Thiền tông thì nhiều mà những bậc thấu hiểu lý huyền vi thì không có mấy, quả thật như phượng giữa đàn gà, lan trong bụi cỏ. Nếu không phải là những người có thiên tư lỗi lạc, hiểu biết hơn người thì làm sao thấu suốt được những yếu chỉ huyền vi đủ làm kẻ lãnh tụ cho người học đạo, làm khuôn mẫu cho người đời sau? Đúng là trong vườn Thiền những người anh kỳ không phải nhiều, do đó phải chọn lấy những bậc danh cao đức trọng để tiện cho những người học Phật noi theo. Cái nghĩa của "tập anh" là như thế, do đó được dùng để đặt tên cho tập sách này...
Quá trình hình thành
Về tác giả
Theo một số nhà nghiên cứu trước đây, thì Thiền uyển tập anh do một người đời Trần biên soạn. Sách Đại Việt thông sử (thiên "Nghệ văn chí", ở loại truyện ký) của Lê Quý Đôn chép:
:Thiền uyển tập anh, một quyển, người đời Trần soạn, ghi tông phái Thiền học và sự tích các nhà sư nổi tiếng ở nước ta từ đời Đường, Tống, trải đến các đời Đinh, Lê, Lý, Trần.
Sách Lịch triều hiến chương loại chí (ở phần "Văn tịch chí") của Phan Huy Chú chép:
:''Thiền uyển tập, 6 quyển. Người đời Trần soạn. Ghi chép sự tích, và tông phái về thiền học của nước ta, từ cuối đời Đường, qua các đời Đinh-Lê đến đời Lý-Trần
Tuy nhiên, theo một số nhà nghiên cứu gần đây, thì người khởi soạn rất có thể là Thông Biện (? - 1134), một thiền sư thời Lý thuộc thiền phái Vô Ngôn Thông, đã được vua Lý Nhân Tông phong Quốc sư, và là người có nhiều sở trường về sử học và biết nhiều về lịch sử truyền bá Phật giáo ở Việt Nam.
Trong Việt Nam Phật giáo sử luận (Tập I), GS. Nguyễn Lang, đã trưng ra hai bằng chứng như sau:
Khi trả lời hoàng hậu Ỷ Lan, thiền sư đã nói về lai lịch của phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi một cách khá rõ rệt.
Trong Thiền uyển tập anh có đoạn nói về thiền sư Thần Nghi (? - 1216) như sau:
:Thiền sư Thần Nghi thưa (với thiền sư Thường Chiếu): "Con theo phụng sự hòa thượng đã lâu nhưng chưa rõ những nhân vật nào đã truyền thừa đạo này đầu tiên, xin hòa thượng chỉ bày cho con những thế hệ đã truyền thừa khiến cho học giả biết được nguyên lưu của mình". Thường Chiếu (? - 1203) thấy thái độ khẩn thiết ấy đưa cho Thần Nghi xem một tài liệu của Thông Biện trong đó có ghi chép về các tông phái và sự truyền thừa của các thế hệ. Thần Nghi đọc xong hỏi: "Tại sao hai hệ phái Nguyễn Đại Điên và hệ phái Nguyễn Bát Nhã không được chép vào đây?" Thường Chiếu trả lời: "Thông Biện đã suy nghĩ kỹ rồi mới không chép hai hệ phái ấy"...
Căn cứ hai chứng cứ trên GS. Nguyễn Lang đã quả quyết rằng chính thiền sư Thông Biện là người bắt đầu biên tập Thiền uyển tập anh. Sau đó, tập tài liệu này truyền qua các thiền sư là Đạo Huệ (? - 1073), Minh Trí (? - 1196), Thường Chiếu, Thần Nghi (? - 1216) và cuối cùng là Ẩn Không (? - ?). Và cũng theo giáo sư, chắc hẳn là mỗi vị khi nhận được sách đã ghi chép về những gì mình nghe thấy về đạo Phật trong thời đại mình. Vậy ta có thể kết luận là tác giả "Thiền uyển tập anh" gồm nhiều người, trong đó những vị sau đây là quan trọng nhất: Thông Biện, Thường Chiếu, Thần Nghi và Ẩn Không .
Tương tự, trong Lời Tựa cho lần in năm 1990, Thượng tọa Thích Thanh Tứ cũng đã viết rằng: ''Tuy cuốn Thiền uyển tập anh không ghi rõ tên soạn giả, nhưng qua các tài liệu tham khảo chúng ta có thể xác định tác phẩm này đã được ngài Thông Biện thiền sư khởi thảo từ thời Lý đến ngài Biện Tài, Thường Chiếu, Thần Nghi... Trải qua một quá trình biên soạn rồi đến thiền sư Ẩn Không là người hoàn tất việc biên soạn cuối cùng .
Thiền sư Ẩn Không, trong Thiền uyển tập anh không có truyện, nên không biết gì về ông. Tuy nhiên, nhờ một câu chú thích do người sau thêm vào sau truyện Thiền sư Thần Nghi, mà biết được ông là người ở tại Lượng Châu, huyện Na Ngạn (khi ấy bao gồm miền đất thuộc Lục Nam, Lục Ngạn và một phần thành phố Bắc Giang của tỉnh Bắc Giang ngày nay), nên còn được đời gọi là Na Ngạn đại sư, thuộc thế hệ thứ 14 của phái thiền Vô Ngôn Thông. Ông được thầy trao truyền tập sử liệu vào năm 1216. Đến năm 1225, nhà Trần thành lập. Rất có thể sau năm này ông hoặc đệ tử của ông cho khắc in Thiền uyển tập anh (hoàn thành từ tập sử liệu vừa kể), cho nên Lê Quý Đôn và Phan Huy Chú đều chép là "do người đời Trần soạn".
Về văn bản
Không rõ Thiền uyển tập anh được khắc in lần vào năm nào, chỉ biết rằng đến đời vua Tự Đức chỉ còn bản trùng san (khắc in lại) do hòa thượng Thích Như Trí và các môn đồ khắc in ở chùa Tiên Sơn (Từ Sơn, Hà Bắc; nay thuộc Bắc Ninh) vào năm Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715) đời vua Lê Dụ Tông.
Và cũng vì bản in này "trong đó có nhiều chỗ lầm từ chữ này sang chữ nọ, sai lầm khó đọc ra chữ gì" (Tựu trung lỗ ngư bất nhất, vận suyển san danh"), nên lúc bấy giờ có hòa thượng Thích Phúc Điền ở Bồ Sơn (Bắc Ninh) đã ra công hiệu chỉnh, làm thành quyển Thượng trong bộ sách gồm 2 quyển có tên là Trùng khắc Đại Nam thiền uyển truyền đăng tập lục, và cho khắc in vào đầu năm Kỷ Mùi (1859).
Trong quyển Thượng, có dòng phụ chú: "Thất tập nhân danh, cựu bản Tiên Sơn tự" (tên người biên tập đã thất truyền, căn cứ theo bản cũ ở chùa Tiêu Sơn). Riêng quyển Hạ không phải là quyển tiếp nối Thiền uyển tập anh, mà là hai cuốn khác cũng nói về Thiền học Việt Nam, đó là cuốn Tam tổ thực lục (nói về ba vị tổ Trúc Lâm đời Trần) và cuốn Ngự chế Thiền điển thống yếu kế đăng lục (do thiền sư Như Sơn ở chùa Hồng Phúc, ấn hành năm 1734).
Ngoài ra trước khi in, hòa thượng Phúc Điền đã viết thêm tiểu sử của năm vị thiền sư sống gần ông nhất vào tác phẩm của Như Sơn, đồng thời cũng ghi chép thêm những điều ông nghe về việc truyền thừa của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đời Trần.
Giới thiệu sơ lược bản in 1715
Bản Thiền uyển tập anh được khắc in năm 1715, gồm 2 quyển. Đầu sách có một bài Tựa viết năm 1715 trong dịp khắc bản. Bài tựa này không mang tên tác giả, nhưng có mang ngày tháng là: "Khắc lại vào một ngày tháng Tư niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 11 triều Lê" (tức năm 1715). Sau bài Tựa có danh sách 14 người đã góp công và của vào việc ấn loát. Tiếp theo là 68 thiên truyện, gồm:
37 thiên chép tiểu truyện của 38 vị (truyện 11 chép chung hai vị) thiền sư thuộc phái Vô Ngôn Thông.
29 thiên chép tiểu truyện của 39 vị thiền sư thuộc phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi.
*Một thiên chép tiểu truyện của thiền sư Thảo Đường cùng danh sách gồm 18 vị thuộc thiền phái này.
Theo bản khắc in năm 1715 do Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thúy Nga dịch, thì thứ tự các tiểu truyện như sau:
Mỗi tiểu truyện trên gần như là một tác phẩm độc lập, được trình bày khá thống nhất hành trạng của mỗi vị: lai lịch xuất thân, xuất gia, quá trình hành đạo và cuối cùng là viên tịch. Đặc biệt, ở mỗi tiểu truyện còn có những mẫu đối thoại về giáo lý, kệ thị tịch, các bài thơ đề tặng hay xướng họa...
Tuy nhiên vì những lý do nào đó, vẫn có một số tăng sĩ khá nổi danh nhưng không được Thiền uyển tập anh biên chép hay nhắc đến, như: Thiền sư Vô Ngại, Pháp sư Phụng Đình, Pháp sư Duy Giám, Thiền sư Tam Mạch, Thiền sư Vô Châu, v.v....
Nhận xét
Thiền uyển tập anh là một tác phẩm không những có giá trị về lịch sử Phật giáo Việt Nam mà còn là một tác phẩm truyện ký có giá trị về mặt văn học, triết học và văn hóa dân gian .
Tuy nhiên, bên cạnh một số tiểu truyện đã có vẻ là một đoản văn xuôi hoàn chỉnh, có khi in đậm màu sắc kỳ ảo và phần nào mang dáng dấp của truyện cổ tích hay truyện truyền kỳ (như truyện TS. Từ Đạo Hạnh, truyện TS. Ma Ha...), lại là những tiểu truyện quá vắn tắt và khô khan (như các truyện: TS. Biện Tài, TS. Định Huệ, TS. Đạo Lâm,...) thực sự không mấy hấp dẫn .
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thiền uyển tập anh** (chữ Hán: 禪苑集英), còn gọi là **Thiền uyển tập anh ngữ lục** (禪苑集英語錄), **Đại Nam thiền uyển truyền đăng tập lục** (大南禪宛傳燈集錄), **Đại Nam thiền uyển truyền đăng** (大南禪宛傳燈), **Thiền uyển
**Thường Chiếu** (_常照_, ? – 1203), là một tu sĩ, nhà lãnh đạo Phật giáo Đại Việt đời Lý. Ông theo pháp môn Thiền tông, là thiền sư thuộc thế hệ thứ 12 của thiền
Thiền sư **Minh Trí ** (明智, ? -1196), tên tục: **Tô Thiền Trí** (蘇禪智); là thiền sư Việt Nam thời nhà Lý, thuộc thế hệ thứ 10 thiền phái Vô Ngôn Thông. ## Thân thế
Thiền sư **Thanh Biện** (?–686) là Thiền sư Việt Nam thuộc thiền phái Tì-ni-đa-lưu-chi đời thứ tư, nối pháp Thiền sư Huệ Nghiêm. ## Cơ duyên và hành trạng Sư họ Đỗ, người hương Cổ
nhỏ|phải|Phật hoàng Trần Nhân Tông **Thiền tông Việt Nam** hay thường gọi là **Thiền Tông** (禪宗) là một trường phái của Thiền tông đã được người Việt bản địa hóa. Nổi tiếng nhất của trường
**Viên Chiếu** (圓照), tên thật là **Mai Trực** (梅直, 999 – 1090) là một tu sĩ, nhà lãnh đạo Phật giáo Đại Việt thời Lý. Ông một trong 7 vị thiền sư thuộc thế hệ
Thiền sư **Chân Không** (真空, 1046-1100), tên tục: **Vương Hải Thiềm**(王海蟾); là thiền sư Việt Nam thời nhà Lý, thuộc thế hệ thứ 16 thiền phái Tì-ni-đa-lưu-chi. ## Thân thế và hành trạng **Vương Hải
**Thảo Đường** (chữ Hán: 草堂; 997-1047), Hiện là Tuân Phát Hỉ Túc,một Quốc sư dưới triều vua Lý Thánh Tông và là người sáng lập thiền phái Thảo Đường trong lịch sử Phật giáo Việt
**Dương Không Lộ** (楊空路, 1016-1094), húy **Dương Minh Nghiêm**, hiệu **Khổng Lồ** đọc tránh **Không Lộ** pháp hiệu là **Thông Huyền chân nhân**, **Vân Du Tường** quê gốc làng Giao Thủy (sau đổi là làng
Thiền sư **Giác Hải ** (覺海, 1024 (? 1023) – 1138) là người họ Nguyễn , húy **Nguyễn Viết Y** (Nguyễn Quốc Y), pháp hiệu **Giác Hải tính chiếu đại sư** là thiền sư Việt
**Vạn Hạnh** (chữ Hán: 萬行) (938–1018) là một tăng sĩ Phật giáo Đại Cồ Việt, người châu Cổ Pháp (Bắc Ninh). Ông là một trong những Tăng sĩ làm cố vấn cho vua Lê Đại
**Thiền phái Trúc Lâm ** (zh. 竹林禪派) là một tông phái của Thiền tông Việt Nam, hình thành từ thời nhà Trần, do Vua Trần Nhân Tông sáng lập. Trúc Lâm vốn là hiệu của
**Anh hùng xạ điêu** là phần mở đầu trong bộ tiểu thuyết võ hiệp Xạ điêu tam bộ khúc của nhà văn Kim Dung. Trong truyện có nhiều nhân vật có tiểu sử riêng. Dưới
thumb|[[Tượng đài Thánh Gióng trên đỉnh Núi Sóc, Sóc Sơn, Hà Nội.]] **Thánh Gióng** (chữ Nôm: 聖揀), hiệu là **Phù Đổng Thiên Vương** (chữ Hán: 扶董天王) hay **Sóc Thiên vương** (朔天王), là một nhân vật
Thiền sư **Huệ Sinh** (惠生, ? -1063?) tên tục là **Lâm Khu**(林摳), **Lâm Khu Vũ** hay **Xu Vũ** là một thiền sư Việt Nam thời nhà Lý, và thuộc thế hệ thứ 13 trong thiền
Tượng Pháp Vũ tại [[chùa Keo (Hà Nội)]] Tượng Pháp Vân, ở [[Chùa Dâu, Bắc Ninh]] **Tứ Pháp** (Chữ Hán: 四法) là các vị Phật - Bồ Tát có nguồn gốc từ các nữ thần
**Lý Quốc Sư** (chữ Hán: 李國師 15 tháng 10 năm 1065 –19 tháng 11 năm 1141) là tên gọi theo quốc tính họ Vua do nhà Lý ban cho và ghép với chức danh pháp
**Phó Đại Sĩ**-**Thiện Huệ** (zh: 傅翕) (497-569) hay còn gọi là Phó Hấp hay Ngư hành đại sĩ, Phó đại sĩ, Song lâm đại sĩ, Đông dương đại sĩ, Ô thương cư sĩ. Ông là
**Khuông Việt** (匡越, 933-1011) trước tên là **Ngô Chân Lưu** (吳真流), tu chùa Phật Đà, làng Cát Lợi, Thường Lạc (nay là Vệ Linh, Sóc Sơn, Hà Nội). Sư là người Cát Lợi, hậu duệ
**Hiện Quang** (現光, ? – 1221), là một thiền sư thuộc đời thứ 14 phái thiền Vô Ngôn Thông, và là vị tổ khai sơn phái thiền Trúc Lâm Yên Tử trong lịch sử Phật
Quốc sư **Thông Biện** (通辯; ? – 1134), hay **Trí Không** thiền sư, là một thiền sư nổi danh trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Sư được xem là đời thứ 8 của dòng
nhỏ|Bức ảnh này trích trong một chương về [[Ấn Độ trong cuốn _Câu chuyện về các quốc gia của Hutchison_, mô tả Ajatashatru đến thăm Đức Phật để giác ngộ tội lỗi của mình.]] **Phật
**Mộc Uyển Thanh** (chữ Hán: _木婉清_) là nhân vật nữ hư cấu trong tác phẩm "Thiên Long Bát Bộ" của nhà văn Kim Dung. Trong tiểu thuyết này, cô xuất hiện tại Hồi thứ 3:
nhỏ|phải|Tháp Phước Duyên ở [[chùa Thiên Mụ đã trở thành một trong những công trình biểu tượng của thành phố Huế]] **Tháp chùa Việt Nam** là những công trình tháp được đặt tại các ngôi
**Chiến tranh Hán – Đại Uyên** hay còn được gọi là **Thiên Mã chi chiến** (chiến tranh vì ngựa trời) là một cuộc xung đột vũ trang diễn ra từ năm 104 đến năm 101
**Văn học Việt Nam thời Tiền Lê** được nhiều nhà nghiên cứu xem là giai đoạn sơ khởi của nền văn học viết Việt Nam (để phân biệt với văn học dân gian, văn học
Hiện vẫn chưa định được chính xác thời điểm đạo Phật bắt đầu truyền vào Việt Nam và **Phật giáo Việt Nam** đã thành hình như thế nào. Một nghiên cứu cho rằng đạo Phật
**Võ Tắc Thiên** (chữ Hán: 武則天, 624 - 16 tháng 12, 705) hay **Vũ Tắc Thiên**, thường gọi **Võ hậu** (武后) hoặc **Thiên hậu** (天后), là một phi tần ở hậu cung của Đường Thái
**Thích Tuệ Sỹ** (15 tháng 2 năm 1943 – 24 tháng 11 năm 2023), tục danh **Phạm Văn Thương**, là một vị Hoà thượng, học giả về Phật giáo, nguyên giáo sư giảng dạy tại
**_Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài (tiếng Anh: Butterfly Lovers)_** là một bộ phim truyền hình lãng mạn, cổ trang, bi - hài kịch do các nhà làm phim Đài Loan và Hồng Kông
Đây là danh sách các nhân vật xuất hiện từ tiểu thuyết võ hiệp **_Thiên long bát bộ_** của nhà văn Kim Dung. Có hơn 230 nhân vật trong cuốn tiểu thuyết, bao gồm cả
**_Anh hùng xạ điêu_** (; Hán Việt: **Xạ điêu anh hùng truyện**) là một trong những tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung được đánh giá cao, được _Hương Cảng Thương Báo_ xuất bản năm
**Chiến tranh Tống-Việt** là một cuộc chiến tranh giữa Nhà Tống thời Tống Thái Tông và Đại Cồ Việt thời Lê Đại Hành diễn ra từ tháng 1 đến tháng 4 năm 981 trên lãnh
"**Mộng uyên ương hồ điệp**" (tạm dịch: _Giấc mơ đôi bướm_), nguyên tên "**Tân uyên ương hồ điệp mộng**" (phồn thể: 新鴛鴦蝴蝶夢, giản thể: 新鸳鸯蝴蝶梦, bính âm: _Xin yuan yang hu die meng_) là tên
**Chùa Cổ Pháp** (tên chữ: **Cổ Pháp tự** (古法寺)) là một ngôi chùa tọa lạc tại khu phố Đại Đình, phường Tân Hồng, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam. Chùa Cổ Pháp
**Văn học đời Lý** là thời kỳ đầu của nền văn học Việt Nam được hình thành trong giai đoạn lịch sử của nhà Lý (1009-1225). ## Đặc điểm chính :_Về lịch sử, xem bài
**Giải thưởng Phan Châu Trinh**, tên đầy đủ là **Giải thưởng văn hóa Phan Châu Trinh** là một giải thưởng được Nhà xuất bản Tri Thức và Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh trao hằng
**Nguyễn Hùng Vĩ** (sinh ngày 15 tháng 01 năm 1956) là một nhà nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam. ## Lịch sử Ông Nguyễn Hùng Vĩ sinh ngày 15 tháng 11 năm 1956
Mạn-đà-la **Mật Tông** (zh. 密宗 _mì-zōng_) là từ gốc Hán dùng để gọi pháp môn bắt nguồn từ sự kết hợp giữa Ấn Độ giáo và Phật giáo Đại thừa, được hình thành vào khoảng
Mùa đầu tiên của chương trình **_Anh trai vượt ngàn chông gai_** được phát sóng trên kênh truyền hình VTV3 từ ngày 29 tháng 6 đến ngày 19 tháng 10 năm 2024. Sau chương trình,
**Ỷ Lan** (chữ Hán: 倚蘭, 7 tháng 3, năm Giáp Thân (1044) – 25 tháng 7, năm Đinh Dậu (1117) hay còn gọi là **Linh Nhân Hoàng thái hậu** (靈仁皇太后), là phi tần của Hoàng
**Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ tư** hay còn gọi là **thời Minh thuộc** trong lịch sử Việt Nam bắt đầu từ năm 1407 khi đế quốc Minh đánh bại nhà Hồ-Đại Ngu và chấm
**Điện ảnh Việt Nam** hay **phim điện ảnh Việt Nam** (tức **phim lẻ Việt Nam**) là tên gọi ngành công nghiệp sản xuất phim của Việt Nam từ 1923 đến nay. Điện ảnh Việt Nam
**Khoa học thư viện** hay **thư viện học** (tiếng Anh: _Library science_) là bộ môn khoa học xã hội nghiên cứu quy luật phát triển sự nghiệp thư viện như một hiện tượng xã hội.
**Cây gạo làng Diên Uẩn** (hay làng Dương Lôi, Tân Hồng, Từ Sơn, Bắc Ninh) được xem là sinh vật gắn liền với một số sự kiện lịch sử Việt Nam thế kỷ 10, thế
**Nguyễn Thị Anh Thư** (sinh ngày 26 tháng 4 năm 1982), thường được biết đến với nghệ danh **Anh Thư**, là một nữ siêu mẫu kiêm diễn viên người Việt Nam. Từng đoạt danh hiệu
**Điện ảnh Thái Lan** khởi nguồn từ nền điện ảnh những ngày đầu, khi chuyến viếng thăm đến Bern, Thụy Sĩ của vua Chulalongkorn vào năm 1897 được François-Henri Lavancy-Clarke ghi hình lại. Bộ phim
**Thiền viện Trúc Lâm Chánh Giác** tọa lạc tại ấp 1 (cách Quốc lộ 1 khoảng 20 km, và cách đường Tràm Mù hơn 500 m); thuộc xã Thạnh Tân, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền
**Bình Lỗ** là tên một thành cổ được ghi nhận trong lịch sử Việt Nam, nhờ có thành này mà năm 981 Lê Đại Hành đã đánh tan được quân Tống. Tuy nhiên vị trí,
**Chùa Cảm Ứng** còn gọi là **Chùa Trăm Gian** hay **Chùa Ứng Tự, chùa Tam Sơn** là một ngôi chùa lịch sử ở phường Tam Sơn, thuộc thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. ##