Tưởng Uyển (tiếng Hán: 蔣琬; Phiên âm: Jiang Wan) (???-246), tự Công Diễm (公琰), là đại thần nhà Thục Hán trong thời kỳ Tam Quốc. Sau khi Gia Cát Lượng qua đời, ông kế nhiệm trở thành phụ chính đại thần cho Thục Hán Hoàng đế Lưu Thiện.
Phò tá Lưu Bị
Tưởng Uyển là người huyện Tương Hương, quận Linh Lăng, thuở trẻ cùng với em bên ngoại là Lưu Mẫn đều đã là người có tiếng tăm. Tưởng Uyển làm thư tá ở Kinh Châu, khi Lưu Bị đánh Ích Châu, Uyển theo Bị vào Thục, làm huyện trưởng Quảng Đô. Lưu Bị thi sát đột ngột ở Quảng Đô thấy Uyển làm việc bê trễ, lại hay uống rượu say bí tỉ, giận lắm muốn đem chém. Gia Cát Lượng vội can ngăn, nói rằng Tưởng Uyển là người có tài cai trị, chỉ là không chú ý thể hiện ra ngoài, nhưng biết lấy việc yên dân làm căn bản. Lưu Bị kính trọng Gia Cát Lượng nên miễn tội chết cho Tưởng Uyển, nhưng bãi miễn hết chức tước.
Tưởng Uyển nằm mộng thấy một cái đầu trâu, máu chảy lênh láng. Ông rất lo lắng, đem chuyện nói với người chiêm bốc là Triệu Trực. Triệu Trực trả lời: "Thấy máu, tức là mọi việc sắp rõ ràng phân minh. Sừng trâu ghép với mũi, thành hình chữ Công (公), ngài tất được thăng chức.", bổ nhiệm Tưởng Uyển làm Đông tào duyện. Sau đó Tưởng Uyển lại được tiến cử chức Mậu tài (phụ trách tuyển dụng nhân tài), ban đầu ông muốn nhường cho người khác, nhưng Gia Cát Lượng khuyên rằng không nên vì sợ mất tình giao hảo mà từ bỏ việc cống hiến. Sau đó Tưởng Uyển được thăng làm Tham quân. Năm 227, Gia Cát Lượng lên Hán Trung chuẩn bị Bắc phạt đánh Ngụy, giao cho Tưởng Uyển và Trưởng sử Trương Duệ giải quyết công vụ ở phủ thừa tướng. Trương Duệ mất (năm 230), Tưởng Uyển thay Trương Duệ làm trưởng sử, được thăng hàm Phủ quân tướng quân.
Gia Cát Lượng xuất quân đánh Ngụy mấy lần, đều được Tưởng Uyển lo liệu rất chu đáo về hậu cần. Gia Cát Lượng đánh giá Tưởng Uyển rất cao: "Công Diễm trung thành, một lòng với công việc, cùng chung sức với ta gây dựng được vương nghiệp vậy." Trước khi mất, Gia Cát Lượng mật báo cho Hậu chủ Lưu Thiện rằng có thể giao phó đại sự cho Tưởng Uyển.
Tự mình chấp chính
Năm 234, Gia Cát Lượng bệnh mất trong quân ở gò Ngũ Trượng. Tưởng Uyển được thăng làm Thượng thư lệnh, sau kiêm cả Thứ sử Ích Châu, rồi làm Đại tướng quân, tước An Dương Đình Hầu, quản lý hết việc trong ngoài. Tưởng Uyển thay Gia Cát Lượng chấp chính, tỏ ra là đại thần có năng lực, thái độ cư xử luôn điềm tĩnh, vì vậy bá quan đều khâm phục.
Năm 238, Ngụy Minh đế Tào Duệ cử binh đánh Công Tôn Uyên ở Liêu Đông. Hậu chủ Lưu Thiện giáng chiếu lệnh cho Tưởng Uyển chuẩn bị binh mã ở Hán Trung, kết hợp với Đông Ngô chớp thời cơ đánh Ngụy. Năm sau Uyển được thăng làm Đại tư mã.
:Dịch Trung Thiên cho rằng mệnh lệnh của Lưu Thiện thật ra là ngầm khuyên Tưởng Uyển cẩn thận, không vội vã hành sự. Trong mệnh lệnh nói rằng liên kết với Đông Ngô, cả hai bên cùng tiến đánh, nhân cơ hội mà xuất binh, thực chất đấy là lời cảnh giới Tưởng Uyển, không nên khinh xuất, manh động, kẻo lại rơi vào vết xe đổ người đi trước, vất vả mà chẳng ăn thua gì.
Tưởng Uyển là người khoan dung và khiêm nhường. Đông tào duyện Dương Hí bản tính thuần phác, giao tiếp không khéo léo, khi Tưởng Uyển bắt chuyện thì Hí không đáp lời. Có người thấy vây cho rằng Hí vô lễ, Tưởng Uyển lại cho rằng đấy là đấy là Dương Hí không tán thành với ý của Tưởng Uyển, nhưng không muốn nói thẳng ra, nên chọn cách im lặng. Đốc nông Dương Mẫn (楊敏) chê trách Tưởng Uyển "Làm việc mơ hồ, không thể sánh với tiền nhân [Gia Cát Lượng]". Quan chấp pháp muốn trị tội Dương Mẫn, Tưởng Uyển ngăn lại, nói: "Ta thật không bằng tiền nhân, chẳng thể trách phạt người ta vậy." Sau Mẫn bị tội phải hạ ngục, Tưởng Uyển không chấp nhặt hiềm khích, miễn cho trọng tội.
Tưởng Uyển cho rằng trước kia Gia Cát Lượng đánh Ngụy theo đường núi Tần Lĩnh và Kỳ Sơn vốn hiểm trở, vận chuyển hậu cần khó khăn. Vì vậy ông thay đổi sách lược, đóng thuyền bè để đưa quân theo đường thủy từ Hán Thủy và Miện Thủy đánh sang phía đông, tập kích Ngụy Hưng và Thượng Dung. Tuy nhiên Tưởng Uyển bỗng lâm bệnh nặng, chưa thi hành ngay được, đồng thời nhiều người cũng phản đối, cho rằng đánh theo đường thủy nếu có thất lợi xảy ra thì rất khó rút quân về. Tưởng Uyển lại đề xuất phong Khương Duy làm thứ sử Lương Châu, rồi rút về đóng ở huyện Phù, yểm hộ cho Khương Duy nếu Duy xuất binh.
Năm 243, Tưởng Uyển lâm trọng bệnh và giao hầu như toàn bộ quyền hành lại cho Phí Y và Đổng Doãn. Năm 244, Ngụy quốc phụ chính đại thần Tào Sảng tấn công Hán Trung, Phí Y đích thân dẫn quân chống cự với Tào Sảng và khiến cho quân Ngụy hứng chịu thất bại (một phần do Tào Sảng đã không chuẩn bị hậu cần kỹ càng). Tuy nhiên, Tưởng Uyển vẫn còn duy trì sức ảnh hưởng cho đến lúc qua đời vào năm 246. Ông được truy phong thụy hiệu là "Cung" (nghĩa là "đáng kính").
Chức danh và chức vụ từng nắm giữ
Châu Thư Tá (州書佐)
Quảng Đô Trưởng (廣都長)
Thậm Phương Lệnh (什邡令)
Thượng thư Lang (尚書郎)
Thừa Tướng Phủ Đông Tào Duyện (丞相府東曹掾)
Mậu Tài (茂才)
Thượng thư Lệnh (尚書令)
Ích Châu Thứ Sử (益州刺史)
Đại tướng Quân (大將軍)
Lục Thượng thư Sự (錄尚書事)
An Dương Đình Hầu (安陽亭侯)
Đại Tư Mã (大司馬)
*Cung (恭) - được truy phong sau khi Tưởng Uyển mất
Gia đình
- Biểu đệ:
Lưu Mẫn (刘敏), quan đến Tả hộ quân, Dương uy Tướng quân, từng hiệp trợ Phí Y đẩy lùi Ngụy quân, phong Vân Đình hầu (云亭侯).
Phan Tuấn (潘濬), tự Thừa Minh (承明), trọng thần nước Ngô, quan đến Thái thường, phong Lưu Dương hầu (刘阳侯). Từng dẫn quân đại phá Ngũ Khê Man di.
- Đệ đệ: Tưởng Hiển (蒋显), quan đến Thái bộc.
- Con trai: Tưởng Bân (蒋斌), thừa tước phụ thân, quan đến Tuy vũ Tướng quân, Hán Thành hộ quân.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tưởng Uyển** (tiếng Hán: 蔣琬; Phiên âm: Jiang Wan) (???-246), tự **Công Diễm** (公琰), là đại thần nhà Thục Hán trong thời kỳ Tam Quốc. Sau khi Gia Cát Lượng qua đời, ông kế nhiệm
**Uyên ương** (danh pháp hai phần: **_Aix galericulata_**) là một loài vịt đậu cây kích thước trung bình, có quan hệ họ hàng gần gũi với vịt Carolina ở Bắc Mỹ. ## Đặc điểm và
**Tương Đàm** (tiếng Trung: 湘潭市 bính âm: Xiāngtán Shì, Hán-Việt: Tương Đàm thị) là một địa cấp thị ở trung tâm tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Tương Đàm là một phần của "Tam giác vàng
**Tương Hương** (chữ Hán giản thể: 湘乡市, bính âm: xiang xiang shì, âm Hán Việt: _Tương Hương thị_) là một thành phố cấp huyện thuộc địa cấp thị Tương Đàm tỉnh Hồ Nam Cộng hòa
**Thượng Quan Uyển Nhi** (Phồn thể: 上官婉兒; giản thể: 上官婉儿; 664 - 21 tháng 7, 710), còn gọi là **Thượng Quan Chiêu dung** (上官昭容), là một trong những nữ chính trị gia nổi tiếng của
**Trần Nguyễn Uyên Linh** (sinh ngày 31 tháng 12 năm 1987), thường được biết đến với nghệ danh **Uyên Linh**, là một nữ ca sĩ người Việt Nam. Cô là quán quân của cuộc thi
**Hầu Uyên** (, ? - ?), người Tiêm Sơn, Thần Vũ , tướng lĩnh nhà Bắc Ngụy. Do Bắc sử được soạn vào đời Đường, Lý Duyên Thọ phải kỵ húy Đường Cao Tổ Lý
Mùa thứ hai của chương trình **_Thần tượng đối thần tượng_** được phát sóng trên kênh VTV3 từ ngày 19 tháng 11 năm 2022 đến ngày 15 tháng 4 năm 2023. Phí Nguyễn Thùy Linh
**Uyên Cái Tô Văn** (Hangul: Yeon Gaesomun, 603–666), một số nguồn phiên nhầm thành **Cáp Tô Văn**, là quyền thần, nhà quân sự kiệt xuất của Cao Câu Ly, có công lãnh đạo quân dân
**Chu Văn Uyển** là một tướng lĩnh của phong trào Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. ## Hành trạng Chu Văn Uyển tham gia nghĩa quân Tây Sơn, ban đầu ông giữ chức Đô
**Uyên ương pháo** hay còn gọi là **Tây tạng quyền** (Trung quốc gọi là 鸳鸯炮) là một thế trận khai cuộc trong cờ tướng, trong khai cuộc này người chơi bố trí một quân Pháo
**Vũ Cát Tường** (sinh ngày 2 tháng 10 năm 1992) là một ca sĩ kiêm sáng tác nhạc và nhà sản xuất thu âm người Việt Nam. Tường được biết đến với khả năng kết
**Chi Uyên ương** (danh pháp khoa học: **_Aix_**) là một chi chỉ chứa hai loài vịt là vịt Carolina (_Aix sponsa_), và uyên ương (_Aix galericulata_). Chi này thuộc về họ Anatidae của Anseriformes. Chúng
nhỏ|hochkant=1.5|[[Rudolf Epp: Bavaria và Theresienwiese ở München (khoảng 1900)]] nhỏ|trái|hochkant=1.5|Bavaria với Ruhmeshalle **Bavaria** (Latinh hóa của chữ Bayern) là biểu tượng với hình dạng phụ nữ và là nữ thần hộ mệnh của Bayern, xuất
**Tưởng Bân** (; ? – 264), không rõ tên tự, là tướng lĩnh nhà Quý Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Tưởng Bân quê ở huyện Tương Hương, quận
**Tưởng Hân** (sinh ngày 8 tháng 5 năm 1983) là nữ diễn viên truyền hình người Trung Quốc được biết đến nhiều nhất với vai _Mộc Uyển Thanh _ trong _Thiên Long Bát Bộ năm
**Nguyễn Văn Khánh** (sinh ngày 19 tháng 9 năm 1959) là Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam và chính trị gia người Việt Nam. Ông hiện là Ủy viên Ủy ban Tư pháp
**Cờ tướng** còn gọi là **Cờ tướng Trung Quốc** (, Hán-Việt: Tượng kỳ, ) để phân biệt với cờ tướng Triều Tiên (janggi) và cờ tướng Nhật Bản (shogi), là một trò chơi board game
nhỏ|phải|Bánh xe Pháp luân **Biểu tượng Phật giáo** (_Buddhist symbolism_) là việc sử dụng các biểu tượng (_pratīka_) như một phương pháp thể hiện nghệ thuật nhằm trình bày các phương diện triết lý Phật
**Tưởng** (chữ Hán: 蔣, bính âm: _Jiǎng_) là một họ của người thuộc vùng Văn hóa Đông Á gồm Trung Quốc, Việt Nam và Triều Tiên (Hangul: 장; Hanja: 蔣; Romaja quốc ngữ: Jang). Họ
**Dương gia tướng** (tiếng Hán: 杨家将) là tiếng tôn xưng dòng họ Dương của danh tướng Dương Nghiệp (? - 986) thời Bắc Tống. Từ là Dương Nghiệp cho đến Dương Tái Hưng (1104 -
nhỏ|Thống kê Khai cuộc cờ tướng năm 2019 **Khai cuộc cờ tướng** là hình thức phát triển các quân trong Cờ tướng trong những nước đi đầu tiên, bố trí các quân cờ vào những
**Tưởng Hiển** (; ? – 264), không rõ tên tự, là quan viên nhà Quý Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Tưởng Hiển quê ở huyện Tương Hương, quận
**_Thần tượng đối thần tượng_** là một phiên bản khác của chương trình _Hòa âm Ánh sáng_ do Ban Văn nghệ, Đài Truyền hình Việt Nam phối hợp với Cát Tiên Sa sản xuất, được
**Tiêu Uyên Minh** (, ?-556), tên tự **Tĩnh Thông** (靖通) còn gọi là **Lương Mẫn Đế** (梁閔帝), là một hoàng đế có thời gian trị vì ngắn ngủi của triều đại Lương trong lịch sử
**Mộc Uyển Thanh** (chữ Hán: _木婉清_) là nhân vật nữ hư cấu trong tác phẩm "Thiên Long Bát Bộ" của nhà văn Kim Dung. Trong tiểu thuyết này, cô xuất hiện tại Hồi thứ 3:
**Uyển Dung** (chữ Hán: 婉容; 13 tháng 11, năm 1906 - 20 tháng 6, năm 1946), Quách Bố La thị, biểu tự **Mộ Hồng** (慕鸿), hiệu **Thực Liên** (植莲), là nguyên phối Hoàng hậu của
**Lưu Uyên** () (mất 310), tên tự **Nguyên Hải** (元海), được biết đến với thụy hiệu **Hán (Triệu) Quang Văn Đế** (漢(趙)光文帝) là vị hoàng đế khai quốc nhà Hán Triệu trong lịch sử Trung
**_Portrait_** là album phòng thu thứ ba của ca sĩ Uyên Linh, được phát hành vào ngày 16 tháng 11 năm 2017 bởi Công ty TNHH giải trí âm nhạc Đức Trí. Album được sản
**_Thần tượng âm nhạc: Vietnam Idol, mùa thứ 3_** là cuộc thi mới nhất của loạt chương trình truyền hình Thần tượng âm nhạc: Vietnam Idol. Công tác chuẩn bị được tiến hành với rất
**Công Tôn Uyên** (chữ Hán: 公孫淵; ?-238) tự **Văn Ý** (文懿), là quân phiệt cát cứ ở Liêu Đông thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Giành ngôi của chú Công Tôn Uyên
**Hạ Hầu Uyên** (chữ Hán: 夏侯淵: 164-219) tự **Diệu Tài** (妙才), là tướng quân phe Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là em họ của Hạ Hầu Đôn. ## Thời
nhỏ|phải|[[Akhal-Teke loài được cho rằng chính là Hãn huyết mã của Đại Uyển]] **Ngựa Đại Uyển** (tiếng Trung Quốc: 大宛馬/宛馬, Đại Uyển mã) hay **ngựa Fergana** là một giống ngựa ở vùng Trung Á tại
**Vũ Văn Uyên** (Chữ Hán: 武文淵) (1479 - 1557), tước **Khánh Dương Hầu**, là người khai quốc cho sự nghiệp của các Chúa Vũ cát cứ 172 năm, ông đóng góp rất nhiều công sức
**Chiến tranh Hán – Đại Uyên** hay còn được gọi là **Thiên Mã chi chiến** (chiến tranh vì ngựa trời) là một cuộc xung đột vũ trang diễn ra từ năm 104 đến năm 101
**Tân Uyên** là một thành phố cũ nằm ở phía đông tỉnh Bình Dương, Việt Nam. ## Địa lý Thành phố Tân Uyên nằm ở phía đông tỉnh Bình Dương, có sông Đồng Nai chảy
**Trâu Uyên** (chữ Hán: 鄒淵; bính âm: _Zōu Yuān_), ngoại hiệu **Xuất Lâm Long** (chữ Hán: 出林龍; tiếng Anh: Forest Emerging Dragon; tiếng Việt: _Rồng rời rừng_) là một nhân vật hư cấu trong tiểu
**Hán Chiêu Liệt Đế** (漢昭烈帝), hay **Hán Tiên chủ**, **Hán Liệt Tổ**, tên thật là **Lưu Bị** (, ; ; 161 – 10 tháng 6 năm 223), tự là **Huyền Đức,** là Hoàng đế khai
Mùa thứ 8 của chương trình _Thần tượng âm nhạc Việt Nam_ với tên gọi **_Thần tượng âm nhạc Việt Nam thế hệ mới_** được phát sóng từ ngày 8 tháng 7 đến ngày 21
**Thiền uyển tập anh** (chữ Hán: 禪苑集英), còn gọi là **Thiền uyển tập anh ngữ lục** (禪苑集英語錄), **Đại Nam thiền uyển truyền đăng tập lục** (大南禪宛傳燈集錄), **Đại Nam thiền uyển truyền đăng** (大南禪宛傳燈), **Thiền uyển
**Trận Uyển Thành (197)** (tiếng Trung: 宛城之战; Hán Việt: _Uyển Thành chi chiến_) là một cuộc binh biến diễn ra tại Uyển Thành thuộc Nam Dương vào cuối thời Đông Hán trong lịch sử Trung
Tượng con ngựa song mã uyên ương được làm bằng chất liệu gỗ hương đá tự nhiên 100 Kích thước cao 40208cm Tượng song ma uyên ương được làm và hoàn thiện do bàn tay
**Thẩm Uyên Tử** (chữ Hán: 沈渊子, 381 – 415), tên tự là **Kính Thâm**, người Vũ Khang, tướng lĩnh nhà Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Xuất thân Ông nội là Cảnh, xuất
**Uyển Trinh** (chữ Hán: 婉貞; 13 tháng 9 năm 1841 - 19 tháng 6 năm 1896), Na Lạp thị, còn được gọi là **Thuần Hiền Thân vương phi** (醇賢親王妃), Vương phi của Thuần Hiền Thân
**Lê Uyên Phương** là nghệ danh chung của đôi vợ chồng nhạc sĩ Lê Minh Lập (sinh ngày 2 tháng 2 năm 1941 – mất ngày 29 tháng 6 năm 1999) và ca sĩ Lê
- KT 385x322x15 mm - Đóng gói Bộnhãnmàng co,10 bộthùng - Thành phần Gỗ tràmGỗ cao su Uyên ương là biểu tượng đẹp của tình nghĩa vợ chồng, là hiện thân của tình yêu trong
**Đổng Tiểu Uyển** (; 1623 - 1651), tên là **Bạch** (白), biểu tự **Tiểu Uyển**, hiệu **Thanh Liên nữ sử** (青蓮女史), là một kỹ nữ tài hoa sống vào cuối đời nhà Minh, đầu đời
**Hồ Uyên** (chữ Hán: 胡渊, 247 – 301), tự **Thế Nguyên**, tiểu tự **Diêu Si**, người huyện Lâm Kính, quận An Định , tướng lãnh nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc, nhà Tây Tấn, ủng
**Gia Cát Lượng** (; 181 – 234), biểu tự **Khổng Minh** (孔明), hiệu **Ngọa Long** (臥龍), là Thừa tướng, công thần khai quốc, nhà chính trị, nhà ngoại giao, chỉ huy quân sự, nhà giáo
**Tưởng Tế** (chữ Hán: 蒋济, ? – 249), tên tự là **Tử Thông**, người huyện Bình An, nước Sở, Dương châu , quan viên nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.