nhỏ|phải|[[Akhal-Teke loài được cho rằng chính là Hãn huyết mã của Đại Uyển]]
Ngựa Đại Uyển (tiếng Trung Quốc: 大宛馬/宛馬, Đại Uyển mã) hay ngựa Fergana là một giống ngựa ở vùng Trung Á tại vùng Đại Uyển (Ferghana) và được lưu truyền trong sử sách của Trung Quốc gắn với cuộc chiến Thiên Mã mà giống ngựa này là nguyên cớ của cuộc chiến, theo đó, Vùng Đại Uyên thời cổ nổi tiếng với nhiều giống ngựa tốt trong đó có giống ngựa đen mõm trắng có một vệt trắng dọc giữa khuôn mặt và chân chấm trắng (ô vân đạp tuyết) rất được các vị vua của nhà Hán ham thích, giống ngựa này cũng được ca tụng ở Việt Nam thời phong kiến và được gọi là Thiên Mã.
Huyền thoại
nhỏ|256x256px|Đỉnh trang trí bằng đồng mạ vàng nghi lễ, Ngựa Fergana, có niên đại từ thế kỷ 4-1 TCN: Một biểu tượng hình chữ V của tốc độ và chiến thắng.
Giống ngựa xứ Đại Uyển sống trên các đỉnh và sườn núi cheo leo, gọi là Thiên mã (ngựa trời), người ta không thể bắt được mà chỉ có thể dụ cho lai giống để nuôi ngựa con mà dùng, loài ngựa con ấy người Trung Hoa gọi là thiên mã tử (天馬子) hoặc giống ngựa mồ hôi đỏ như máu, dai sức và khỏe tuyệt trần, mà người Trung Hoa gọi là Hãn huyết thần câu hay Hãn huyết mã (chữ Hán: 汗血馬). Loại ngựa này có liên quan với ngựa Akhal-Teke ở Trung Á.
Lịch sử
Vùng Đại Uyển thời cổ nổi tiếng với nhiều giống ngựa tốt, trong đó có giống ngựa đen mõm trắng có một vệt trắng dọc giữa khuôn mặt và chân chấm trắng. Theo Sử ký Tư Mã Thiên, quyển 123, Liệt truyện 63 - Đại Uyển liệt truyện, thì niên hiệu Kiến Nguyên đời Hán Vũ đế (140-87 tr. CN), Trương Khiên đương làm quan lang được cử đi sứ Tây vực, qua các nước Nhục Chi, Hung Nô thì nghe ngóng dò xét biết được về phía tây-nam nước Hung Nô, có nước Đại Uyển, cách đất Hán ước chừng một vạn dặm, nằm trên đường qua Đại Nhục Chi, nhận thấy ở nước Đại Uyển (Fergana, phía nam Sogoliané) có một giống ngựa rất hung hăng, gọi là hãn huyết mã (ngựa mà mồ hôi đỏ như máu).
Hán Vũ đế nghe nói nước Đại Uyển có giống ngựa tốt gọi là Hãn Huyết mã, sai sứ đi hỏi mua. Nhưng quốc vương Vô Quả cậy mình ở nơi xa xôi, tỏ ra ngạo mạn, còn sứ giả Xa Lệnh cậy mình đến từ nước lớn, nhân căm tức mà có hành vi vô lễ. Xa Lệnh bị giết, tài vật đều bị cướp sạch. Võ đế bị nhục, phái ngay 30 vạn quân do Lý Quảng Lợi tấn công Đại Uyển, ba năm chiến đấu mới tới được kinh đô của Đại Uyển. Năm Thái Sơ đầu tiên (104 TCN), Hán Vũ đế phong Lý Quảng Lợi làm Nhị Sư tướng quân, soái 6000 kỵ binh, mấy vạn bộ binh tấn công vương đô Nhị Sư của nước Đại Uyển, hòng giành lấy ngựa Hãn Huyết (cuộc chiến Thiên Mã). Lý Quảng Lợi chọn lấy mấy chục thớt ngựa thượng đẳng, hơn 3000 thớt ngựa trung đẳng, lập 1 người có quá khứ thân cận với nhà Hán là Muội Thái Vi làm quốc vương, rồi khải hoàn ban sư.
nhỏ|phải|Tượng ngựa Đại Uyển thời Đường, đầu thế kỷ thứ 8
Điêu khắc một trong những con ngựa của Hoàng đế [[Đường Thái Tông tại Lăng tẩm hoàng gia Minh-Thanh, khoảng năm 650]]
Nhu cầu dùng kỵ binh đã khiến triều đình Trung Hoa phải mua rất nhiều ngựa từ nước ngoài vì luôn luôn phải đối phó với những giống rợ miền bắc mà ngựa bản địa của người Trung Quốc thì kém xa ngựa của kẻ thù. Vua Hán Võ Đế lại sai người đi tìm mua các giống thiên mã (heavenly horses) và năm 138 trước CN đã sai Trương Kiềm công du, đem về nhiều tin tức thu thập được trong chuyến viễn hành đặc biệt là về giống "hãn huyết mã" (blood-sweating horses) của vùng Ferghana ở Trung Á (nay thuộc về Uzbekistan, Tajikistan, và Kyrgyzstan). Giống ngựa này bị một loại ký sinh có tên là Parofiliaria multipupillosa khiến cho khi chạy nhanh mồ hôi toát ra có trộn lẫn máu. Theo mô tả, giống ngựa này chính là tổ tiên của giống Turanian và Akhal-Teke ngày nay.
So sánh với những giống ngựa mà Trung Hoa có thời kỳ đó, giống ngựa Đại Uyển (Ferghana) cao to hơn nhiều. Chính vì thế, một mặt Võ Đế muốn có những ngựa tốt dùng trong quân đội, mặt khác lại đi tìm thiên mã, thần mã mong được cưỡi lên núi Côn Lôn. Ông sai đại tướng Lý Quảng Lợi đem 6000 kỵ binh, 20.000 lính sang cướp ngựa. Tuy nhiên chiến dịch này không thành công và tướng sĩ nhà Hán chết gần hết. Ba năm sau, ông lại sai Lý Quảng Lợi đem 60.000 quân với 30.000 con ngựa, dẫn theo một đoàn gia súc 100.000 con để làm thực phẩm. Lần này họ Lý đem về được 50 con hãn huyết mã và khoảng 1000 con ngựa giống. Cũng trong chiến dịch đánh Ferghana, Trương Kiềm đã đi qua nước Ô Tôn (Wusun) là nơi cũng có nhiều ngựa tốt, lai giữa giống ngựa Ferghana với ngựa Mông Cổ.
Ở Việt Nam, trong tàu ngựa của vua Minh Mạng lại có con Thiên Mã thuộc giống ngựa Trung Đông thuần chủng Ả Rập, theo tích cũ con Thiên Mã là con ngựa từ nước Tây Vực (Apganistan hiện nay) được nhập vào trong tàu ngựa của Hoàng đế năm 1830, con Thiên Mã thuộc giống ngựa Trung Đông thuần chủng Ả Rập. Vua Minh Mạng đã ban du phong chức cho con Thiên Mã như sau: "Ta đã sai dong yên ngồi cưỡi, chạy nhanh như chớp gió, thật vượt mức trong các loài ngựa có bốn nước đại và ba đợt nhảy cao, lại cao siêu hơn loài ngựa có chín đức tính tốt và tám thứ ngựa giỏi, nên ban cho tên đẹp để tỏ cái đức con ngựa quý, nay gọi trên là Đại Uyển Long Tuấn". Tuy nhiên chiến mã cũng như tướng quân, nơi lập công, thể hiện tài năng là chiến trận. Dù tài giỏi đến mấy nhưng chỉ để phục vụ thú vui của một người dù là một ông vua thì cũng phí hoài. Con Thiên Mã dù được phong quan tiến chức thì cũng là một thứ đồ chơi hoài phí
Thơ Đỗ Phủ
Sau này, Đỗ Phủ có bài thơ: Phòng binh Tào Hồ mã (Ngựa Hồ của ông Tào binh Phòng) có mô tả về giống ngựa này
: Hồ mã Đại Uyển danh
: Phong lăng sấu cốt thành
: Trúc phê song nhĩ tuấn
: Phong nhập tứ đề khinh
: Sở hướng vô không khoát
: Chân kham thác tử sinh
: Kiêu đằng hữu như thử
: Vạn lý khả hoành hành
Có nghĩa là:
: Con ngựa Hồ nổi tiếng là giống Đại Uyển
: Xương gầy gò như làm bằng cạnh cây mác
: Hai tai dựng đứng như lá tre
: Bốn vó nhẹ nhàng như hơi gió
: Hướng tới vùng cao rộng mênh mông
: Thực sẵn sàng phó mặc cho sống chết
: Có chạy vùn vụt như thế
: Thì mới tha hồ vùng vẫy muôn dặm
Lý giải
Loài ngựa này được cho là loài Hãn huyết bảo mã (ngựa ra mồ hôi đỏ như máu) trong truyền thuyết cũng như tiểu thuyết Anh hùng xạ điêu của Kim Dung, bắt đầu bằng việc một chuyên gia người Nhật Bản thông báo phát hiện ra những con ngựa có mồ hôi máu gần núi Thiên Sơn, Tân Cương, Trung Quốc đã gây ra sự xôn xao dư luận. Nhiều ý kiến cho rằng những con ngựa có mồ hôi máu thực chất mắc một loại bệnh hiếm gặp do các ký sinh trùng Parafilaria multipapillosa gây ra trên những cá thể ngựa, và không phổ biến trên bất cứ loài nào khác và hiện có khoảng 3.000 con ngựa mắc bệnh tương tự đang sống ở Turkmenistan, Nga, Kazakhstan và Uzbekistan.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|phải|[[Akhal-Teke loài được cho rằng chính là Hãn huyết mã của Đại Uyển]] **Ngựa Đại Uyển** (tiếng Trung Quốc: 大宛馬/宛馬, Đại Uyển mã) hay **ngựa Fergana** là một giống ngựa ở vùng Trung Á tại
**Chiến tranh Hán – Đại Uyên** hay còn được gọi là **Thiên Mã chi chiến** (chiến tranh vì ngựa trời) là một cuộc xung đột vũ trang diễn ra từ năm 104 đến năm 101
**Đại Uyên** (tại [[Ferghana) là một trong ba dân tộc tiên tiến của Trung Á vào khoảng 130 TCN, cùng với dân tộc Parthi và Hy-Đại Hạ, theo cuốn sử Trung Quốc _Hán thư_.]] **Đại
nhỏ|phải|Một giống ngựa Mỹ, [[Ngựa Quarter]] nhỏ|phải|Một con ngựa giống Yonaguniuma từ [[Yonaguni (đảo)|đảo Yonaguni của Nhật Bản]] **Giống ngựa** là những giống vật nuôi khác nhau của loài ngựa được chọn giống, lai tạo
**Hình tượng con ngựa trong nghệ thuật** là hình ảnh của con ngựa trong nghệ thuật, ngựa là chủ đề khá quen thuộc trong văn học, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, chúng
nhỏ|phải|Một [[chiến binh Mông Cổ trên lưng ngựa, ngựa Mông Cổ là biểu tượng cho những con ngựa chiến ở vùng Đông Á trong thời Trung Cổ]] nhỏ|phải|Một kỵ xạ Nhật Bản đang phi nước
nhỏ|phải|Một con hãn huyết bảo mã **Ngựa Akhal-Teke** (tiếng Turkmen: _Ahalteke_) là một giống ngựa có nguồn gốc từ Turkmenistan nơi chúng được tôn vinh làm biểu tượng quốc gia, một trong những giống ngựa
**Ngựa Hà Khúc** là một giống ngựa có nguồn gốc từ cao nguyên Tây Tạng (gốc tích chúng phát xuất từ phía Tây Bắc). Dấu tích tổ tiên xa xưa của giống ngựa này được
**Ngựa Nisaia** hay **ngựa Nisa** là giống ngựa có nguồn gốc từ vùng cao nguyên Nisean (phụ cận núi Zagros), thuộc Iran ngày nay. Chúng là giống ngựa được biết đến qua các ghi chép
nhỏ|phải|Một con ngựa đang gặm cỏ **Cơ thể học của loài ngựa** (tiếng Anh: _Equine anatomy_) là ngành giải phẫu đại thể và vi thể ở ngựa và các loài thuộc họ Ngựa khác, bao
**Đại tạng kinh** (, _Dàzàngjīng_; , _Daejanggyeong_; , _Daizōkyō_), còn được gọi tắt là **Tạng kinh** (藏經) hay **Nhất thiết kinh** (一切經), là danh xưng dùng để chỉ các tổng tập Kinh điển Phật giáo
**Ngựa Tennessee** hoặc **ngựa bách bộ Tennessee** là một giống ngựa thể thao dáng đẹp được biết đến với lối đi bộ bốn nhịp độc đáo và chuyển động có dáng vẻ uyển chuyển điệu
nhỏ|phải|Đầu của một con Haflinger, con ngựa này đang nhẹ nhàng gặm cỏ **Ngựa Haflinger** còn được gọi là **ngựa Avelignese** là một giống ngựa được ra đời và phát triển tại Áo và miền
**Ngựa Paso Fino** là một giống ngựa hạng nhẹ có dáng di chuyển tự nhiên và có niên đại từ ngựa nhập khẩu vào vùng biển Caribbe từ Tây Ban Nha. Ngựa Paso được đánh
**Mộc Uyển Thanh** (chữ Hán: _木婉清_) là nhân vật nữ hư cấu trong tác phẩm "Thiên Long Bát Bộ" của nhà văn Kim Dung. Trong tiểu thuyết này, cô xuất hiện tại Hồi thứ 3:
**Uyển Dung** (chữ Hán: 婉容; 13 tháng 11, năm 1906 - 20 tháng 6, năm 1946), Quách Bố La thị, biểu tự **Mộ Hồng** (慕鸿), hiệu **Thực Liên** (植莲), là nguyên phối Hoàng hậu của
**Hầu Uyên** (, ? - ?), người Tiêm Sơn, Thần Vũ , tướng lĩnh nhà Bắc Ngụy. Do Bắc sử được soạn vào đời Đường, Lý Duyên Thọ phải kỵ húy Đường Cao Tổ Lý
Sự di cư của người Nguyệt Chi qua vùng Trung Á, từ khoảng năm [[176 TCN đến năm 30]] **Nguyệt Chi** (tiếng Trung:月氏, hoặc 月支) hay **Đại Nguyệt Chi** (tiếng Trung:大月氏, hoặc 大月支), là tên
**Dương Đại Nhãn** (chữ Hán: 杨大眼; ? - ?), là người dân tộc Đê (chữ Hán: 氐), danh tướng nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế ###
**Trâu Uyên** (chữ Hán: 鄒淵; bính âm: _Zōu Yuān_), ngoại hiệu **Xuất Lâm Long** (chữ Hán: 出林龍; tiếng Anh: Forest Emerging Dragon; tiếng Việt: _Rồng rời rừng_) là một nhân vật hư cấu trong tiểu
**Nhà Hán** là hoàng triều thứ hai trong lịch sử Trung Quốc, do thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Lưu Bang thành lập và được cai trị bởi gia tộc họ Lưu. Tiếp nối nhà
nhỏ|318x318px|Hành chính Việt Nam thời Lê Sơ **Hành chính Đại Việt thời Lê sơ**, đặc biệt là sau những cải cách của Lê Thánh Tông, hoàn chỉnh hơn so với thời Lý và thời Trần,
**Du Đại Du** (chữ Hán: 俞大猷, 1503 – 1580), tự **Chí Phụ**, tự khác **Tốn Nghiêu**, hiệu **Hư Giang**, hộ tịch là huyện Tấn Giang, phủ Tuyền Châu, Phúc Kiến, nguyên tịch là huyện Hoắc
**Việc thuần hóa động vật** là mối quan hệ, tương tác lẫn nhau giữa động vật với con người có ảnh hưởng đến sự chăm sóc và sinh sản của chúng. Thuần hóa động vật
**Người Ấn-Scythia** là một thuật ngữ được sử dụng để chỉ người Saka (hoặc Scythia), những người đã di cư vào Bactria, Sogdiana, Arachosia, Gandhara, Kashmir, Punjab, Gujarat, Maharashtra và Rajasthan, từ giữa thế kỷ
[ Tặng Lược] COMBO 2 Gôm Xịt Tóc Luxu + The Pro Lock + Sáp Vuốt Tóc Bluman Ngựa VằnSáp vuốt tóc nam BluMaan Cavalier heavy Clay ( 70gChất sáp khá nặng nên chỉ dành
Nền kinh tế nhà Hán (206 TCN - 220 CN) đã trải qua các thời kỳ thịnh suy thuận theo các thăng trầm trong dòng lịch sử của Trung Hoa cổ đại. Thời kỳ nhà
**Miếu Đại Trung** nằm phía tây Bắc làng Guột (Dũng Quyết), xã Việt Hùng, thị xã Quế Võ tỉnh Bắc Ninh Theo tư liệu thì miếu do Quế Quận Công Nguyễn Đức Uyên vâng lời
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
**Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du** là quần thể những di tích liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp của Đại thi hào và dòng họ Nguyễn Tiên Điền. Các điểm di tích
**Lịch đại Đế Vương miếu** (chữ Hán phồn thể: 厯代帝王廟; chữ Hán giản thể: 历代帝王庙, bính âm Hán ngữ: _Lìdài Dì Wáng miào_), còn gọi là **Miếu Lịch đại Đế Vương Trung Quốc** hay **Đế
**Niên biểu Nội Các đại thần nhà Minh** bao gồm tất cả thành viên Nội Các nhà Minh bắt đầu từ năm Hồng Vũ thứ 35 (1402) kéo dài đến năm Sùng Trinh thứ 17
**Bảo quốc An dân Đại tướng quân** là bộ 3 khẩu thần công thời nhà Nguyễn được đúc năm Minh Mạng thứ hai (1821). Tháng 8 năm 2003, bộ súng này được phát hiện bởi
Đầu uyên ương bằng đất nung trang trí cung điện thời Trần **Nghệ thuật Đại Việt thời Trần** phản ánh các loại hình nghệ thuật của nước Đại Việt thời nhà Trần, chủ yếu trên
**Tân Cương** (; ; bính âm bưu chính: **Sinkiang**), tên chính thức là **Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương**, là một khu vực tự trị tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm
**Nhà Tấn** (, ; 266–420 theo dương lịch), là một trong Lục triều trong lịch sử, sau thời Tam Quốc và trước thời Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Triều đại này do Tư Mã
**Nhà Đường** là một hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 618 đến năm 907. Thành lập bởi gia tộc họ Lý, nhà Đường là triều đại kế tục nhà Tùy (581–618) và là
**Hung Nô** () là các bộ lạc du cư ở khu vực Trung Á, nói chung sinh sống ở khu vực thuộc Mông Cổ ngày nay. Từ thế kỷ III TCN họ đã kiểm soát
**Nhà Liêu** hay **Liêu triều** ( 907/916-1125), còn gọi là nước **Khiết Đan** (契丹國, đại tự Khiết Đan: Tập tin:契丹國.png) là một triều đại phong kiến do người Khiết Đan kiến lập trong lịch sử
**Lý Quảng Lợi** (phồn thể: 李廣利, giản thể: 李广利, ? - 88 TCN) người Trung Sơn , ngoại thích, tướng lĩnh nhà Tây Hán. ## Cuộc đời ### Viễn chinh Đại Uyển, lao sư động
**Tam Quốc** (giai đoạn 220–280, theo nghĩa rộng từ 184/190/208–280) là một thời kỳ phân liệt trong lịch sử Trung Quốc khi ba quốc gia Tào Ngụy, Thục Hán, và Đông Ngô cùng tồn tại,
**Sở Chiêu vương** (chữ Hán: 楚昭王, bính âm: Chŭ Zhāo Wáng, 526 TCN - 489 TCN), thị **Hùng** (熊) tính **Mị** (芈), tên **Trân** (轸), là vị quốc vương thứ 13 của nước Sở -
nhỏ|Tượng Trương Khiên tại [[Bảo tàng lịch sử Thiểm Tây, Tây An]] **Trương Khiên** (164?—114 TCN), tự **Tử Văn**, người Thành Cố, Hán Trung , nhà lữ hành, nhà ngoại giao, nhà thám hiểm kiệt
**Siddhartha Gautama** (tiếng Phạn: सिद्धार्थ गौतम, Hán-Việt: Tất-đạt-đa Cồ-đàm) hay **Gautama Buddha**, còn được gọi là **Shakyamuni** (tiếng Phạn: शाक्यमुनि, Hán-Việt: Thích-ca Mâu-ni) là một nhà tu hành và nhà truyền giáo, người sáng lập
nhỏ|Lăng mộ năm 1342 của [[Katarina Vilioni, thành viên của một gia đình thương gia người Ý ở Dương Châu]] Dựa trên bằng chứng văn bản và khảo cổ học, người ta tin rằng hàng
**Nam Bắc triều** (, 420-589) là một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ năm 420 khi Lưu Dụ soán Đông Tấn mà lập nên Lưu Tống, kéo dài đến năm 589
**Văn học Việt Nam thời Tiền Lê** được nhiều nhà nghiên cứu xem là giai đoạn sơ khởi của nền văn học viết Việt Nam (để phân biệt với văn học dân gian, văn học
**Hình tượng con hổ** hay **Chúa sơn lâm** đã xuất hiện từ lâu đời và gắn bó với lịch sử của loài người. Trong nhiều nền văn hóa khác nhau thế giới, hình ảnh con
**Chiến tranh Thục – Ngụy** **(247–262)**, hay còn biết đến với tên gọi **Cửu phạt Trung Nguyên**, là một loạt các chiến dịch quân sự có quy mô vừa và nhỏ diễn ra chủ yếu
**Nhà Tùy** (, 581-619) là một triều đại trong lịch sử Trung Quốc, kế thừa Nam-Bắc triều, theo sau nó là triều Đường. Năm 581, Tùy Văn Đế Dương Kiên thụ thiện từ Bắc Chu