✨Nguyệt Chi

Nguyệt Chi

Sự di cư của người Nguyệt Chi qua vùng Trung Á, từ khoảng năm [[176 TCN đến năm 30]] Nguyệt Chi (tiếng Trung:月氏, hoặc 月支) hay Đại Nguyệt Chi (tiếng Trung:大月氏, hoặc 大月支), là tên gọi trong tiếng Trung để chỉ những người Trung Á cổ đại. Người ta cho rằng họ chính là (hoặc có quan hệ họ hàng gần gũi với) người Tochari (Τοχάριοι-Thổ Hỏa La) theo cách gọi của người Hy Lạp cổ. Ban đầu họ định cư trong các vùng đồng cỏ khô cằn thuộc miền đông khu vực lòng chảo Tarim, ngày này có lẽ thuộc Tân Cương, Cam Túc và có thể là cả Kỳ Liên Sơn ở Trung Quốc, trước khi họ di cư tới Transoxiana, Bactria (Đại Hạ) và sau đó là miền bắc Ấn Độ, là nơi mà họ lập ra Vương triều Quý Sương.

Người ta cho rằng trong tên gọi "Nguyệt Chi" thì chữ nguyệt 月, có nghĩa là "Mặt Trăng", có nguồn gốc từ nhục 肉, có nghĩa là "thịt". Trên thực tế, chữ nguyệt là tương tự như bề ngoài của dạng cơ bản của chữ nhục. "Nhục Chi" 肉([http://www.unicode.org/cgi-bin/GetUnihanData.pl?codepoint=2EBC ⺼])氏 có lẽ có nghĩa văn chương là "bộ lạc ăn thịt", nghĩa là những người ăn thịt.

Nguồn gốc

Những ghi chép đầu tiên về người Nguyệt Chi có từ năm 645 TCN trong Quản tử (管子) của tác giả Trung Quốc Quản Trọng. Ông miêu tả người Ngu Chi (禺氏,) hay Ngưu Chi (牛氏,) là những người từ miền tây bắc đã cung cấp ngọc bích cho người Hán từ những dãy núi gần đó của nước Ngu Chi 禺氏 tại Cam Túc. Việc cung cấp ngọc bích từ lòng chảo Tarim trong thời cổ đại đã dược chứng minh khá rõ ràng bằng các tài liệu khảo cổ học: "Một điều rất rõ ràng là các vị vua Trung Quốc cổ đại rất thích ngọc bích. Tất cả các đồ bằng ngọc bích khai quật được tại khu lăng mộ của Phụ Hảo nhà Thương, chứa trên 750 miếng, tất cả đều từ Vu Điền (nay là Hòa Điền hay Khotan) thuộc Tân Cương ngày nay. Từ rất sớm, khoảng giữa thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên thì người Nguyệt Chi đã tham gia vào việc buôn bán ngọc bích, trong đó những người tiêu dùng chủ yếu là các vị vua của nước Trung Hoa nông nghiệp".

Người Nguyệt Chi cũng được đề cập chi tiết trong các sử sách Trung Hoa, cụ thể là trong "Sử Ký" (thế kỷ 2-1 TCN) của Tư Mã Thiên. Theo các tài liệu này, "người Nguyệt Chi ban đầu sống trong khu vực giữa Kỳ Liên Sơn (hoặc Thiên Sơn) và Đôn Hoàng" (Sử Ký, 123), tương ứng với nửa phía đông của lòng chảo Tarim và phần phía bắc của Cam Túc.

Người Nguyệt Chi có thể là những người thuộc đại chủng Kavkaz, như được chỉ ra bởi các chân dung của các vị vua trên các đồng tiền họ đã đúc ra sau khi di cư tới Transoxiana (thế kỷ 2-thế kỷ 1 TCN), và đặc biệt là các đồng tiền họ đúc tại Ấn Độ khi cai trị vương triều Quý Sương (thế kỷ 1-thế kỷ 3). Tuy nhiên, không có các ghi chép trực tiếp nào về tên gọi của các vị vua Nguyệt Chi, và các chân dung trên những đồng tiền đầu tiên của họ có thể không chính xác.

Các nguồn tư liệu của người Trung Hoa cổ đại đã miêu tả sự tồn tại của "người da trắng với tóc dài" (Người Bạch trong Sơn Hải Kinh) bên ngoài biên giới phía tây bắc của họ, và các xác ướp Tarim được bảo quản khá tốt với các đặc trưng của người Kavkaz, thường với tóc hung vàng hoặc nâu đỏ, hiện nay được trưng bày tại viện bảo tàng Ürümqi (Ô Lỗ Mộc Tề) và có niên đại khoảng thế kỷ 3 TCN, đã được tìm thấy trong cùng một khu vực của lòng chảo Tarim.

Các ngôn ngữ Tochari Ấn-Âu cũng đã được chứng thực trong cùng một khu vực địa lý. Mặc dù chứng cứ chữ khắc đầu tiên hiện đã biết chỉ có niên đại vào khoảng thế kỷ 6, nhưng mức độ phân hóa giữa tiếng Tochari A và Tochari B cũng như sự thiếu vắng các dấu tích của tiếng Tochari bên ngoài khu vực này đều có xu hướng chỉ ra rằng tiếng Tochari chung đã từng tồn tại trong cùng khu vực định cư của người Nguyệt Chi trong nửa sau của thiên niên kỷ 1 TCN.

Theo một giả thuyết, người Nguyệt Chi có lẽ là một phần của nhóm lớn những người di cư nói các thứ tiếng thuộc hệ ngôn ngữ Ấn-Âu, đã từng định cư ở miền đông khu vực Trung Á (có thể xa tới tận Cam Túc) vào thời gian đó. Một ví dụ khác là các xác ướp của người Kavkaz tại Pazyryk, có lẽ có nguồn gốc là người Scythia, nằm cách khu vực của người Nguyệt Chi khoảng 1.500 km về phía tây bắc và có niên đại khoảng thế kỷ 3 TCN.

Theo các tài liệu thời nhà Hán, người Nguyệt Chi "đã rất phồn thịnh" trong thời gian trị vì của vị hoàng đế đầu tiên của nhà Tần, nhưng họ thường xuyên có mâu thuẫn với bộ lạc láng giềng là người Hung Nô ở phía đông bắc.

Di cư của người Nguyệt Chi

Người Nguyệt Chi đôi khi cũng thực hiện việc trao đổi con tin với người Hung Nô, và từng có thời cầm giữ Mặc Đốn (冒頓), con trai của vị thủ lĩnh Hung Nô. Mặc Đốn đã lấy trộm một con ngựa và bỏ trốn khi người Nguyệt Chi định giết ông để trả đũa cho cuộc tấn công của cha ông này. Mặc Đốn sau này trở thành vua Hung Nô sau khi giết cha mình.

Vào khoảng năm 177 TCN, được một thủ lĩnh một bộ lạc của Mặc Đốn chỉ huy thì người Hung Nô đã đánh vào lãnh thổ của người Nguyệt Chi tại khu vực Cam Túc và đã giành được một thắng lợi quan trọng. Mặc Đốn khoe khoang trong một bức thư gửi cho hoàng đế nhà Hán rằng, do "sự tuyệt vời của các chiến binh, và sức mạnh của bầy ngựa của mình, ông đã giành thắng lợi trong việc tiêu diệt người Nguyệt Chi, tàn sát hoặc ép phục tùng toàn bộ bộ lạc này". Con trai của Mặc Đốn, Kê Chúc, sau đó đã sát hại vua của người Nguyệt Chi và theo truyền thống của những bộ lạc du cư, "đã làm chiếc cốc uống từ đầu lâu ông này".

Theo các sử liệu Trung Quốc, một phần lớn người Nguyệt Chi vì thế đã nằm dưới sự thống trị của người Hung Nô, và họ có thể là tổ tiên của những người nói tiếng Tochari đã được chứng thực vào thế kỷ 6. Một nhóm rất nhỏ người Nguyệt Chi chạy về phía nam tới lãnh thổ của người Khương, và được người Trung Quốc biết đến như là "Tiểu Nguyệt Chi". Theo Hán thư, họ chỉ có khoảng 150 gia đình.

Một người Scythia cưỡi ngựa trong khu vực bị người Nguyệt Chi xâm chiếm, [[Pazyryk, khoảng năm 300 TCN]] Cuối cùng, một nhóm lớn người Nguyệt Chi đã chạy khỏi khu vực lòng chảo Tarim/ Cam Túc về phía tây bắc, đầu tiên định cư tại thung lũng Sông Y Lê, ngay phía bắc dãy núi Thiên Sơn, tại đó họ phải đương đầu và đánh bại người Sai (Sakas hay người Scythia): "Người Nguyệt Chi tấn công vua của người Sai, người đã di chuyển một khoảng cách đáng kể về phía nam và người Nguyệt Chi sau đó đã chiếm đất của ông ta" (Hán Thư 61 4B). Người Sai cũng phải di cư, và họ đã tới Kashmir, sau khi vượt qua "chỗ vượt lơ lửng" (có lẽ là đèo Khunjerab giữa Tân Cương và miền bắc Pakistan ngày nay). Người Sakas cuối cùng đã thành lập ra vương quốc Ấn Độ-Scythia ở miền bắc Ấn Độ ngày nay.

Sau năm 155 TCN, người Ô Tôn, liên kết với người Hung Nô và để trả thù cho các mâu thuẫn trước đây, đã xua đuổi người Nguyệt Chi và ép họ phải chạy về phía nam. Người Nguyệt Chi đã vượt qua khu vực văn minh đô thị láng giềng là Đại Uyên tại Ferghana, và định cư trên bờ phía bắc của sông Oxus, trong khu vực của Transoxiana, ngày nay thuộc Tajikistan và Uzbekistan, chỉ ngay phía bắc của Vương quốc Hy Lạp-Bactria. Thành phố Alexandria trên sông Oxus của người Hy Lạp dường như đã bị người Nguyệt Chi đốt cháy hoàn toàn vào khoảng năm 145 TCN.

Định cư tại Transoxiana

Phái bộ Trung Quốc của [[Trương Khiên đến chỗ người Nguyệt Chi vào năm 126 TCN, động Mộ Cao, bích họa khoảng những năm 618-712]] Một phái bộ Trung Quốc, do Trương Khiên chỉ huy đã đến nơi ở của người Nguyệt Chi vào năm 126 TCN, với mục đích tìm kiếm một liên minh với người Nguyệt Chi để chống lại mối đe dọa từ người Hung Nô ở phía bắc. Mặc dù đề nghị lập liên minh đã bị con trai của vị vua Nguyệt Chi (bị giết trước kia) từ chối, ông này mong muốn duy trì hòa bình tại Transoxiana hơn là trả thù, nhưng Trương Khiên đã lập được bản báo cáo chi tiết (được ghi nhận trong Sử Ký), tạo điều kiện cho người ta hiểu rõ hơn tình hình ở Trung Á vào thời gian đó.

Trương Khiên, người đã lưu lại Nguyệt Chi và Đại Hạ trong một năm, thuật lại rằng "Đại Nguyệt Chi sống cách Đại Uyên (Fergana) khoảng 2.000 hoặc 3.000 (1.000-1.500 km) về phía tây, về phía bắc của sông Gui (Oxus). Họ có biên giới phía nam với Đại Hạ (Bactria), về phía tây với An Tức (Parthia), và về phía bắc với Khang Cư (Hazrat-e Turkestan - thuộc trung Jaxartes). Họ là các bộ lạc du cư, đi từ nơi này tới nơi khác thành đoàn, và tập quán của họ là tương tự như của người Hung Nô. Họ có khoảng 100.000 hay 200.000 cung thủ".

Mặc dù họ vẫn luôn ở phía bắc sông Oxus, nhưng dường như họ đã có được sự phục tùng từ phía Vương quốc Hy Lạp-Bactria ở phía nam sông Oxus. Người Nguyệt Chi tổ chức thành 5 bộ lạc chính, mỗi bộ lạc do một yabgu đứng đầu, và được người Trung Quốc gọi là Hưu Mật (休密) ở Tây Wakhān và Zibak, Quý Sương (貴霜) ở Badakhshan và các lãnh thổ cận kề ven sông Oxus, Song Mĩ (雙靡) trong khu vực Shughnan, Hật Đốn (肸頓) trong khu vực Balk, và Đô Mật (都密) trong khu vực Termez.

Miêu tả về vương quốc Đại Hạ (Hy Lạp-Bactria) của Trương Khiên sau khi vương quốc này bị người Nguyệt Chi xâm chiếm: :"Đại Hạ nằm cách Đại Uyên trên 2.000 lý về phía tây nam, phía nam sông Gui (Oxus). Người dân quốc gia này canh tác đất và có các thành phố và nhà cửa. Tập quán của họ là tương tự như của Đại Uyên. Họ không có người cai trị vĩ đại mà chỉ có các thủ lĩnh nhỏ cai quản các thành phố khác nhau. Người dân là kém cỏi trong việc sử dụng vũ khí và sợ đánh trận, nhưng họ lại thông minh trong buôn bán. Sau khi người Đại Nguyệt Chi chuyển về phía tây và tấn công các vùng đất, thì toàn bộ quốc gia này nằm dưới sự thống trị của họ. Dân số của nước này khá lớn, ước khoảng 1.000.000 hoặc hơn. Kinh đô của họ là thành phố Lanshi (Bactra) và có chợ mà ở đó mọi thứ hàng hóa được mua và bán". ("Sử Ký", Tư Mã Thiên, phần về Trương Khiên)

Trong phân tích sâu hơn nữa về các đặc điểm tự nhiên và văn hóa của Trung Á mà ông đã ghé thăm năm 126 TCN, Trương Khiên thông báo rằng "mặc dù các quốc gia từ Đại Uyên về phía tây tới An Tức (Parthia), nói các thứ tiếng khác nhau, nhưng tập quán của họ nói chung lại khá tương đồng và các ngôn ngữ của họ lại có thể hiểu được nhau. Những người đàn ông có hai mắt sâu hoắm và có nhiều râu và lông"

Bành trướng vào Hindu-Kush

Khu vực Hindu-Kush (Paropamisadae) đã được các vị vua người Ấn Độ-Hy Lạp miền tây cai trị cho đến khi có sự trị vì của Hermaeus (trị vì từ khoảng 90 TCN–70 TCN). Sau thời gian này, không còn vị vua người Ấn Độ-Hy Lạp nào được biết đến nữa trong khu vực, có lẽ là do sự chiếm đóng của người Nguyệt Chi láng giềng, những người đã có quan hệ với người Hy Lạp trong một thời gian dài. Theo Bopearachchi, không có dấu vết nào của sự cư ngụ của người Ấn Độ-Scythia (không có các đồng tiền của các vị vua chính của người Ấn Độ-Scythia, chẳng hạn như Maues hoặc Azes I) được tìm thấy trong khu vực Paropamisadae và miền tây Gandhara.

Giống như họ đã làm ở Bactria với việc sao chép các đồng tiền Hy Lạp-Bactria, người Nguyệt Chi cũng đã sao chép các đồng tiền của Hermeaus ở mức độ lớn, tới khoảng năm 40, khi kiểu thiết kế pha trộn thành đồng tiền của vua Quý Sương Kujula Kadphises.

Hoàng thân đầu tiên của người Nguyệt Chi được ghi chép là Sapadbizes (có lẽ là hoàng thân của yabgu trong liên minh Nguyệt Chi), người trị vì khoảng năm 20 TCN, và được đúc hình trên các đồng tiền với các chữ Hy Lạp, cùng một kiểu như các vị vua Ấn -Hy Lạp miền tây.

Thành lập vương triều Quý Sương

Vào cuối thế kỷ 1 TCN, một trong năm bộ lạc của người Nguyệt Chi, người Quý Sương (貴霜), đã nắm quyền kiểm soát liên minh Nguyệt Chi. Theo một số giả thuyết, người Quý Sương có thể không giống như người Nguyệt Chi, có lẽ là có nguồn gốc từ người Saka. Từ thời điểm này, người Nguyệt Chi mở rộng sự kiểm soát của họ ra các lãnh thổ miền tây bắc của tiểu lục địa Ấn Độ, thành lập ra Đế chế Quý Sương, đã cai trị khu vực này trong vài thế kỷ. Người Nguyệt Chi được các nền văn minh phương Tây biết đến như là người Quý Sương, tuy nhiên, người Trung Quốc vẫn gọi họ là người Nguyệt Chi trong các văn kiện sử sách của họ trong một giai đoạn vài thế kỷ.

Người Nguyệt Chi/ Quý Sương mở rộng về phía đông trong thế kỷ 1, để thành lập đế chế Quý Sương. Vị vua đầu tiên của Quý Sương là Kujula Kadphises đã gắn liền bề ngoài của chính ông với Hermaeus trên các đồng tiền của mình, gợi ý rằng ông là một trong số các hậu duệ của ông này thông qua hôn nhân, hoặc ít nhất là muốn thông báo về quyền hợp pháp của mình.

Vị vua tự xưng đầu tiên của Quý Sương [[Heraios (1-30) trong kiểu Hy Lạp-Bactria.
Mặt phải: Tượng bán thân của Heraios, với dải băng buộc đầu kiểu hoàng gia Hy Lạp.
Mặt trái: Vua cưỡi ngựa, được nữ thần chiến thắng Nike trao vương miện bằng một vòng hoa. Chữ khắc Hy Lạp: TVPANNOVOTOΣ HΛOV - ΣΛNΛB - KOÞÞANOY "Bạo chúa Heraios Sanav (không rõ nghĩa) của người Quý Sương".]] Sự thống nhất của các bộ lạc Nguyệt Chi và sự lớn mạnh của Quý Sương được ghi chép trong sử sách Trung Quốc như Hậu Hán Thư:

:"Hơn một trăm năm sau, hấp hậu (翕候, "hoàng thân liên minh") của Quý Sương (Badakhshan và các lãnh thổ cận kề ở phía bắc sông Oxus), tên là Khâu Tựu Khước (丘就卻- tức Kujula Kadphises) đã tấn công và tiêu diệt bốn hấp hậu khác. Ông tự mình làm vua của vương quốc gọi là Quý Sương (Kushan). Ông xâm chiếm An Tức (Parthia) và chiếm khu vực Cao Phụ (高附- tức Kabul). Ông cũng đánh bại toàn bộ các vương quốc Puta (Parthuaia, 55) và Kế Tân (罽賓, Kapisa-Peshawar). Khâu Tựu Khước (Kujula Kadphises) đã ngoài 80 tuổi khi chết.

:Con trai ông, Diêm Cao Trân (閻高珍) (Vima Takto), trở thành vua tại cung điện của ông. Ông đã trở lại và đánh bại Thiên Trúc (天竺-Tây bắc Ấn Độ) và lập ra chức Tổng trấn để kiểm soát và lãnh đạo nó. Người Nguyệt Chi sau đó trở nên rất giàu. Tất cả các vương quốc gọi [vua của họ] là vua Quý Sương (Kushan), nhưng nhà Hán gọi họ theo tên nguyên thủy của họ là Đại Nguyệt Chi". (Hậu Hán Thư,).

Người Nguyệt Chi/Quý Sương đã kết hợp Phật giáo vào trong các đền thờ của nhiều vị thần, họ trở thành những người khởi xướng chính của Phật giáo Đại thừa, và các ảnh hưởng tương tác của họ với nền văn minh Hy Lạp đã giúp cho nền văn hóa Gandhara và Hy Lạp-Phật giáo thịnh vượng.

Trong thế kỷ 1 và 2, Vương triều Quý Sương đã mở rộng các chiến dịch quân sự về phía bắc và chiếm đóng các phần của lòng chảo Tarim, vùng đất ban đầu của họ, đặt nó vào trung tâm của thương mại Trung Á đang sinh lợi với Đế chế La Mã. Họ có liên quan đến việc liên kết quân sự với người Trung Quốc để chống lại sự xâm nhập của các bộ lạc du cư, cụ thể là khi họ liên kết với tướng Trung Quốc là Ban Siêu để chống lại người Sogdian năm 84, khi những người này cố gắng ủng hộ cuộc nổi dậy của vua Kashgar. Khoảng năm 85, họ cũng hỗ trợ người Trung Quốc trong cuộc tấn công Thổ Phồn, ở miền đông lòng chảo Tarim.

Để đòi hỏi sự ghi nhận việc ủng hộ của mình với người Trung Quốc, người Quý Sương đã đòi hỏi (nhưng bị từ chối) các công chúa người Hán, ngay sau khi họ gửi các tặng phẩm cho triều đình Trung Quốc. Để trả thù, họ đã tấn công Ban Siêu năm 86 bằng một lực lượng tới 70.000 quân, nhưng, bị mệt mỏi do cuộc hành quân, cuối cùng họ đã bị lực lượng Trung Quốc ít người hơn đánh bại. Người Quý Sương phải rút lui và cống nộp cho hoàng đế Trung Hoa trong thời gian trị vì của Hán Hòa Đế (89-106).

Sau này, người Nguyệt Chi/Quý Sương đã thành lập một vương quốc đóng đô ở Kashgar vào khoảng năm 120, giới thiệu văn tự Brahmi, tiếng Prakrit của người Ấn Độ để quản lý, và nghệ thuật Hy Lạp-Phật giáo đã phát triển thành nghệ thuật Serindia.

Thu được lợi từ việc mở rộng lãnh thổ, người Nguyệt Chi/Quý Sương đã nằm trong số những người đầu tiên đưa Phật giáo vào miền bắc và đông bắc châu Á, bằng các cố gắng truyền giáo trực tiếp cũng như việc dịch các kinh sách của Phật giáo sang tiếng Trung. Các nhà truyền giáo và dịch giả lớn như Lokaksema (Chi Lâu Già Sấm) và Dharmaraksa (Trúc Pháp Hộ), là những người đã tới Trung Quốc và lập ra các cụm dịch thuật, bằng cách đó nằm ở trung tâm của Con đường tơ lụa trong chuyển giao của Phật giáo.

Người Trung Quốc giữ việc gọi người Quý Sương như là người Đại Nguyệt Chi trong nhiều thế kỷ. Trong Tam Quốc Chí (三國志, chương 3), người ta ghi chép rằng năm 229 "Vua Đại Nguyệt Chi, Ba Điều (波調 - Vasudeva I), đã gửi phái bộ của mình đến nộp cống phẩm, và Bệ hạ (Hoàng đế Tào Duệ- tức Ngụy Minh Đế) đã ban cho ông ta tước hiệu "Vua Đại Nguyệt Chi Thân thiết với nước Ngụy (魏)."

Các vị vua

Sapadbizes (khoảng 20 TCN) Agesiles (khoảng 20 TCN)

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Sự di cư của người Nguyệt Chi qua vùng Trung Á, từ khoảng năm [[176 TCN đến năm 30]] **Nguyệt Chi** (tiếng Trung:月氏, hoặc 月支) hay **Đại Nguyệt Chi** (tiếng Trung:大月氏, hoặc 大月支), là tên
CAO LINH CHI ĐÔNG TRÙNG POCHEON – CORDYCEPS LINGZHI EXTRACT GOLDQuy cách đóng gói: Hộp 5 lọ x 50g (250g)Hãng sản xuất: PocheonXuất xứ: Hàn Quốc- Cao linh chi đông trùng là sự kết hợp
phải|nhỏ|634x634px| Sơ đồ thể hiện tiến trình của chu kỳ kinh nguyệt và các hormone có tác động đến tiến trình này. **Chu kỳ kinh nguyệt** là sự biến đổi tự nhiên thường xuyên xảy
**Nguyệt thực** là hiện tượng thiên văn khi Mặt Trăng đi vào hình chóp bóng của Trái Đất, đối diện với Mặt Trời. Điều này chỉ có thể xảy ra khi Mặt Trời, Trái Đất
**Nguyễn Thị Nguyệt Ánh** (sinh ngày 12 tháng 8 năm 1984) thường được biết đến với nghệ danh **Nguyệt Ánh** là một nữ diễn viên, ca sĩ, người dẫn chương trình người Việt Nam. Là
Cốc nguyệt san thông thường có hai kích cỡ. **Cốc nguyệt san** () là một dụng cụ vệ sinh được đưa vào âm đạo trong chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ. Mục đích chính
phải|Chu kỳ kinh nguyệt **Kinh nguyệt** là tập hợp các thay đổi sinh lý lặp đi lặp lại ở cơ thể phụ nữ dưới sự điều khiển của hệ hormone sinh dục và cần thiết
**Chi Nguyệt quế** (danh pháp khoa học: **_Laurus_**) là một chi của các cây thân gỗ thường xanh thuộc về họ Nguyệt quế (_Lauraceae_). Chi này bao gồm hai loài, trong đó các đặc trưng
**Thương Nguyệt** () tên thật là **Vương Dương** (王洋), sinh ngày 15 tháng 5 năm 1979 tại Chiết Giang, Trung Quốc là một trong những tác giả đại diện tiêu biểu của dòng tiểu thuyết
**Rừng nguyệt quế của Madeira** (tiếng Bồ Đào Nha: _Floresta Laurissilva da Ilha da Madeira_) là một địa điểm tự nhiên được UNESCO công nhận là Di sản thế giới vào năm 1999. Đây là
**Bán nguyệt san Tuổi Hoa** (mã xuất bản: _47 UBKD_) là một tạp chí dành cho lứa tuổi thanh thiếu niên, phát hành tại Sài Gòn các giai đoạn 1962 - 1975 và 1986 -
**Tô Ánh Nguyệt** là tác phẩm cải lương nổi tiếng của soạn giả Trần Hữu Trang, soạn khoảng năm 1935–1936. Tác phẩm gắn liền với tên tuổi của NSND Lệ Thủy với vai chính là
**Lauraceae** hay **họ Nguyệt quế**, trong một số sách vở về thực vật tại Việt Nam gọi là **họ Long não** hay **họ Quế**, nhưng tại Wikipedia gọi theo tên thứ nhất do tên khoa
**Laurales**, trong một số sách vở về thực vật học tại Việt Nam gọi là **bộ Long não**, nhưng tại Wikipedia thì gọi là **Bộ Nguyệt quế** do tên gọi khoa học của nó lấy
**Liên trì dục nguyệt** là một ao sen và là một trong mười hai danh lam thắng cảnh xưa của tỉnh Quảng Ngãi, hiện nằm tại thôn Mỹ Thuận, xã Phổ Thuận, thị xã Đức
**Bán nguyệt san Văn** là cơ quan truyền thông chuyên văn tồn tại từ tháng Giêng năm 1964 đến ngày 01 tháng 05 năm 1975 trên địa phận Việt Nam Cộng hòa. ## Lịch sử
**Nguyễn Thị Thu Nguyệt** (sinh ngày 25 tháng 9 năm 1972) là nữ Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bà hiện là Tỉnh ủy viên, Bí thư Thị
Nguyệt thực sẽ diễn ra vào ngày 8 tháng 11 năm 2022. Mặt Trăng sẽ đi qua trung tâm của bóng tối của Trái Đất. Chỉ xảy ra 5,8 ngày trước ngày apogee (Apogee vào
**Nguyệt quế** thực thụ hay **nguyệt quế Hy Lạp** (danh pháp hai phần: **_Laurus nobilis_**, họ Lauraceae), là một loài cây thân gỗ hoặc cây bụi lớn với lá thường xanh có mùi thơm, cao
Một **nguyệt thực toàn phần** xảy ra từ chiều đến đêm 15 tháng 6 năm 2011 (giờ UTC). Đây là lần đầu tiên trong hai lần nguyệt thực toàn phần trong năm 2011, lần thứ
**Hội chứng tiền kinh nguyệt** đề cập đến các triệu chứng về thể chất và cảm xúc xảy ra ở một trong hai tuần trước kỳ kinh nguyệt. Các triệu chứng thường khác nhau giữa
**Chi Mận mơ** (danh pháp khoa học: **_Prunus_**) là một chi của một số loài (khoảng 200) cây thân gỗ và cây bụi, trong đó có các loài như mận hậu, mơ, đào, anh đào
**Sự kiện nguyệt thực toàn phần** diễn ra vào hồi 5h27 đến 11h06 UTC, ngày 21 tháng 12 năm 2010, là nguyệt thực toàn phần diễn ra lần đầu tiên trong ngày đông chí kể
**Nguyệt thực toàn phần diễn ra vào ngày 27 tháng 7 năm 2018:** Mặt Trăng đi qua trung tâm bóng của Trái Đất lần đầu tiên kể từ nguyệt thực toàn phần ngày 15 tháng
**Phan Thị Nguyệt Thu** (sinh ngày 29 tháng 9 năm 1974) là Thẩm phán, Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bà hiện là Tỉnh ủy viên, Bí thư
Nguyệt thực toàn phần đã diễn ra vào ngày 31 tháng 1 năm 2018. Mặt Trăng xuất hiện dưới dạng siêu trăng, với cận điểm vào ngày 30 tháng 1. Nguyệt thực trước đó là
là tạp chí tuyển tập manga xuất bản vào hàng tháng nhắm đến đối tượng _shōnen_, là nam giới ở độ tuổi thanh thiếu niên. Các manga xuất bản trên tạp chí thường có xu
**Thụy hương nguyệt quế** (danh pháp hai phần: **_Daphne laureola_**) là một loài thực vật thuộc chi Thụy hương. Loài này mọc ở đất kiềm. Nó được tìm thấy ở châu Âu, Algérie, Maroc và
**Họ Nguyệt xỉ**, tên khoa học **_Adiantaceae_** (không phải tên đồng nghĩa của _Pteridaceae_) là một họ dương xỉ trong bộ Pteridales. Họ này bao gồm họ trước đây có tên là _Vittariaceae_. Các phân
**Chi Hương bồ**, **chi Cỏ nến**, **thủy hương**, **bồn bồn**, **bồ hoàng**, **cỏ tăm** (tên khoa học: **_Typha_** ) là một chi gồm khoảng trên 30 loài theo _The Plant List_ trong họ Hương bồ.
là một tạp chí do Kodansha phát hành hàng tháng chuyên về shōnen manga. Ban đầu, tạp chí này được phát hành trong năm 1964 dưới tên . Tới năm 1969 được đổi tên thành
nhỏ|Một quầy báo tại [[Göttingen, Đức]] nhỏ|Tiệm bán tạp chí tại Mỹ **Tạp chí** là từ chỉ chung các loại ấn phẩm báo chí xuất bản định kỳ. ## Định nghĩa Theo định nghĩa, một
Trang bìa ấn bản số 1, năm 1917 **_Nam Phong tạp chí_** là một tờ nguyệt san xuất bản tại Việt Nam từ ngày 1 tháng 7 năm 1917 đến tháng 12 năm 1934 thì
Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật được trao cho tác giả của các lĩnh vực âm nhạc, văn học, sân khấu, mỹ thuật, nhiếp ảnh, múa, điện ảnh, văn nghệ dân
**Chi Khiêm** (; khoảng 222–252 CE) là một cư sĩ Phật giáo gốc Trung Á, người đã dịch một loạt kinh điển Phật giáo Ấn Độ sang chữ Hán. Ông là cháu trai (một số
MẶT NẠ TINH CHẤT NHAU THAI CỪU MULTI PEPTIDE PLACENTA MASK Làm đẹp luôn là đề tài muôn thuở không chỉ của phái đẹp và các đấng mày râu cũng rất quan tâm. Ai cũng
**Trường Trung học Võ Trường Toản** là một trường trung học cơ sở công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trường được thành lập năm 1955. Tên trường được đặt theo danh sĩ Võ
**Chi Lý chua** hay **chi Lý gai** (danh pháp khoa học: **_Ribes_**) là một chi của khoảng 150 loài thực vật có hoa bản địa trong toàn bộ khu vực ôn đới thuộc Bắc bán
**_az-Zuhūr_** (tiếng Ả Rập: الزهور; DMG: az-Zuhūr; tiếng Anh: "Flowers") là một nguyệt san xuất bản tại Cairo từ năm 1910 đến năm 1913 với tổng cộng 40 số. Người biên tập của tờ báo,
**_Độc giả_** () là bán nguyệt san trích đăng bài viết từ các tờ báo và tạp chí khác. Đây là một trong những tạp chí được lưu hành rộng rãi nhất và là tạp
**Ngày Nay** là cơ quan ngôn luận của Liên hiệp các Hội UNESCO Việt Nam. Tạp chí Ngày Nay phát hành miễn phí trên cả nước Việt Nam với số lượng gần 20.000 bản/ngày (số
Bộ sản phẩm hỗ trợ giấc ngủ cho phụ nữ tuổi trung niên giúp cải thiện tình trạng đau đầu, mất ngủ, giúp ngủ ngon gồm:+ Viên uống bổ não GO GINKGO 9000+ (30 viên)
Bộ sản phẩm hỗ trợ giấc ngủ cho phụ nữ tuổi trung niên giúp cải thiện tình trạng đau đầu, mất ngủ, giúp ngủ ngon gồm: + Viên uống bổ não GO GINKGO 9000+ (60
Mùa đầu tiên của chương trình _**Chị đẹp đạp gió rẽ sóng**_ với tên gọi **_Chị đẹp đạp gió rẽ sóng 2023_** được phát sóng trên kênh truyền hình VTV3 từ ngày 28 tháng 10
nhỏ|265x265px|Trụ sở Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh **Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh**, thường được gọi ngắn gọn là **Đoàn**, là một tổ chức chính trị – xã hội của thanh
nhỏ|Một người đọc nhật báo tại Argentina **Báo chí** (報誌) **ngành báo**, hay cũ là **tân văn** (新聞), là những xuất bản phẩm định kỳ nhằm báo cáo về các sự vật, hiện tượng hay
**Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh** (_Ho Chi Minh University of Banking_) là trường đại học công lập trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trường được thành lập năm
**Chi Măng tây** (danh pháp khoa học: **_Asparagus_**) là một chi thực vật thuộc Họ Măng tây (Asparagaceae), và phân họ cùng tên (Asparagoideae). Chi này bao gồm 300 loài, phần lớn trong đó là
**_Life_** là một tạp chí của Hoa Kỳ được xuất bản hàng tuần từ năm 1883 đến năm 1972, xuất bản như một "số đặc biệt" không liên tục cho đến năm 1978 và xuất
**_Clash_** là một tạp chí và trang web âm nhạc và thời trang có trụ sở tại Vương quốc Anh. Tạp chí được Music Republic Ltd. xuất bản bốn lần một năm. Công ty chủ