✨Hạ Hầu Uyên

Hạ Hầu Uyên

Hạ Hầu Uyên (chữ Hán: 夏侯淵: 164-219) tự Diệu Tài (妙才), là tướng quân phe Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là em họ của Hạ Hầu Đôn.

Thời trẻ

Hạ Hầu Uyên người Tiêu Quận, nước Bái (thuộc Dự châu), là đồng hương với Tào Tháo. Ông là hậu duệ của Hạ Hầu Anh - người phục vụ cho hoàng đế Cao Tổ Lưu Bang.

Khi còn trẻ, Hạ Hầu Uyên và Tào Tháo thường giao du với nhau. Tào Tháo phạm tội giết người, bị kết tội. Hạ Hầu Uyên đứng ra nhận hết tội về mình, vì vậy ông bị bắt giam còn Tào Tháo được minh oan. Tào Tháo ra ngoài cũng dốc tiền chạy quan địa phương thả Hạ Hầu Uyên ra. Tào Tháo biết ơn ông và gả em gái vợ cho.

Sự nghiệp

Năm 190, Tào Tháo tập hợp lực lượng đánh Đổng Trác, Hạ Hầu Uyên cùng anh họ là Hạ Hầu Đôn cũng là họ hàng Tào Tháo dẫn 1000 quân đến giúp Tào Tháo. Sau đó, liên quân đánh Đổng Trác tan rã, Hạ Hầu Uyên giúp Tào Tháo tăng cường lực lượng và mở rộng lãnh thổ.

Năm 198, Hạ Hầu Uyên cùng Tào Tháo tham gia trận Hạ Bì chống lại Lã Bố. Kết cục của trận chiến là cái chết của Lã Bố. Trong quá trình chinh chiến, ông lần lượt giữ các chức vụ Biệt bộ tư mã, Kỵ đô úy, Thái thú Trần Lưu, Trung Lang Dĩnh Xuyên.

Năm 200, Tào Tháo và Viên Thiệu đại chiến tại Quan Độ, Hạ Hầu Uyên làm nhiệm vụ bảo vệ doanh trại và tiếp tế lương thảo. Trận Quan Độ kết thúc với thất bại hoàn toàn của Viên Thiệu và Tào Tháo làm chủ cả miền Bắc Trung Quốc từ đó. Hạ Hầu Uyên được thăng làm Đốc quân hiệu úy, chuyển sang việc quản quân lương ở 3 châu: Duyện, Dự, Tư Lệ.

Sau đó, Hạ Hầu Uyên cầm quân đánh dẹp các lực lượng chống đối như Xương Hy ở quận Thái Sơn, Từ Hòa ở quận Tế Nam, Lôi Tự ở quận Lư Giang, Thương Diệu ở quận Thái Nguyên, tộc người Đê (Chi) ở huyện Thâu My và huyện Khai thuộc quận Hữu Phù Phong, Lưu Hùng ở núi Chung Nam.

Năm 208, Hạ Hầu Uyên cùng Tào Tháo tham gia 2 trận đánh lớn ở Đương Dương Trường Bản và trận Xích Bích nhưng thất bại.

Năm 211, Mã Siêu dẫn 10 vạn đại quân Tây Lương tấn công Đồng Quan. Tào Tháo cùng Hạ Hầu Uyên, Hứa Chử, Từ Hoảng dẫn quân đến chiếm lại Đồng Quan. Thời gian đầu, Mã Siêu chiếm ưu thế nhưng Tào Tháo sau đó phản công thắng lợi đánh bại Mã Siêu nhưng Mã Siêu chạy trốn. Sau trận Đồng Quan, Tào Tháo sai Hạ Hầu Uyên trấn giữ Trường An phòng Mã Siêu. Ông cũng cầm quân dẹp một viên tướng Tây Lương khác là Dương Thu ở quận An Định.

Năm 213, Mã Siêu dẫn quân đánh chiếm lại Lũng Thượng gây ra trận chiến Ký Thành. Hạ Hầu Uyên nhận lệnh của Tào Tháo liên kết cùng Dương Phụ đánh bại Mã Siêu lần nữa khiến Mã Siêu phải chạy đến Hán Trung đầu hàng Trương Lỗ.

Năm 214, Hạ Hầu Uyên lại mang quân dẹp lực lượng nổi dậy của Tống Kiến. Năm 215, Tào Tháo cùng Hạ Hầu Uyên, Trương Cáp, Hứa Chử, Từ Hoảng dẫn quân đánh Hán Trung của Trương Lỗ. Trương Lỗ sai người dẫn quân đến Dương Bình Quan phòng thủ khiến quân Tào Tháo không qua được. Sau đó, Tào Tháo sai Hạ Hầu Uyên lặng lẽ dẫn quân đến đánh chiếm Dương Bình quan, quân của Trươg Lỗ không phòng thủ nên đại bại. Tào Tháo chiếm Hán Trung, trước khi rút về để Hạ Hầu Uyên cùng Trương Cáp ở lại trấn giữ.

Năm 217, Lưu Bị chia quân tiến đánh Hán Trung. Tào Tháo sai Tào Hồng, Tào Hưu ra hỗ trợ cho Hạ Hầu Uyên, đánh lui được quân Thục, tướng Ngô Lan bỏ chạy rồi bị người Đê giết.

Cuối năm 218, Lưu Bị cùng Pháp Chính, Hoàng Trung mang đại quân tấn công lên Hán Trung. Quân Thục nhanh chóng lấy cửa ải Dương Bình, sang đầu năm 219, vượt qua sông Miện Thủy. Lưu Bị đóng quân hạ trại tại núi Định Quân, Hoàng Trung được lệnh cầm một cánh quân mai phục ở phía sau đỉnh núi này.

Hạ Hầu Uyên không biết là mưu kế, mang toàn quân tới đánh doanh trại của Lưu Bị. Trong khi hai bên đang xô xát kịch liệt, đột nhiên Hoàng Trung từ trên cao thúc trống đánh xuống, khí thế rất mạnh vào sườn quân Tào. Quân Tào bị đánh tan nát không còn hàng trận. Hạ Hầu Uyên bị Hoàng Trung chém thành 2 mảnh, Thứ sử Ích châu của Tào Tháo là Triệu Ngung cũng bị tử trận. Không rõ năm đó ông bao nhiêu tuổi.

Sau đó Tào Tháo khởi đại quân đến nhưng vẫn thất bại và phải từ bỏ Hán Trung về tay Lưu Bị.

Gia Quyến

  • Anh họ: Hạ Hầu Đôn
  • Vợ: Đinh Thị (丁氏), em gái của Đinh phu nhân - vợ Tào Tháo
  • Con: Hạ Hầu Hành (夏侯衡), thừa kế chức vị của Hạ Hầu Uyên, sau phong làm An Ninh Đình hầu. Hạ Hầu Bá, sau khi Tào Sảng chết (năm 249) chạy sang hàng Thục Hán (do vợ Trương Phi là Hạ Hầu thị lại là cháu gọi Hạ Hầu Uyên bằng bác.) Hạ Hầu Xứng (夏侯稱), có tài từ nhỏ, được Tào Tháo và Tào Phi yêu mến, nhưng mất sớm năm 18 tuổi Hạ Hầu Uy (夏侯威), trở thành đại thần Tào Ngụy, trấn thủ tại Kinh châu và Duyện châu Hạ Hầu Vinh (夏侯榮), cùng bị giết trong trận Hán Trung với cha khi mới 13 tuổi Hạ Hầu Huệ (夏侯惠), giữ chức Hoàng môn thị lang, tướng quốc nước Yên ** Hạ Hầu Hòa, làm tới chức Thượng thư Bộ Lễ
  • Cháu: Hạ Hầu Tích (夏侯績), con của Hạ Hầu Hành Hạ Hầu Tuấn (夏侯駿), con trưởng của Hạ Hầu Uy, làm thứ sử Tinh châu ** Hạ Hầu Trang (夏侯莊), con thứ hai của Hạ Hầu Uy, trấn thủ Hoài Nam, lấy chị họ của Cảnh Hiến Dương hoàng hậu Dương Huy Du (vợ ba của Tấn Cảnh Đế Tư Mã Sư.)
  • Chắt: Hạ Hầu Bao (夏侯褒), con của Hạ Hầu Tích Hạ Hầu Trạm (夏侯湛), con của Hạ Hầu Trang, làm thái thú Nam Dương ** Hạ Hầu Quang Cơ (夏侯光姬), con gái của Hạ Hầu Trang, lấy Tư Mã Cận (司馬覲), mẹ của Tấn Nguyên Đế Tư Mã Duệ.

Trong Tam quốc diễn nghĩa

Nhân vật Hạ Hầu Uyên trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung là nhân vật phụ, được mô tả khá gần với sử sách, hầu như không có những tình tiết hư cấu về ông trong tác phẩm này.

Ông xuất hiện từ hồi 4 khi cùng Tào Tháo khởi binh đánh Đổng Trác đến hồi 71 khi tử trận ở núi Định Quân. Việc Hạ Hầu Uyên tử trận được thầy bói Quản Lộ báo trước cho Tào Tháo ở những hồi trước bằng câu chiêm: "Ba tám tung hoành, Lợn vàng đạp hổ, mé nam núi Định Quân gãy một cánh tay". Lời chiêm được giải như sau: Ba tám tung hoành tức là 8 lần 3 là 24, tức năm Kiến An thứ 24 (219). Lợn vàng đạp hổ là tháng dần năm hợi, thời điểm ông tử trận. Mọi người ở Nghiệp Thành nghe Quản Lộ nói đều lo sợ sẽ có một viên đại tướng sắp thiệt mạng. Vì biết được lời đoán của Quản Lộ nên Trương Cáp trước đó thường thận trọng không dám mạo hiểm khi giao chiến với quân Thục, bị Hạ Hầu Uyên cùng Hàn Hạo, Hạ Hầu Thượng chê trách là nhát gan.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hạ Hầu Uyên** (chữ Hán: 夏侯淵: 164-219) tự **Diệu Tài** (妙才), là tướng quân phe Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là em họ của Hạ Hầu Đôn. ## Thời
**Hạ Hầu Bá** (; ? – 259?), tự **Trọng Quyền** (仲權), là tướng lĩnh Tào Ngụy và Quý Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Phục vụ Tào Ngụy Hạ Hầu Bá
**Hạ Hầu Đôn** (chữ Hán: 夏侯惇; 155–220), tên tự là **Nguyên Nhượng** (元讓) là công thần khai quốc nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là anh họ của Hạ
**Hạ Hầu Thượng** (chữ Hán: 夏侯尚, ? – 226) là tướng lãnh, sủng thần nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Xuất thân Thượng tự Bá Nhân, là cháu họ
**Hạ Hầu Mậu** (chữ Hán: 夏侯楙; bính âm: Xihou Mao), tự **Tử Lâm**, là một vị tướng lĩnh và quan chức của nhà Tào Ngụy trong thời kỳ Tam Quốc của lịch sử Trung Quốc.
**Hạ Hầu Uy** (; 201? – 249?), tên tự là **Quý Quyền** (季權), là quan viên Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Hạ Hầu Uy là người huyện
**Hạ Hầu Đức** (chữ Hán: 夏侯德; bính âm: Xihou De; ???-219) là một nhân vật hư cấu trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa của nhà văn La Quán Trung. Trong tiểu thuyết này, Hạ
**Hạ Hầu** (chữ Hán: 夏侯, Bính âm: Xiàhóu) là một họ người Hoa. Hạ Hầu là một trong 60 họ kép (gồm hai chữ) trong danh sách _Bách gia tính_. ## Nguồn gốc Thời Xuân
**Hầu Uyên** (, ? - ?), người Tiêm Sơn, Thần Vũ , tướng lĩnh nhà Bắc Ngụy. Do Bắc sử được soạn vào đời Đường, Lý Duyên Thọ phải kỵ húy Đường Cao Tổ Lý
**Trương hoàng hậu** (; ? - ?), không rõ tên thật, là hoàng hậu thứ hai của Hán Hậu Chủ Lưu Thiện nhà Quý Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Trương hoàng
**Trương hoàng hậu** (; ? - 237), không rõ tên thật, là hoàng hậu đầu tiên của Hán Hậu Chủ Lưu Thiện nhà Quý Hán, thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Sau khi
**Uyển Dung** (chữ Hán: 婉容; 13 tháng 11, năm 1906 - 20 tháng 6, năm 1946), Quách Bố La thị, biểu tự **Mộ Hồng** (慕鸿), hiệu **Thực Liên** (植莲), là nguyên phối Hoàng hậu của
**Uyển Trinh** (chữ Hán: 婉貞; 13 tháng 9 năm 1841 - 19 tháng 6 năm 1896), Na Lạp thị, còn được gọi là **Thuần Hiền Thân vương phi** (醇賢親王妃), Vương phi của Thuần Hiền Thân
**Nhà Hạ** (, khoảng thế kỷ 21 TCN - khoảng thế kỷ 16 TCN) là một triều đại lịch sử chưa được kiểm chứng của Trung Quốc, đây là triều đại được nhiều nhà nghiên
**Hiếu Bình Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝平王皇后; 4 TCN – 23), còn gọi là **Hiếu Bình Vương hậu** (孝平王后) hoặc **Hoàng Hoàng Thất chúa** (黃皇室主), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Bình Đế
**Minh Điệu Mao hoàng hậu** (chữ Hán: 明悼毛皇后; ? - 22 tháng 9, năm 237), kế thất nhưng là Hoàng hậu đầu tiên của Ngụy Minh đế Tào Duệ. ## Tiểu sử Minh Điệu Mao
**Văn Đức Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 文德順聖皇后, 15 tháng 3, 601 – 28 tháng 7, 636), thông thường được gọi là **Trưởng Tôn hoàng hậu** (長孫皇后), là Hoàng hậu duy nhất của Đường
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Đường Trung Tông Vi Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐中宗韋皇后, ? - 21 tháng 7, năm 710), thường gọi **Vi hậu** (韋后) hay **Vi Thái hậu** (韋太后) hoặc **Trung Tông Vi Thứ nhân** (中宗韋庶人), kế phối,
thumb|Bức tranh 《Vạn quốc lai triều đồ》 vẽ Hậu phi của [[Càn Long Đế.]] **Hậu cung Nhà Thanh** (chữ Hán: 清朝後宮; _"Thanh triều Hậu cung"_) là quy định và trật tự của hậu cung dưới
**Hậu Hán Thư** () là một trong những tác phẩm lịch sử chính thức của Trung Quốc do Phạm Diệp biên soạn vào thế kỷ thứ 5, sử dụng một số cuốn sách sử và
**Hậu Triệu** (tiếng Trung giản thể: 后赵, phồn thể: 後趙, bính âm: Hòuzhào; 319-352) là một quốc gia thuộc Ngũ Hồ thập lục quốc trong thời Đông Tấn (265-420) tại Trung Quốc. Nhà nước này
**Quân phiệt Lương châu** là lực lượng quân phiệt cát cứ cuối thời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Đây là một trong những lực lượng ly khai nhà Đông Hán sớm nhất, mở
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**_Độc Cô thiên hạ_** (tiếng Trung: 独孤天下) là một bộ phim truyền hình Trung Quốc phát sóng năm 2018. Bộ phim kể về cuộc đời của chị em nhà Độc Cô nổi tiếng trong lịch
**Thành Túc Hoàng hậu** (chữ Hán: 成肅皇后; 1132 - 1203), còn gọi là **Huệ Từ Hoàng thái hậu** (惠慈皇太后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Hiếu Tông Triệu Bá Tông. ## Tiểu sử **Thành
**Vườn Cơ Hạ** hay **Cơ Hạ viên** (chữ Hán: 幾暇園) là một trong 5 khu vườn ngự uyển nằm bên trong Hoàng thành Huế. Vườn được xây dựng năm 1837 dưới thời Minh Mạng. ##
**Loạn Hầu Cảnh** (chữ Hán: 侯景之乱, _Hầu Cảnh chi loạn_) là cuộc nổi dậy chống lại triều đình nhà Lương của hàng tướng Hầu Cảnh đến từ nhà Đông Ngụy, diễn ra từ tháng 8
**Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu**; (chữ Hán: 孝欽顯皇后; ; ; trước đây La Mã hóa là **Từ Hi Thái hậu T'zu-hsi**; 29 tháng 11 năm 1835 – 15 tháng 11 năm 1908), thường được gọi
**Hiếu Tiết Liệt hoàng hậu** (chữ Hán: 孝節烈皇后; 10 tháng 5 năm 1611 - 24 tháng 4 năm 1644), là Hoàng hậu của Minh Tư Tông Sùng Trinh Đế, vị hoàng đế cuối cùng của
**Vũ Văn Uyên** (Chữ Hán: 武文淵) (1479 - 1557), tước **Khánh Dương Hầu**, là người khai quốc cho sự nghiệp của các Chúa Vũ cát cứ 172 năm, ông đóng góp rất nhiều công sức
**Thuận Liệt Lương Hoàng hậu** (chữ Hán: 順烈梁皇后; 116 - 150), hay còn được gọi là **Đông Hán Lương Thái hậu** (東漢梁太后), là hoàng hậu của Hán Thuận Đế Lưu Bảo - vị Hoàng đế
**Thành Hiếu Chiêu Hoàng hậu** (chữ Hán: 誠孝昭皇后, 1379 - 20 tháng 11, 1442), hay **Thành Hiếu Trương Thái hậu** (誠孝張太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Nhân Tông Chu Cao Sí, mẹ ruột
**Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝定景皇后; ; 28 tháng 1 năm 1868 – 22 tháng 2 năm 1913), còn gọi là **Thanh Đức Tông Hoàng hậu** (清德宗皇后), **Long Dụ Hoàng hậu** (隆裕皇后) hay
**Hiển Túc Trịnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 顯肅鄭皇后; 1079 - 1130), còn gọi là **Ninh Đức Thái hậu** (寧德太后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Huy Tông Triệu Cát, đồng thời là Thái thượng
**Tây Hạ** (chữ Hán: 西夏, bính âm: _Xī Xià_; chữ Tây Hạ: x20px|link= hoặc x20px|link=) (1038-1227) là một triều đại do người Đảng Hạng kiến lập trong lịch sử Trung Quốc. Dân tộc chủ thể
**Hiếu Uyên Cảnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝淵景皇后; 1427 - 15 tháng 1, 1506), nhưng được Minh sử ghi thành **Cảnh Đế Uông Phế hậu** (景帝汪廢后), là Hoàng hậu đầu tiên Minh Đại Tông Chu
**Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝賢纯皇后, ; 28 tháng 3, năm 1712 - 8 tháng 4, năm 1748), là nguyên phối Hoàng hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Xuất thân vọng
**Hiếu Từ Cao Hoàng hậu Mã thị** (chữ Hán: 孝慈高皇后馬氏, 18 tháng 7 năm 1332 – 23 tháng 9 năm 1382), thường gọi **Minh Thái Tổ Mã Hoàng hậu** (明太祖馬皇后) để phân biệt với vị
**Hiếu Trinh Hiển Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝貞顯皇后; ; 12 tháng 8, năm 1837 – 8 tháng 4, năm 1881), được biết đến như **Từ An Hoàng thái hậu** (慈安皇太后) hoặc **Đông Thái hậu** (東太后),
**Hiếu Cảnh Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝景王皇后; 178 - 126 TCN), thường gọi **Hiếu Cảnh Thái hậu** (孝景太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Cảnh Đế Lưu Khải. Bà là sinh mẫu của
**Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 仁孝文皇后; 5 tháng 3 năm 1362 - 6 tháng 8 năm 1407), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Thành Tổ Chu Đệ và là sinh mẫu của
**Hoa hậu Việt Nam 2010** là cuộc thi Hoa hậu Việt Nam lần thứ 12, diễn ra từ ngày 25 tháng 10 đến 6 tháng 11 năm 2010 tại Khu Du lịch quốc tế Tuần
**Hiếu Văn Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文竇皇后; 205 - 135 TCN), còn gọi là **Đậu Thái hậu** (竇太后), kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị duy nhất của Hán Văn Đế Lưu Hằng,
**Vũ Tuyên Biện Hoàng hậu** (chữ Hán: 武宣卞皇后; 30 tháng 12, 159 – 9 tháng 7, 230), còn gọi là **Biện phu nhân** (卞夫人), là kế thê của Ngụy Vũ Đế Tào Tháo, người đặt
**Linh Tư Hà hoàng hậu** (chữ Hán: 靈思何皇后, ? - 30 tháng 9 năm 189), còn gọi **Đông Hán Hà thái hậu** (東漢何太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Linh Đế Lưu Hoằng, sinh
**Cung Thánh Nhân Liệt hoàng hậu** (chữ Hán: 恭聖仁烈皇后; 1162 - 1232), thông gọi **Thọ Minh hoàng thái hậu** (壽明皇太后) hay **Ninh Tông Dương hoàng hậu** (寧宗楊皇后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Ninh
**Minh Đức Mã hoàng hậu** (chữ Hán: 明德馬皇后; ? - 9 tháng 7, 79), hay thường gọi **Minh Đức hoàng thái hậu** (明德皇太后), **Đông Hán Minh Đức Mã hoàng hậu** (東漢明德馬皇后), **Đông Hán Mã thái
**Đường Cao Tông Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐高宗王皇后; ? - 655), hay còn gọi là **Cao Tông Phế hậu Vương thị** (高宗廢后王氏) hoặc **Cao Tông Thứ nhân** (高宗庶人), là chính thất cũng như Hoàng
**Hiếu Văn U Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文幽皇后; 469 - 499), cũng gọi **Cao Tổ U hậu** (高祖幽后), là Hoàng hậu thứ hai của Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế Nguyên Hoành của triều Bắc Ngụy