Năm 315
Hán Triệu (tiếng Trung giản thể: 汉赵, phồn thể 漢趙, bính âm: Hànzhào) 304-329 là một tiểu quốc trong thời kỳ Ngũ Hồ thập lục quốc vào cuối thời kỳ nhà Tây Tấn (265-316), đầu nhà Đông Tấn (316-420). Nước này có hai tên gọi, là Hán (漢) được Lưu Uyên (劉淵) tuyên bố năm 304 và Lưu Diệu (劉曜) đổi thành Triệu (趙) năm 319, sử sách gọi là Tiền Triệu (前趙) để phân biệt với Hậu Triệu (後趙). (Lý do gọi là Tiền Triệu là khi đó một viên tướng có thế lực là Thạch Lặc (石勒) đã tách ra để thành lập nhà nước riêng của mình năm 319, ông này cũng đặt tên gọi cho quốc gia của mình là Triệu, và vì thế nhà nước của Thạch Lặc được gọi là Hậu Triệu.
Tiểu quốc này cũng có nhiều tên gọi khác như: Hung Nô Hán(匈奴漢), Hồ Hán(胡漢) hoặc Bắc Hán(北漢) - Tuy nhiên danh hiệu này hiếm khi được sử dụng vì nó dễ bị nhầm lẫn với triều đại Bắc Hán trong thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc.
Tên gọi
Do cả hai quốc gia này (Hán của Lưu Uyên và Triệu của Lưu Diệu) đều được những người Hung Nô đã Hán hóa một phần, thuộc dòng họ Lưu cai trị, nên một số học giả Trung Quốc thường kết hợp cả hai nhà nước này thành một nhà nước duy nhất là Hán Triệu. Nhiều văn bản phương Tây coi đây là hai nhà nước riêng biệt; trong khi những văn bản khác gọi nước Hán này là Bắc Hán (北漢), một tên gọi hiện nay được dùng để chỉ Nhà nước Bắc Hán (951-979) trong thời kỳ Ngũ đại Thập quốc. Tuy nhiên, việc coi đây như là hai nhà nước tách biệt cần được coi là sai lầm hoàn toàn, bởi vì khi Lưu Diệu đổi tên từ Hán thành Triệu năm 319, ông coi nhà nước của mình như là sự tiếp nối từ thời kỳ mà Lưu Uyên lập ra nó năm 304; mặc dù ông không công nhận mối liên hệ với nhà Hán trước đó và tuyên bố tổ tiên là từ một thiền vu vĩ đại của người Hung Nô là Mặc Đốn (冒顿).
Hình thành
Vào thập niên 280, một lượng lớn (khoảng 400.000) người Hung Nô chăn nuôi gia súc sinh sống tại khu vực Sa mạc Ordos (Ngạc Nhĩ Đa Tư) và Tịnh Châu (并州), đơn vị hành chính bao gồm các khu vực ngày nay của toàn bộ tỉnh Sơn Tây, tây nam Nội Mông Cổ và đông Thiểm Tây, sau khi Tào Tháo dời họ tới đây và chia họ ra thành "ngũ bộ" (五部). Những người Hung Nô này dường như cuối cùng đã thay đổi cách sống du canh du cư trên thảo nguyên sang việc chăn nuôi gia súc và ở một mức độ nhất định là làm nông nghiệp.
Sự Hán hóa là rõ ràng, đặc biệt trong tầng lớp quý tộc; Lưu Uyên, thủ lĩnh cha truyền con nối của "Tả bộ" (左部) đã được học hành tại Lạc Dương, Kinh đô nhà Tấn, và rất giỏi văn học, lịch sử, chiến lược và chiến thuật quân sự Trung Hoa - sự tinh thông của một người hoàn hảo theo ý nghĩa kinh điển. Người ta còn cho rằng nhà Tấn đã có ý định giao cho Lưu Uyên làm chỉ huy lực lượng đi chinh phục các tàn dư nhà Đông Ngô; nhưng sau đó đã không dùng do ông là người Hung Nô.
Tuy nhiên, trong số các thủ lĩnh của người Hung Nô, bao gồm cả Lưu Uyên, ý nghĩ về sự tách rời ra khỏi Trung Quốc luôn luôn được ghi nhớ. Phần lớn những người chăn nuôi gia súc vẫn giữ được các kỹ năng cưỡi ngựa và khả năng đánh trận. Sự bất mãn chống lại nhà Tấn và vị trí thấp kém của họ luôn nhắc nhở họ càng tìm kiếm một quốc gia tự trị của người Hung Nô. Điều này được thể hiện trong câu nói của một trong số các thủ lĩnh "kể từ khi nhà Hán sụp đổ, nhà Ngụy và nhà Tấn đã nối tiếp nhau. Mặc dù Thiền vu của chúng ta [Hung Nô] đã có danh phận cha truyền con nối, nhưng không có một chỗ đứng trên lãnh thổ có chủ quyền".
Các diễn biến trong Loạn bát vương cuối cùng đã có lợi cho người Hung Nô. Lưu Uyên đã thu được nhiều lợi ích từ một Thành Đô Vương (Tư Mã Dĩnh) đã tuyệt vọng, người bị đánh bại tại căn cứ Nghiệp Thành (鄴城) để tập hợp được khoảng 50.000 chiến binh Hung Nô.
Sau đó Lưu Uyên tự xưng "Hán Vương", một tước hiệu đã được Lưu Bang (người sáng lập ra nhà Hán) dùng hàng thế kỷ trước đó - một sự chấp nhận có tính toán về nhà Hán đã sụp đổ từ trước đó rất lâu, dựa trên các cuộc hôn nhân hỗn hợp thời kỳ đầu của các thiền vu Hung Nô và các công chúa nhà Hán, để tranh thủ lực lượng tấn công những kẻ tiếm ngôi (nhà Ngụy và nhà Tấn). Lưu Uyên hy vọng là địa vị pháp lý chính thống như vậy sẽ giúp ông có được sự ủng hộ của các quý tộc Trung Hoa. Các động cơ chính trị của ông cũng góp phần giải thích việc chấp nhận và áp dụng hệ tư tưởng-chính trị của đẳng cấp quý tộc Trung Hoa.
Diệt Tây Tấn
Tuy nhiên, sự tuyên bố như vậy vẫn chỉ là danh nghĩa - các cố gắng trận mạc của Lưu Uyên cuối cùng đã vượt quá kế hoạch chính thống ban đầu của ông. Nhà nước Hán của ông đã thu được sự ủng hộ của một số thủ lĩnh các bộ lạc phi Hán như người Tiên Ti và người Đê và một số lực lượng lục lâm thảo khấu, bao gồm cả lực lượng của cựu nô lệ Thạch Lặc người Yết. Tuy nhiên, Bộ lạc Thác Bạt (拓拔) láng giềng (là những người Tiên Ti du canh du cư hùng mạnh tại Nội Mông Cổ ngày nay và miền Bắc Sơn Tây), dưới sự lãnh đạo của thủ lĩnh của họ là Thác Bạt Y Lư đã xâm phạm vào khu vực sinh sống của người Hung Nô của Nhà nước Hán mới này. Một nhà nước Hung Nô hùng mạnh có thể là vật cản trở hy vọng của người Thác Bạt trong việc di cư vào khu vực này.
Về một phía, người Thác Bạt có được sự giúp đỡ của nhà Tấn tại khu vực Bình để phản công chống lại nhà nước Hán. Ở bên kia là kỵ binh Hung Nô, rất thành công trong việc cướp bóc mọi nơi, nhưng đã thất bại trong việc chiếm thành Tấn Dương (晉陽 - thành phố Thái Nguyên, thủ phủ tỉnh Sơn Tây ngày nay), thủ phủ khu vực Bính, mặc dù tướng giữ thành Tư Mã Đằng đã bỏ chạy vào khu vực Đồng bằng Hoa Bắc và để lại một sự hỗn loạn. Tướng giữ thành mới là Lưu Côn, đã chấn chỉnh lại việc giữ thành và lợi dụng mâu thuẫn giữ người Thác Bạt và Hung Nô để kiếm lợi. Lòng trung thành của người Thác Bạt đã được tưởng thưởng - Năm địa khu đã được thưởng cho Thác Bạt Ỷ Lư vào năm 310 và ông cũng được phong vương tại đất Đại. Khu vực xung quanh Tấn Dương còn nằm trong tay nhà Tấn cho đến tận khi Thác Bạt Ỷ Lư chết năm 316 và bị hạ sau một cuộc phản công thảm khốc. Lưu Côn bỏ chạy nhưng sau đó bị thủ lĩnh của người Tiên Ti Đoàn Thất Đạn sát hại.
Năm 310, Lưu Uyên chết, Lưu Thông lên thay, tiếp tục tấn công Tây Tấn. Năm 311, quân Hung Nô đánh bại quân nhà Tấn trên chiến trường và từ mọi ngả kéo về kinh đô Lạc Dương. Các mãnh tướng Thạch Lặc, Lưu Diệu, Hô Diên Yến đánh hạ được Lạc Dương, giết 3 vạn quân Tấn, bắt sống Tấn Hoài Đế.
Năm 313, Hoài Đế bị làm nhục và tử hình. Triều thần nhà Tấn lập Tư Mã Nghiệp làm Tấn Mẫn Đế tại Trường An, nhưng tới năm 316, Lưu Thông lại điều binh đánh chiếm Trường An, bắt gọn Mẫn Đế. Mẫn Đế cũng không tránh khỏi số phận như Hoài Đế, bị làm nhục và bị giết.
Tan rã
Tất cả những người cai trị Nhà nước Hán Triệu đều tự xưng "Hoàng đế". Các vua Hán Triệu nói chung là những người thông minh và ăn nói lưu loát, nhưng thiếu sự kiềm chế và thể hiện sự tàn độc thái quá trên chiến trường. Điển hình cho tính cách này là Lưu Thông (劉聰, tức Chiêu Vũ Đế nhà Hán Triệu) (310-318), là người có khả năng thấy được các kế hoạch chiến lược tốt từ những điều xấu, nhưng buông thả trong rượu và phụ nữ, và kiểu cách cư xử thất thường của ông thường dẫn đến cái chết của những quan chức trung thực nhất. Vì thế Hán Triệu là quốc gia không bao giờ thể hiện hết được tiềm năng của mình - nhà nước này có nhiều tướng lĩnh tài năng và quân đội hùng mạnh khi được sử dụng hợp lý, nhưng chưa bao giờ kết thúc được các cuộc chinh phục mà các vị vua đã đề ra và cuối cùng đã rơi vào tay viên tướng cũ Thạch Lặc.
Mặc dù theo biên niên sử thì Hán Triệu không phải là mạnh nhất trong số 16 quốc gia, nhưng quân đội của nhà nước này đã cướp phá các kinh đô nhà Tây Tấn tại Lạc Dương năm 311 và Trường An năm 316. Quan lại và Hoàng tộc nhà Tây Tấn phải dời đến Kiến Khang, nằm ở phía đông Lạc Dương và Trường An và thành lập nên nhà Đông Tấn, dưới quyền Tư Mã Duệ, sau này trở thành Tấn Nguyên Đế.
Năm 318, Lưu Thông chết. Lưu Xán (Hán Ấn Đế) và Hoàng tộc tại Lâm Phần đã bị lật đổ và tử hình trong một vụ chính biến cung đình do Cách Chuẩn cầm đầu. Nhưng sau đó chính Chuẩn lại bị Thạch Lặc và Lưu Diệu trừ khử. Lưu Diệu, trong vai trò của Hoàng tử kế vị, đã lên ngôi và đổi tên Quốc gia thành Triệu. Nhà nước Hán Triệu kéo dài đến năm 329 khi Thạch Lặc đánh bại Lưu Diệu tại trận chiến trên sông Lạc. Lưu Diệu bị bắt sống và tử hình; các con ông không chống nổi các trận chiến kế tiếp.
Nước Hán Triệu tồn tại được 25 năm, có tất cả sáu vua.
Các vị vua Hán Triệu
Lưu ý: Lưu Hy là người kế vị của Lưu Diệu, là người lên nắm quyền khi Lưu Diệu bị bại trận trước Vua nhà Hậu Triệu Thạch Lặc bắt sống, nhưng không bao giờ có niên hiệu, miếu hiệu và thụy hiệu.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Năm 315 **Hán Triệu** (tiếng Trung giản thể: 汉赵, phồn thể 漢趙, bính âm: Hànzhào) 304-329 là một tiểu quốc trong thời kỳ Ngũ Hồ thập lục quốc vào cuối thời kỳ nhà Tây Tấn
**Lưu Hòa** () (?-310), tên tự **Huyền Thái** (玄泰), là hoàng đế thứ hai của nhà Hán Triệu trong lịch sử Trung Quốc. Ông chỉ trị vì trong bảy ngày vào năm 310. Lưu Hòa
**Lương Châu** là một châu do nhà nước Hán Triệu thời Ngũ Hồ thập lục quốc thành lập vào năm 327 tại khu vực ngày nay nằm trong tỉnh Cam Túc, Trung Quốc và chỉ
**Chiến tranh Hán – Triều Tiên** (tiếng Trung: 汉灭卫氏朝鲜之战; Hán – Việt: _Hán diệt Vệ thị Triều Tiên chi chiến_) là cuộc chiến tranh do Hán Vũ Đế phát động nhằm chinh phục chính quyền
**Sông Hán** hay **Hán giang** () là con sông lớn ở Hàn Quốc, là con sông dài thứ tư ở bán đảo Triều Tiên sau các sông Áp Lục, Đồ Môn, Lạc Đông. Sông Hán
**Từ Hán-Triều** hay **Từ Hán-Hàn** là từ vựng tiếng Triều Tiên có nguồn gốc trực tiếp hay gián tiếp từ tiếng Trung Quốc qua Hanja (Hán tự) và các từ được tạo thành từ chúng
## Lịch sử Tây Hán ### Cao Đế khai quốc Ba tháng đầu tiên sau cái chết của Tần Thủy Hoàng tại Sa Khâu, các cuộc nổi dậy của nông dân, tù nhân, binh sĩ
**Nhà Hán** là hoàng triều thứ hai trong lịch sử Trung Quốc, do thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Lưu Bang thành lập và được cai trị bởi gia tộc họ Lưu. Tiếp nối nhà
**Nam Bắc triều** (, 420-589) là một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ năm 420 khi Lưu Dụ soán Đông Tấn mà lập nên Lưu Tống, kéo dài đến năm 589
**Nhà Triệu** () là triều đại duy nhất cai trị nước **Nam Việt** (ngày nay gồm 1 phần của Miền Nam Trung Quốc và Miền Bắc Việt Nam) suốt giai đoạn 204–111 trước Công nguyên
**Chiến tranh Hán-Sở** (漢楚爭雄 _Hán Sở tranh hùng_, 楚漢戰爭 _Sở Hán chiến tranh_, 楚漢相爭 _Sở Hán tương tranh_ hay 楚漢春秋 _Sở Hán Xuân Thu_, 206–202 TCN) là thời kỳ sau thời đại nhà Tần ở
**Triều đại trong lịch sử Trung Quốc**, hay **triều đại Trung Quốc**, ý chỉ các chế độ quân chủ thế tập cai trị Trung Quốc trong phần lớn chiều dài lịch sử nước này. Kể
**Tiếng Hàn Quốc**, **Tiếng Hàn** hay **Hàn ngữ** ( - cách gọi của Hàn Quốc) hoặc **Tiếng Triều Tiên** hay **Triều Tiên ngữ** ( - cách gọi của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều
**Hán Thành Đế** (chữ Hán: 汉成帝; 51 TCN – 17 tháng 4, 7 TCN), húy **Lưu Ngao** (劉驁) là vị Hoàng đế thứ 12 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai
**Triệu Vũ Linh vương** (chữ Hán: 趙武靈王, 356 TCN - 295 TCN), tên thật là **Triệu Ung** (趙雍), là vị vua thứ sáu của nước Triệu - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung
**Hán Hiến Đế** (Giản thể: 汉献帝; phồn thể: 漢獻帝; 2 tháng 4 năm 181 - 21 tháng 4 năm 234), tên thật là **Lưu Hiệp** (劉協), tự là **Bá Hòa** (伯和), là vị Hoàng đế
**Hậu Triệu** (tiếng Trung giản thể: 后赵, phồn thể: 後趙, bính âm: Hòuzhào; 319-352) là một quốc gia thuộc Ngũ Hồ thập lục quốc trong thời Đông Tấn (265-420) tại Trung Quốc. Nhà nước này
**Hiếu Văn Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文竇皇后; 205 - 135 TCN), còn gọi là **Đậu Thái hậu** (竇太后), kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị duy nhất của Hán Văn Đế Lưu Hằng,
Lịch sử quân sự Triều Tiên kéo dài hàng nghìn năm, bắt đầu từ Cổ Triều Tiên và tiếp tục cho đến ngày nay với Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên. Các nhà quân sự
**Triệu** (Phồn thể: 趙國, Giản thể: 赵国) là một quốc gia chư hầu có chủ quyền trong thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Triệu là nước có vai trò đáng kể trong giai
**Người Hán** (, Hán Việt: Hán nhân; , Hán Việt: Hán tộc) còn gọi là **người Hoa, người Tàu**, **người Trung Quốc**, **người Trung Hoa**, **người Hoa Hạ** là một nhóm dân tộc và quốc
**Triệu Dương Vương** (趙陽王), hay **Triệu Thuật Dương Vương** (趙術陽王), **Triệu Vệ Dương Vương** (趙衛陽王), tên họ thật là **Triệu Kiến Đức** (趙建德), trị vì từ năm 112 TCN – 111 TCN, là vị vua
**_Đông Quán Hán ký_** (chữ Hán: 东观汉记), người đời Hán gọi là _Đông Quán ký_, là bộ sách theo thể kỷ truyện ghi lại lịch sử đời Đông Hán, từ thời Hán Quang Vũ Đế
**Tiếng Bắc Triều Tiên chuẩn**, còn gọi là **tiếng Triều Tiên tiêu chuẩn** hoặc **tiếng văn hóa Triều Tiên** mà người Triều Tiên (miền bắc) gọi là **Munhwaŏ** () còn người Hàn Quốc (miền nam)
**Hán Minh Đế** (chữ Hán: 漢明帝; 15 tháng 6, 28 – 5 tháng 9, 75), húy **Lưu Trang** (劉莊), cũng gọi **Hán Hiển Tông** (漢顯宗), là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Đông Hán,
nhỏ|Triều Tiên học|221x221px **Triều Tiên học** hay **Hàn Quốc học** (Hangul: 한국학, tiếng Anh: Korean studies) là một chuyên ngành học thuật tập trung nghiên cứu khu vực bán đảo Triều Tiên (bao gồm Đại
upright=1.2|nhỏ|Năm bước trong quá trình làm giấy, được [[Thái Luân phát minh vào năm 105, thời Đông Hán]] Triều đại nhà Hán (206 TCN - 220) thời cổ Trung Hoa, chia ra làm hai giai
Đây là **danh sách tên người Triều Tiên** xếp theo loại. Hầu hết tên người Triều Tiên bao gồm hai chữ Hán-Triều và có thể được viết bằng chữ hanja. Tuy vậy, cũng có những
**Minh Đức Mã hoàng hậu** (chữ Hán: 明德馬皇后; ? - 9 tháng 7, 79), hay thường gọi **Minh Đức hoàng thái hậu** (明德皇太后), **Đông Hán Minh Đức Mã hoàng hậu** (東漢明德馬皇后), **Đông Hán Mã thái
**Âm Hán Việt** (音漢越) là thuật ngữ chỉ các âm đọc của chữ Hán được người nói tiếng Việt xem là âm đọc chuẩn dùng để đọc chữ Hán trong văn bản tiếng Hán vào
**Triệu Liệt hầu** (chữ Hán: 趙烈侯, trị vì: 408 TCN - 400 TCN), tên thật là **Triệu Tịch** (趙籍), là vị vua đầu tiên của nước Triệu - chư hầu nhà Chu thời Chiến Quốc
Giống như tiếng Trung và tiếng Nhật, tiếng Triều Tiên sử dụng từ **đo lường** hoặc **từ để đếm** để đếm đồ vật hoặc sự kiện, trong tiếng Triều Tiên gọi là _subullyusa_ (Hangeul:수분류사 /
**Hán thư** (Phồn thể: 漢書; giản thể: 汉书) là một tài liệu lịch sử Trung Quốc cổ đại viết về giai đoạn lịch sử thời Tây Hán từ năm 206 TCN đến năm 25. Đôi
**Hiếu Bình Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝平王皇后; 4 TCN – 23), còn gọi là **Hiếu Bình Vương hậu** (孝平王后) hoặc **Hoàng Hoàng Thất chúa** (黃皇室主), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Bình Đế
**Hàn Tuyên Huệ vương** (chữ Hán: 韓宣惠王; trị vì: 332 TCN – 312 TCN), hay **Hàn Uy hầu** (韓威侯), tên là **Hàn Khang**, là vị vua thứ 7 của nước Hàn - chư hầu nhà
**Tiếng Hàn Quốc tiêu chuẩn** mà người Hàn gọi là **Pyojun-eo** () là ngôn ngữ tiêu chuẩn của tiếng Hàn Quốc (hay tiếng Triều Tiên) mà chính phủ Đại Hàn Dân Quốc quy định dựa
**Hàn Ai hầu** (chữ Hán: 韓哀侯, trị vì 376 TCN – 374 TCN), là vị vua thứ tư của nước Hàn - chư hầu nhà Chu thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ai
**Chủ nghĩa thuần huyết Triều Tiên** hay **Chủ nghĩa dân tộc sắc tộc Triều Tiên** là một học thuyết ý thức hệ chính trị và một dạng xác nhận nhân chủng cũng như sắc tộc
**Triệu Túc hầu** (chữ Hán: 趙肅侯, trị vì 349 TCN - 326 TCN), tên thật là **Triệu Ngữ** (趙語), là vị vua thứ năm của nước Triệu - chư hầu nhà Chu thời Chiến Quốc
**Hiếu Tuyên Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝宣王皇后, ? - 16 TCN), còn gọi là **Cung Thành Thái hậu** (邛成太后), là Hoàng hậu thứ ba của Hán Tuyên Đế, vị Hoàng đế thứ 10 của
**Chiến tranh Trung Quốc – Triều Tiên** là những cuộc chiến xảy ra giữa Trung Quốc và Triều Tiên trong suốt chiều dài lịch sử. ## Dòng thời gian * Chiến tranh Yên – Cổ
thumb|Công viên Yeouido Hangang vào mùa xuân **Công viên sông Hán** hay **Công viên Hangang** (Tiếng Hàn: 한강공원, Hanja: 漢江公園) hay tên gọi chính thức là **Công viên công dân Hangang** (Tiếng Hàn: 한강시민공원, Hanja:
**Quốc vụ Tổng lý** (국무총리 / 國務總理, Gukmuchongri) hay **Thủ tướng Hàn Quốc** là phó người đứng đầu chính phủ của Hàn Quốc. Thủ tướng được Tổng thống bổ nhiệm với sự phê chuẩn của
**Đại Hàn Dân Quốc**, gọi tắt là **Hàn Quốc**, là một quốc gia ở Đông Á; cấu thành nửa phía nam bán đảo Triều Tiên và ngăn cách với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
**Hàn Tín** (; 230 TCN – 196 TCN), thường gọi theo tước hiệu là **Hoài Âm hầu** (淮陰候), là một danh tướng của nhà Hán được người đời sau ca ngợi là Binh Tiên với
**Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** (), gọi ngắn là **Triều Tiên** (, MR: Chosŏn) hay **Bắc Triều Tiên** (, MR: Puk-chosŏn) là một quốc gia ở Đông Á, tạo thành nửa phía
**Triệu Phi Yến** (Phồn thể: 趙飛燕; giản thể: 赵飞燕; 45 TCN - 1 TCN), còn gọi **Hiếu Thành Triệu Hoàng hậu** (孝成趙皇后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Thành Đế Lưu Ngao - vị
**Triều Tiên** (theo cách sử dụng tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên: Chosŏn'gŭl: 조선, Hanja: 朝鮮, McCune–Reischauer: Chosǒn), **Hàn Quốc** (theo cách sử dụng tại Đại Hàn Dân Quốc: ), **liên Triều**
**Triệu Vũ Đế** (chữ Hán: 趙武帝, 257 TCN hoặc 235 TCN - 137 TCN), húy **Triệu Đà** (chữ Hán: 趙佗), là vị vua đầu tiên của nước Nam Việt và nhà Triệu, án ngữ tại
liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp tin:2018_inter-Korean_summit_01.jpg|nhỏ|Tổng thống Hàn Quốc [[Moon Jae-in (phải) và Chủ tịch Triều Tiên Kim Jong-un (trái), tháng 4/2018.]] **Quan hệ Nam-Bắc Triều Tiên**, **Quan hệ Nam-Bắc Hàn** hay **Quan hệ Liên Triều** (Quan hệ Đại