✨Bắc Ngụy Hiếu Vũ Đế

Bắc Ngụy Hiếu Vũ Đế

Bắc Ngụy Hiếu Vũ Đế (chữ Hán: 北魏孝武帝; 510 – 3 tháng 2, 535), tên húy là Nguyên Tu (元脩 hay 元修), tên tự Hiếu Tắc (孝則), vào một số thời điểm được gọi là Xuất Đế (出帝, "hoàng đế bỏ trốn"), là vị hoàng đế cuối cùng của triều đại Bắc Ngụy thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc.

Sau khi tướng Cao Hoan nổi loạn và đánh bại gia tộc của Nhĩ Chu Vinh vào năm 532, người này đưa Hiếu Vũ Đế lên ngôi. Mặc dù vậy, Hiếu Vũ Đế cố gắng thoát khỏi tầm kiểm soát của Cao Hoan, và đến năm 534, ông cùng với tướng Vũ Văn Thái chính thức đoạn tuyệt với Cao Hoan. Khi Cao Hoan tiến về phía nam nhằm giành lại quyền kiểm soát triều đình, Hiếu Vũ Đế chạy trốn đến lãnh địa của Vũ Văn Thái, khiến Bắc Ngụy bị phân làm hai phần (Cao Hoan sau đó lập Nguyên Thiện Kiến lên ngôi, thiết lập triều Đông Ngụy). Tuy nhiên, quan hệ giữa Hiếu Vũ Đế và Vũ Văn Thái nhanh chóng trở nên xấu đi khi Vũ Văn Thái từ chối tha thứ cho các mối quan hệ tình ái với em họ của Hiếu Vũ Đế. Cuối cùng Vũ Văn Thái hạ độc giết chết Hiếu Vũ Đế. Sở dĩ nói Nguyên Tu là vị hoàng đế cuối cùng của Bắc Ngụy, bởi vì sau khi ông qua đời, Bắc Ngụy chính thức bị phân chia thành 2 miền đông tây, phía Tây thành lập bởi quyền thần Vũ Văn Thái đã lập một hoàng thân trong hoàng tộc Bắc Ngụy là Nguyên Bảo Cự lên ngôi, và đóng đô ở Trường An nên sử gọi là Tây Ngụy. Còn phía Đông thành lập bởi quyền thần Cao Hoan cũng lập một hoàng thân khác là Nguyên Thiện Kiến lên ngôi, và đóng đô ở Nghiệp Thành nên sử gọi là Đông Ngụy.

Bối cảnh

Nguyên Tu là con trai thứ ba của Quảng Bình vương Nguyên Hoài (元懷), Nguyên Hoài là con trai của Hiếu Văn Đế và em trai của Tuyên Vũ Đế. Mẹ ông là Lý thị. Năm 517, Nguyên Hoài qua đời.

Vào thời niên thiếu, Nguyên Tu được miêu tả là có tính trầm hậu, ít nói, ham thích việc quân sự. Năm 18 tuổi, thời Hiếu Minh Đế, Nguyên Tu được phong là làm Nhữ Dương huyện công. Ông cũng giữ chức Tán kị thị lang, rồi Trung thư thị lang. Thời Hiếu Trang Đế, đầu niên hiệu Kiến Nghĩa (528), Nguyên Tu bị bỏ chức Tán kị thường thị, chuyển sang giữ chức Bình Đông tướng quân, kiêm Thái thường khanh; rồi giữ chức Trấn Đông tướng quân, Tông chính khanh. Năm Vĩnh An thứ 3 (530), ông được thăng làm Bình Dương vương. Đầu niên hiệu Phổ Thái (531), ông chuyển sang giữ chức Thị trung, Trấn Đông tướng quân, Nghi đồng tam ti, kiêm Thượng thư hữu bộc xạ; rồi lại được thăng làm Thị trung, Thượng thư tả bộc xạ.

Ngày Mậu Tý (25) tháng 4 năm Nhâm Tý (11 tháng 6 năm 532), Nguyên Tu tức vị tại bên ngoài Đông quách, nhập ngự Thái Cực điện, quần thần triều hạ. Nguyên Tu lên Xương Hạp môn, tuyên bố đại xá, cải nguyên Thái Xương. Ông bổ nhiệm Cao Hoàn làm đại thừa tướng, Thiên trụ đại tướng quân, Thái sư, được thế tập giữ chức Định châu thứ sử.

Trị vì ở Lạc Dương

Ngày Bính Thân (3) tháng 5 (21 tháng 6), Hiếu Vũ Đế dùng rượu độc giết chết Tiết Mẫn Đế. Đến ngày Giáp Thìn (14) tháng 11 (26 tháng 12), ông cho giết Nguyên Lãng và một phế đế khác là Nguyên Diệp. Sang tháng 12 ÂL, ông cho giết hoàng thúc Nguyên Duyệt.

Cũng trong tháng 12 năm đó, ông cải niên hiệu sang Vĩnh Hưng, song do cùng hiệu với Minh Nguyên Đế nên trong cùng tháng lại cải sang Vĩnh Hy. Cùng tháng, Hiếu Vũ Đế lấy con gái của Cao Hoan làm hoàng hậu.

Sau khi chiều theo ý Cao Hoan vào lúc đầu, ông bắt đầu cai trị với các phò tá là Hộc Tư Xuân và cộng sự của ông ta tên là Vương Tư Chính, ra nhiều quyết định trái với quan điểm của Cao Hoan, đặc biệt là sau khi Cao Hoan đánh bại thành viên chính cuối cùng của gia tộc Nhĩ Chu là Nhĩ Chu Triệu. Hiếu Vũ Đế bí mật liên lạc với Hạ Bạt Nhạc, người đang kiểm soát các châu phía tây, và cũng phong cho em trai của Hạ Bạt Nhạc là Hạ Bạt Thắng làm chỉ huy các châu phía nam, muốn dựa vào anh em Hạ Bạt để chống lại Cao Hoan. Căng thẳng cũng tăng lên khi Cao Hoan muốn kiểm soát thêm nhiều châu còn Hiếu Vũ Đế cũng mong muốn giành quyền kiểm soát các châu từ Cao Hoan.

Mùa xuân năm 534, tướng bằng hữu của Hạ Bạt Nhạc là Hầu Mạc Trần Duyệt ám sát Hạ Bạt Nhạc do bị Cao Hoan xúi giục. Quân của Hạ Bạt Nhạc ủng hộ phụ tá của Hạ Bạt Nhạc là Vũ Văn Thái lên thay thế, và Vũ Văn Thái ngay sau đó đánh bại Hầu Mạc Trần Duyệt. Hiếu Vũ Đế tiếp tục tham gia thảo luận với Vũ Văn Thái (Hạ Bạt Nhạc trước đó cử Vũ Văn Thái làm liên lạc giữa ông ta với Hiếu Vũ Đế) để chống lại Cao Hoan. Đến mùa hè năm 534, Hiếu Vũ Đế chuẩn bị quân lính và tin rằng ông có thể bất ngờ bắt giữ Cao Hoan. Hoàng đế trao mật chỉ cho Cao Hoan giả vờ rằng ông nghi ngờ Vũ Văn Thái và Hạ Bạt Thắng nổi loạn và lập kế hoạch tấn công họ cùng với Cao Hoan. Tuy nhiên, Cao Hoan nhận ra âm mưu của Hiếu Vũ Đế nên tiến quân về Lạc Dương. Vương Tư Chính tin rằng quân triều đình không đủ sức kháng lại quân của Cao Hoan nên thuyết phục Hiếu Vũ Đế chạy đến lãnh địa của Vũ Văn Thái, và Hiếu Vũ Đế làm theo, bất chấp lời đề nghị ở lại Lạc Dương của Hộc Tư Xuân. Cỏ vẻ như Cao Hoan chỉ mất một tháng để tiếp cận Lạc Dương, và Hiếu Vũ Đế chạy trốn về phía tây, gặp được quân của Vũ Văn Thái trên đường và được hộ tống đến đại bản doanh của Vũ Văn Thái tại Trường An. Tại đây, Hiếu Vũ Đế tái lập triều đình và phong Vũ Văn Thái làm thượng trụ. Ông cũng gả em gái Phùng Dực công chúa cho Vũ Văn Thái.

Chạy trốn đến Trường An và qua đời

Trong khi đó, Cao Hoan nắm quyền kiểm soát khu vực Lạc Dương, và ngay sau đó cũng đánh bại Hạ Bạt Thắng, chiếm được lãnh địa và buộc Hạ Bạt Thắng phải chạy trốn đến Lương. Cao Hoan sau đó nhiều lần viết thư thỉnh cầu Hiếu Vũ Đế trở về Lạc Dương và hứa sẽ vẫn để ông giữ ngai vàng. Tuy nhiên, Hiếu Vũ Đế không đáp lại bất kỳ lời đề nghị nào của Cao Hoan. Do đó, Cao Hoan lập Nguyên Thiện Kiến, con trai của Thanh Hà vương Nguyên Đản (元亶, em họ của Hiếu Vũ Đế) lên ngôi và dời đô từ Lạc Dương đến Nghiệp Thành, do đó chính thức phân Bắc Ngụy ra làm hai nửa (Đông Ngụy dưới quyền cai trị của Hiếu Tĩnh Đế và Tây Ngụy dưới quyền Hiếu Vũ Đế), mặc dù cả hai đều tuyên bố mình là triều đại hợp pháp.

Lúc này, mối quan hệ của Hiếu Vũ Đế với Vũ Văn Thái xấu đi. Khi còn ở Lạc Dương, Hiếu Vũ Đế có các mối quan hệ tình ái với ba trong số các em họ là Bình Nguyên công chúa Nguyên Minh Nguyệt (元明月), An Đức công chúa, và công chúa Nguyên Tật Lê (元蒺藜). Nguyên Minh Nguyệt đi theo Hiếu Vũ Đế đến Trường An, song Vũ Văn Thái không chấp thuận mối quan hệ này và thuyết phục các thân vương bắt giữ và giết chết bà. Hiếu Vũ Đế hết sức tức giận, và ông thường xuyên sử dụng cung hoặc đập bàn bên trong cung điện để bày tỏ sự bất mãn của mình. Khoảng tết năm 535, ông uống rượu có pha thuốc độc rồi qua đời và có vẻ chuyện này do các sát thủ của Vũ Văn Thái tiến hành. Vũ Văn Thái lập một họ hàng của ông là Nam Dương vương Nguyên Bảo Cự (anh trai cùng cha mẹ với Nguyên Minh Nguyệt) làm hoàng đế, tức Văn Đế.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Bắc Ngụy Hiếu Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏孝武帝; 510 – 3 tháng 2, 535), tên húy là **Nguyên Tu** (元脩 hay 元修), tên tự **Hiếu Tắc** (孝則), vào một số thời điểm được gọi là
**Cao hoàng hậu** (chữ Hán: 高皇后, không rõ tên thật) là Hoàng hậu của Bắc Ngụy Hiếu Vũ Đế Nguyên Tu trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Phụ thân của Cao Hoàng hậu
**Bắc Ngụy Tuyên Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏宣武帝; 483 – 13/1 ÂL (12/2 DL) 515), tên húy lúc sinh là **Thác Bạt Khác** (拓拔恪), sau đổi thành **Nguyên Khác** (元恪) là hoàng đế thứ tám
**Bắc Ngụy Đạo Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏道武帝; 371–409), tên húy là **Thác Bạt Khuê** (拓拔珪), tên lúc sinh là **Thác Bạt Thiệp Khuê** (拓拔渉珪), là hoàng đế khai quốc của triều đại Bắc Ngụy
**Bắc Ngụy Thái Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏太武帝; 408 – 11 tháng 3, 452), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông thường được nhìn nhận
**Bắc Ngụy Hiếu Minh Đế** (chữ Hán: 北魏孝明帝; 510 – 31/3/528) tên húy là **Nguyên Hủ** (), là hoàng đế thứ chín của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Do ông chỉ
**Bắc Ngụy Hiếu Trang Đế** (chữ Hán: 北魏孝莊帝; 507–531), tên húy là **Nguyên Tử Du** (), là hoàng đế thứ 11 triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông được tướng Nhĩ Chu
**Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế** (chữ Hán: 北魏孝文帝; 13 tháng 10 năm 467 – 26 tháng 4 năm 499), tên húy lúc sinh là **Thác Bạt Hoành** (拓拔宏), sau đổi thành **Nguyên Hoành** (元宏), là
**Hiếu Văn U Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文幽皇后; 469 - 499), cũng gọi **Cao Tổ U hậu** (高祖幽后), là Hoàng hậu thứ hai của Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế Nguyên Hoành của triều Bắc Ngụy
**Hiếu Văn Phế Hoàng hậu Phùng thị** (chữ Hán: 孝文廢皇后馮氏) là nguyên phối Hoàng hậu của Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế Nguyên Hoành của triều Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử
**Nhĩ Chu Hoàng hậu** (chữ Hán: 爾朱皇后), không rõ tên thật, là Hoàng hậu của Bắc Ngụy Tiết Mẫn Đế Nguyên Cung trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Khá ít thông tin về
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
**Minh Nguyên Mật hoàng hậu** (chữ Hán: 明元密皇后; ? - 420), còn gọi là **Đỗ phu nhân** (杜夫人) hoặc **Mật quý tần** (密贵嫔), là người huyện Nghiệp Nhân, Ngụy quận, là phi tần của Bắc
**Hiếu Vũ Đế** (chữ Hán: 孝武帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ. ## Danh sách * Tây Hán Hiếu Vũ Đế (thường được gọi tắt là Hán Vũ Đế) * Đông Tấn
**Đông Ngụy Hiếu Tĩnh Đế** (東魏孝靜帝) (524–552), tên húy là **Nguyên Thiện Kiến** (元善見), là hoàng đế duy nhất của triều đại Đông Ngụy, một nhà nước kế thừa triều đại Bắc Ngụy trong lịch
**Bắc Ngụy Văn Thành Đế** (chữ Hán: 北魏文成帝; 440–465), tên húy là **Thác Bạt Tuấn** (), là hoàng đế thứ năm của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông đăng cơ sau
**Bắc Ngụy Tiết Mẫn Đế** () (498 – 21/6/532), cũng gọi là **Tiền Phế Đế** (前廢帝), hay còn được gọi với tước hiệu trước khi lên ngôi là **Quảng Lăng vương** (廣陵王), tên húy là
**Bắc Ngụy Hiến Văn Đế** (chữ Hán: 北魏獻文帝; 454–476), tên húy là **Thác Bạt Hoằng** (), là hoàng đế thứ sáu của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Năm 471, ông trở
**Cao hoàng hậu** (chữ Hán: 高皇后) là hoàng hậu của Đông Ngụy Hiếu Tĩnh Đế Nguyên Thiện Kiến, hoàng đế duy nhất của triều đại Đông Ngụy, một nhà nước kế thừa triều đại Bắc
**Nhà Bắc Ngụy** (tiếng Trung: 北魏朝, bính âm: běi wèi cháo, 386–535), còn gọi là **Thác Bạt Ngụy** (拓拔魏), **Hậu Ngụy** (後魏) hay **Nguyên Ngụy** (元魏), là một triều đại thời Nam Bắc triều trong
**Hồ thái hậu** (chữ Hán: 胡太后, ? - 17 tháng 5, năm 528), còn thường gọi là **Linh thái hậu** (靈太后), một phi tần của Bắc Ngụy Tuyên Vũ Đế, và Hoàng thái hậu nhiếp
**Chiến tranh Nam Tề-Bắc Ngụy** diễn ra vào thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Nam Tề và nhà Bắc Ngụy. Từ năm 479 đến năm 500, Nam Tề cùng Bắc Ngụy
**Chiến tranh Lương-Ngụy, 528-529** là cuộc chiến tranh giữa hai nước Lương và Bắc Ngụy thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Cuộc chiến này là một phần của chiến tranh Lương-Bắc Ngụy, một
**Bắc Chu Hiếu Mẫn Đế** (chữ Hán: 北周孝閔帝) (542-557, tại vị: 557) là vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Bắc Chu. ## Thân thế Ông nguyên tên là **Vũ Văn Giác** (), tên tự
**Tân Hùng** (chữ Hán: 辛雄, 485 – 534), tự Thế Tân, người Địch Đạo, Lũng Tây , quan viên cuối đời Bắc Ngụy. ## Khởi nghiệp Cha là Tân Sướng, tự Ấu Đạt, được làm
**Hầu Mạc Trần Kiến** (chữ Hán: 侯莫陈建, ? – 485), quen gọi là **Trần Kiến**, người bộ lạc Hầu Mạc Trần, dân tộc Tiên Ti, có hộ tịch ở quận Đại (nay thuộc Sơn Tây),
**Bùi Tuyên** (chữ Hán: 裴宣, 454 – 511), tự Thúc Lệnh, người huyện Văn Hỷ, quận Hà Đông , là quan viên nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. ## Thiếu thời Cha là
**Lý Mậu** (chữ Hán: 李茂, 432 – 502), tên tự là **Trọng Tông**, người huyện Địch Đạo, quận Lũng Tây , quan viên nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc.
**Bắc Tề Hiếu Chiêu Đế** (chữ Hán: 北齊孝昭帝; 535–561), tên húy là **Cao Diễn** (高演), tên tự là **Diên An** (延安), là hoàng đế thứ ba của triều Bắc Tề trong lịch sử Trung Quốc.
**Nguyên hoàng hậu** (chữ Hán: 元皇后) là hoàng hậu của Bắc Tề Hiếu Chiêu Đế Cao Diễn trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Nguyên hoàng hậu thuộc dòng dõi hoàng tộc Bắc Ngụy.
**An Đồng** (chữ Hán: 安同, ? – 429), sinh quán Liêu Đông, là quan viên, khai quốc công thần nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. ## Xuất thân Tổ tiên của Đồng tên
**Hiếu Vũ Hoàng hậu** (_chữ Hán_:孝武皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến ở khu vực Á Đông. ## Danh sách *Tây Hán Hiếu Vũ
**Vũ Văn Thái** () (507 – 556), biệt danh là **Hắc Thát** (黑獺), tước hiệu là **An Định Văn công** (安定文公) sau được nhà Bắc Chu truy tôn là miếu hiệu Thái Tổ (太祖), thụy
**Vũ Văn Hộ** (, 513–572), biểu tự **Tát Bảo** (薩保), được phong tước **Tấn Quốc công** (晉國公), là một tông thân, đại thần nhiếp chính của triều đại Bắc Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Quảng Lăng Huệ vương **Nguyên Vũ** (chữ Hán: 元羽, 470 – 19/06/501 ), tự Thúc Phiên, hoàng tử nhà Bắc Ngụy. ## Khởi nghiệp Vũ là con trai thứ tư của Bắc Ngụy Hiến Văn
**(Lưu) Tống Hiếu Vũ Đế** (chữ Hán: 劉宋孝武帝; 19 tháng 9 năm 430 – 12 tháng 7 năm 464), tên húy là **Lưu Tuấn** (), tên tự là **Hưu Long** (休龍), tiểu tự **Đạo Dân**
**Phí Mục** (chữ Hán: 費穆, 477 – 529), tự Lãng Hưng, người quận Đại , tướng lãnh cuối đời nhà Bắc Ngụy. Ông có công tham gia trấn áp các lực lượng nổi dậy cuối
**Nguyên Lãng** () (513–532), tên tự **Trọng Triết** (仲哲), thường được biết đến với tước hiệu trước khi lên ngôi là **An Định vương** (安定王), vào một số thời điểm được gọi là **Hậu Phế
**Vũ Đế** (chữ Hán: 武帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ có tài năng về quân sự trong lịch sử khu vực Á Đông. ## Danh sách # Tây Hán Nam Việt
**Tây Ngụy Phế Đế** (西魏廢帝) (525-554), tên húy là **Nguyên Khâm** (元欽), là một hoàng đế của triều đại Tây Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông thậm chí còn có ít quyền lực thực
**Sơn Vĩ** (chữ Hán: 山伟, ? – ?), tự Trọng Tài, người dân tộc Tiên Ti, tịch quán ở Lạc Dương, Hà Nam, nguyên quán ở quận Đại (nay thuộc Sơn Tây), quan viên cuối
**Dương Quân** (chữ Hán: 杨钧, ? - 524), người Hoa Âm, Hoằng Nông , quan viên nhà Bắc Ngụy. ## Thân thế Quân là thành viên của sĩ tộc họ Dương ở quận Hoằng Nông.
**Nam Tề Vũ Đế** (chữ Hán: 南齊武帝; 440–493), tên húy là **Tiêu Trách** (), tên tự **Tuyên Viễn** (宣遠), biệt danh **Long Nhi** (龍兒), là hoàng đế thứ hai của triều đại Nam Tề trong
**Tấn Hiếu Vũ Đế** () (362–396), tên thật là **Tư Mã Diệu** (司馬曜), tên tự **Xương Minh** (昌明), là vị Hoàng đế thứ 9 của nhà Đông Tấn, và là Hoàng đế thứ 14 của
**Tuyên Vũ Đế** (_chữ Hán_ 宣武帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ. ## Danh sách * Sở Tuyên Vũ Đế (truy tôn, thụy hiệu thật là Sở Tuyên Vũ Vương, trước đó
**Hiếu Văn Đế** (chữ Hán: 孝文帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ. ## Danh sách * Tây Hán Hiếu Văn Đế (thường gọi tắt là Văn Đế, trước đó từng làm Đại
**Hiếu Trang Đế** (chữ Hán: 孝莊帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ. ## Danh sách *Bắc Ngụy Hiếu Trang Đế (có thụy hiệu khác là Vũ Hoài Đế) *Minh Hiếu Trang Đế
**Lương Võ Đế** (chữ Hán: 梁武帝; 464 – 549), tên húy là **Tiêu Diễn** (蕭衍), tự là **Thúc Đạt** (叔達), tên khi còn nhỏ **Luyện Nhi** (練兒), là vị Hoàng đế khai quốc của triều
**Bắc Tề Văn Tuyên Đế** (北齊文宣帝) (526–559), tên húy là **Cao Dương** (高洋), tên tự **Tử Tiến** (子進), miếu hiệu là Hiển Tổ, là vị hoàng đế khai quốc của triều đại Bắc Tề trong
**Vu Cẩn** (chữ Hán: 于谨, 493 – 568), tự **Tư Kính**, tên lúc nhỏ là **Cự Di**, dân tộc Tiên Ti, người Lạc Dương, Hà Nam (nay là Lạc Dương, Hà Nam), tướng lĩnh nhà