✨Bắc Ngụy Tiết Mẫn Đế

Bắc Ngụy Tiết Mẫn Đế

Bắc Ngụy Tiết Mẫn Đế () (498 – 21/6/532), cũng gọi là Tiền Phế Đế (前廢帝), hay còn được gọi với tước hiệu trước khi lên ngôi là Quảng Lăng vương (廣陵王), tên húy là Nguyên Cung (), tên tự Tu Nghiệp (脩業), là hoàng đế thứ 13 có thời gian trị vì ngắn ngủi của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông trở thành hoàng đế sau khi các thành viên tối cao trong gia tộc của tướng Nhĩ Chu Vinh lật đổ Hiếu Trang Đế sau khi vị Hoàng đế này sát hại Nhĩ Chu Vinh. Tiết Mẫn Đế đã cố gắng khôi phục lại nước Bắc Ngụy, song do quyền lực của ông bị gia tộc Nhĩ Chu kiềm chế, ông đã không thực hiện được nhiều điều. Sau khi tướng Cao Hoan đánh bại gia tộc Nhĩ Chu vào năm 532, Tiết Mẫn Đế bị giam giữ và sau đó bị Hiếu Vũ Đế hạ độc giết chết.

Bối cảnh

Nguyên Cung sinh năm 498, tức trong thời trị vì của Hiếu Văn Đế. Cha của ông là Quảng Lăng vương Nguyên Vũ (元羽), Nguyên Vũ là con trai của Hiến Văn Đế và là em trai Hiếu Văn Đế. Mẹ của Nguyên Cung là Vương thị. Năm 501, dưới thời trị vì của Tuyên Vũ Đế, Nguyên Vũ đã chết vì vết thương do phu quân của người tình của ông gây ra, người này là một quan cấp thấp tên là Phùng Tuấn Hưng (馮俊興). Nguyên Cung được thừa kế tước hiệu của Nguyên Vũ mặc dù trên Nguyên Cung vẫn còn một người anh khác tên là Nguyên Hân (元欣), và cả ông lẫn Nguyên Hân đều không phải là con trai của Trịnh Vương phi. Nguyên Cung cũng có một người em trai tên là Nguyên Vĩnh Nghiệp (元永業).

Nguyên Cung được mô tả là người tự tin và có ý chí mạnh mẽ, và cũng hiếu thảo với bà nội (truy Mạnh Thái hậu) và chính thất của cha (truy Trịnh Thái hậu). Trong thời gian Nguyên Xoa (元叉) nhiếp chính cho Hiếu Minh Đế (tức từ 520 đến 525), ông ta có xu hướng tham nhũng và bạo lực, vì thế Nguyên Cung đã giả vờ bị bệnh và không thể nói, sống trong Long Hoa tự (龍花寺). Dưới thời trị vì của Hiếu Trang Đế, có người đã tố cáo với Hiếu Trang Đế rằng Nguyên Cung chỉ giả vờ không thể nói được, và có ý phản nghịch. Khi Nguyên Cung được thông báo về tin này, ông trở nên sợ hãi và chạy trốn đến Thượng Lạc sơn (上洛山, nay thuộc Thương Châu, Thiểm Tây), song đã bị bắt và đưa về Lạc Dương. Tuy nhiên, qua thẩm vấn và điều tra, triều đình đã không có bằng chứng rằng Nguyên Cung âm mưu phản nghịch và do vậy đã thả tự do cho ông.

Năm 530, Hiếu Trang Đế lo sợ rằng Nhĩ Chu Vinh sẽ đoạt ngôi nên đã ám sát vị tướng này. Các thành viên trong gia tộc Nhĩ Chu đã nổi loạn và lập một cháu trai của Bắc Hương công chúa (chính thất của Nhĩ Chu Vinh) là Trường Quảng vương Nguyên Diệp làm hoàng đế. Khoảng tết năm 531, cháu trai của Nhĩ Chu Vinh là Nhĩ Chu Triệu (爾朱兆) đã chiếm được Lạc Dương và bắt giữ Hiếu Trang Đế rồi giết chết. Nguyên Diệp được đưa đến Lạc Dương để chính thức đăng cơ. Tuy nhiên, cháu trai của Nhĩ Chu Vinh là Nhĩ Chu Thế Long (爾朱世隆) cảm thấy không thuận lợi khi để một người họ hàng xa với các hoàng đế gần trước nhất như Nguyên Diệp lên ngôi, và muốn tìm một hoàng đế thuộc một nhánh gần với nhánh chính hơn. Một người cháu khác của Nhĩ Chu Vinh là Nhĩ Chu Thiên Quang (爾朱天光) đã đề xuất Nguyên Cung. Nhĩ Chu Thế Long cử em trai là Nhĩ Chu Ngạn Bá (爾朱彥伯) đến chỗ Nguyên Cung để buộc ông phải chấp thuận và cũng để biết chắc chắc rằng ông có thể nói được, Nguyên Cung đã chấp thuận, và Nhĩ Chu Thế Long đã buộc Nguyên Diệp phải nhường ngôi khi đến Lạc Dương. Nguyên Cung sau ba lần từ chối việc Nguyên Diệp nhường ngôi (theo thủ tục), đã nhận lời và trở thành Tiết Mẫn Đế.

Trị vì

Trong suốt thời gian trị vì của Tiết Mẫn Đế, các thành viên của gia tộc Nhĩ Chu kiểm soát phần lớn chính quyền trung ương cũng như tại các châu và trong quân sự, trong đó Nhĩ Chu Thế Long kiểm soát triều đình trung ương, Nhĩ Chu Triệu kiểm soát các châu miền bắc, Nhĩ Chu Thiên Quang kiểm soát các châu phía tây, và Nhĩ Chu Trọng Viễn (爾朱仲遠) kiểm soát các châu phía đông nam. Mặc dù vậy, Tiết Mẫn Đế đã cố gắng để tạo ảnh hưởng của mình trong các chính sách bằng các phương pháp tế nhị, và vài lần ông đã từ chối làm theo mong muốn của Nhĩ Chu Thế Long. Giả dụ, khi Nhĩ Chu Thế Long lệnh cho quan Hình Tử Tài (邢子才) viết chiếu chỉ đại xá cho Tiết Mẫn Đế, trong đó mô tả cái chết của Nhĩ Chu Vinh là một hành động vô cùng sai trái của Hiếu Trang Đế, Tiết Mẫn Đế đã từ chối ban hành chiếu chỉ đã viết song thay vào đó lại tự mình viết một chiếu chỉ ngắn gọn, sử dụng ngôn từ khiêm nhường và không đi vào chi tiết. Ông cũng loại bỏ chữ hoàng (皇) khỏi tước hiệu, biến hoàng đế (皇帝) thành đế (帝). Ông đối xử một cách tôn trọng với Nguyên Diệp, lập ông ta làm Đông Hải vương. Trong một hành động chưa có tiền lệ, ông đã ra lệnh rằng kình địch nhà Lương sẽ không còn bị gọi là "ngụy" Lương. (Theo truyền thống trong lịch sử Trung Quốc, các nước kình địch thường gọi đối thủ của mình là "ngụy") Ông truy tôn cha Nguyên Vũ là hoàng đế, song chỉ truy tôn Vương thị là Thái phi, có lẽ để thể hiện sự tôn kính với chính thất của Nguyên Vũ là Trịnh Vương phi. Ông cũng phong cho em trai Nguyên Vĩnh Nghiệp là Cao Mật vương và lập con trai Nguyên Thứ (元恕) của hoàng đệ là Bột Hải vương.

Tuy nhiên, gia tộc Nhĩ Chu lại tham nhũng và rất bạo lực, Tiết Mẫn Đế không thể kiềm chế họ. Kết quả là các tướng Lưu Linh Trợ (劉靈助) và Cao Hoan đã nổi loạn. Mặc dù quân triều đình đã đánh bại Lưu một cách dễ dàng, song Cao Hoan đã thu hút được nhiều tướng bất mãn khác phục vụ cho mình và tỏ ra là một đối thủ ghê gớm. Cao Hoan ban đầu thừa nhận vị trí hoàng đế của Tiết Mẫn Đế song đã sớm lập một họ hàng xa của hoàng tộc Bắc Ngụy là Nguyên Lãng làm hoàng đế. Vào cuối năm 531, Cao Hoan đã tung tin đồn khiến cho gia tộc Nhĩ Chu mâu thuẫn nội bộ, sau đó Cao Hoan đánh bại Nhĩ Chu Triệu và chiếm được một thành quan trọng là Nghiệp Thành.

Đến mùa xuân năm 532, Nhĩ Chu Thế Long muốn chấm dứt các bất đồng trong nội bộ gia tộc Nhĩ Chu nên đã yêu cầu Tiết Mẫn Đế kết hôn với con gái của Nhĩ Chu Triệu làm hoàng hậu. Ngay sau đó, quân Nhĩ Chu do Nhĩ Chu Triệu, Nhĩ Chu Thiên Quang, Nhĩ Chu Trọng viễn và em trai Nhĩ Chu Thế Long là Nhĩ Chu Độ Luật (爾朱度律) chỉ huy, đã hội quân tại Nghiệp Thành để giao chiến với Cao Hoan, song Cao Hoan đã đánh bại được quân Nhĩ Chu mặc dù có quân số ít hơn. Nhĩ Chu Triệu và Nhĩ Chu Trọng Viễn chạy về đại bản doanh của họ, trong khi Nhĩ Chu Thiên Quang và Nhĩ Chu Độ Luật chạy về Lạc Dương. Lúc này, tướng Hộc Tư Xuân (斛斯椿) đã nổi dậy chống lại gia tộc Nhĩ Chu tại Lạc Dương, ông ta đã giết chết Nhĩ Chu Thế Long và Nhĩ Chu Ngạn Bá, trong khi bắt giữ và giải Nhĩ Chu Thiên Quang và Nhĩ Chu Độ Luật đến chỗ Cao Hoan, Cao Hoan xử tử hai người này.

Sau khi gia tộc Nhĩ Chu bị đánh bại

Tiết Mẫn Đế đã cố gắng chiếm thế chủ động bằng cách cử viên quan Lư Biện (盧辯) đi gặp Cao Hoan. Cao Hoan lúc này đang hộ tống Nguyên Lãng tiến về Lạc Dương, ông đã tính đến việc sẽ vẫn để cho Tiết Mẫn Đế giữ ngai vàng do Nguyên Lãng là một họ hàng xa với các hoàng đế gần nhất trước đó. Cao Hoan cử tướng Ngụy Lan Căn (魏蘭根) đến trấn tĩnh các bá quan văn võ và quan sát Tiết Mẫn Đế. Sau khi quay trở lại, Ngụy Lan Căn cho rằng Tiết Mẫn Đế là người thông minh và quả quyết nên Cao Hoan sẽ khó có thể kiếm soát được ông sau này. Cao Hoan do dó đã bắt giam Tiết mẫn Đế và giam giữ ông tại Sùng Huấn tự (崇訓寺). Thay vào đó, Cao Hoan buộc Nguyên Lãng phải nhường ngôi lại cho Bình Dương vương Nguyên Tu.

Trong khi bị giam cầm tại Sùng Huấn tự, Tiết Mẫn Đế có viết một bài thơ mà đến nay vẫn tồn tại:

Khoảng 10 ngày sau khi Hiếu Vũ Đế lên ngôi, ông ta đã cử người đến hạ độc giết chết Tiết Mẫn Đế. Hiếu Vũ Đế không chông cất Tiết Mẫn Đế với vinh dự hoàng đế, song lễ an táng của ông lớn hơn so với các thân vương, và các bá quan được lệnh phải đến tham dự lễ tang.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Bắc Ngụy Tiết Mẫn Đế** () (498 – 21/6/532), cũng gọi là **Tiền Phế Đế** (前廢帝), hay còn được gọi với tước hiệu trước khi lên ngôi là **Quảng Lăng vương** (廣陵王), tên húy là
**Nhĩ Chu Hoàng hậu** (chữ Hán: 爾朱皇后), không rõ tên thật, là Hoàng hậu của Bắc Ngụy Tiết Mẫn Đế Nguyên Cung trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Khá ít thông tin về
Quảng Lăng Huệ vương **Nguyên Vũ** (chữ Hán: 元羽, 470 – 19/06/501 ), tự Thúc Phiên, hoàng tử nhà Bắc Ngụy. ## Khởi nghiệp Vũ là con trai thứ tư của Bắc Ngụy Hiến Văn
**Bắc Ngụy Hiến Văn Đế** (chữ Hán: 北魏獻文帝; 454–476), tên húy là **Thác Bạt Hoằng** (), là hoàng đế thứ sáu của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Năm 471, ông trở
**Bắc Ngụy Hiếu Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏孝武帝; 510 – 3 tháng 2, 535), tên húy là **Nguyên Tu** (元脩 hay 元修), tên tự **Hiếu Tắc** (孝則), vào một số thời điểm được gọi là
**Nhà Bắc Ngụy** (tiếng Trung: 北魏朝, bính âm: běi wèi cháo, 386–535), còn gọi là **Thác Bạt Ngụy** (拓拔魏), **Hậu Ngụy** (後魏) hay **Nguyên Ngụy** (元魏), là một triều đại thời Nam Bắc triều trong
**Nguyên Lãng** () (513–532), tên tự **Trọng Triết** (仲哲), thường được biết đến với tước hiệu trước khi lên ngôi là **An Định vương** (安定王), vào một số thời điểm được gọi là **Hậu Phế
**Chiến tranh Nam Tề-Bắc Ngụy** diễn ra vào thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Nam Tề và nhà Bắc Ngụy. Từ năm 479 đến năm 500, Nam Tề cùng Bắc Ngụy
**Tân Hùng** (chữ Hán: 辛雄, 485 – 534), tự Thế Tân, người Địch Đạo, Lũng Tây , quan viên cuối đời Bắc Ngụy. ## Khởi nghiệp Cha là Tân Sướng, tự Ấu Đạt, được làm
**Sơn Vĩ** (chữ Hán: 山伟, ? – ?), tự Trọng Tài, người dân tộc Tiên Ti, tịch quán ở Lạc Dương, Hà Nam, nguyên quán ở quận Đại (nay thuộc Sơn Tây), quan viên cuối
**Mẫn Đế** (chữ Hán: 愍帝 hay 閔帝 hoặc 湣帝) cùng với Hiếu Mẫn Đế là thụy hiệu của một số vị quân chủ phương Đông. Các vị vua Mẫn Đế thường phải chịu sự nhục
**Lịch đại Đế Vương miếu** (chữ Hán phồn thể: 厯代帝王廟; chữ Hán giản thể: 历代帝王庙, bính âm Hán ngữ: _Lìdài Dì Wáng miào_), còn gọi là **Miếu Lịch đại Đế Vương Trung Quốc** hay **Đế
**Vương Túc** (chữ Hán: 王肃, 464 - 501), tên tự là **Cung Ý**, người Lâm Nghi, Lang Tà , đại thần, tướng lĩnh, ngoại thích nhà Bắc Ngụy. ## Thân thế Vương Túc là hậu
**Ngụy Thu** (chữ Hán: 魏収; bính âm: Wei Shou) (506 – 572), tự **Bá Khởi**, thụy là **Văn Trinh**, con trai của Thái học Bác sĩ Ngụy Tử Kiến, người Hạ Khúc Dương Cự Lộc
**Bắc sử** (北史) là một quyển sách trong Nhị thập tứ sử do Lý Đại Sư viết về giai đoạn lịch sử từ năm 386 tới 618. Sau khi Lý Đại Sư mất, Lý Diên
**Ngụy Bác quân tiết độ sứ** hay **Thiên Hùng quân tiết độ sứ** (763 - 915), là một phiên trấn tồn tại dưới thời trung và hậu kì nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc,
**Bắc Tề Văn Tuyên Đế** (北齊文宣帝) (526–559), tên húy là **Cao Dương** (高洋), tên tự **Tử Tiến** (子進), miếu hiệu là Hiển Tổ, là vị hoàng đế khai quốc của triều đại Bắc Tề trong
**Mẫn Vương** (chữ Hán: 愍王 hay 閔王 hoặc 湣王 và 敏王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ và phiên vương ở khu vực Á Đông thời phong kiến. ## Danh sách *
**Nhĩ Chu Hoàng hậu** (chữ Hán: 爾朱皇后) (không rõ tên thật) là Hoàng hậu của Bắc Ngụy Phế đế Nguyên Diệp trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Nhĩ Chu Hoàng hậu là con
**Tiêu Tông** (, 501-531), tên tự **Thế Khiêm** (世謙), là hoàng tử thứ hai của Lương Vũ Đế, mẹ là Ngô thục viện, ông tự xem mình là di phúc tử của hoàng đế Tiêu
**Nhĩ Chu Triệu** (chữ Hán: 尔朱兆, ? – 533), tên tự là **Vạn Nhân**, người Bắc Tú Dung xuyên , dân tộc Yết đã Tiên Ti hóa, là tướng lãnh, quyền thần nhà Bắc Ngụy
**Bắc Tề Hiếu Chiêu Đế** (chữ Hán: 北齊孝昭帝; 535–561), tên húy là **Cao Diễn** (高演), tên tự là **Diên An** (延安), là hoàng đế thứ ba của triều Bắc Tề trong lịch sử Trung Quốc.
**Ngụy Phế Đế** (_chữ Hán_:魏廢帝) có thể là: ## Danh sách *Ngụy Phế Đế Tào Phương (chính là Ngụy Lệ Đế, trước đó từng làm Tề Lệ Vương, tước hiệu sau bị phế truất là
**Trận Hàn Lăng** (chữ Hán: 韩陵之战, Hàn Lăng chi chiến) là trận đánh diễn ra vào thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Từ năm 531 đến năm 533, hai thế lực Cao
**Nam Bắc triều** (, 420-589) là một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ năm 420 khi Lưu Dụ soán Đông Tấn mà lập nên Lưu Tống, kéo dài đến năm 589
**Lý Cảo** (; 351 – 417), tên tự **Huyền Thịnh** (玄盛), biệt danh là **Trường Sinh** (長生), là vị vua khai quốc của nước Tây Lương trong lịch sử Trung Quốc. Trong thời gian cai
**Chu Vũ Đế** (chữ Hán: 周武帝; 543 - 21 tháng 6, 578) là Hoàng đế thứ ba của nhà Bắc Chu thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm
Tề Dượng vương **Vũ Văn Hiến** (chữ Hán: 宇文宪, 544 - 578), tên tự là **Bì Hà Đột**, người trấn Vũ Xuyên, Đại Quận , dân tộc Tiên Ti, là tướng lĩnh, hoàng thân nhà
**Triệu Túc** (chữ Hán: 赵肃, ? - ?), tự Khánh Ung, quan viên nhà Bắc Ngụy, nhà Tây Ngụy cuối thời Nam bắc triều. ## Thân thế Túc tự nhận có tổ tịch ở Lạc
**Các chiến dịch bắc phạt thời Đông Tấn** chỉ loạt trận chiến của nhà Đông Tấn ở phía nam phát động trong khoảng thời gian từ năm 317 đến 419 nhằm thu phục lại miền
**Dương Đại Nhãn** (chữ Hán: 杨大眼; ? - ?), là người dân tộc Đê (chữ Hán: 氐), danh tướng nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế ###
**Tùy Dạng Đế** (chữ Hán: 隋煬帝, 569 - 11 tháng 4, 618), có nguồn phiên âm là **Tùy Dượng Đế**, **Tùy Dương Đế** hay **Tùy Dưỡng Đế**, đôi khi còn gọi là **Tùy Minh Đế**
**Lương Võ Đế** (chữ Hán: 梁武帝; 464 – 549), tên húy là **Tiêu Diễn** (蕭衍), tự là **Thúc Đạt** (叔達), tên khi còn nhỏ **Luyện Nhi** (練兒), là vị Hoàng đế khai quốc của triều
**Lý Viễn** (chữ Hán: 李远, 507 – 557), tên tự là **Vạn Tuế**, sinh quán tại trấn Cao Bình, tướng lãnh nhà Bắc Ngụy, Tây Ngụy, Bắc Chu cuối thời Nam Bắc triều. Ông rất
**Ngụy thư** (chữ Hán giản thể: 魏书; phồn thể: 魏書) là một sách lịch sử theo thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ sử_) do Ngụy Thâu, người Bắc
**Tùy Văn Đế** (chữ Hán: 隋文帝; 21 tháng 7, 541 – 13 tháng 8, 604), miếu hiệu **Tùy Cao Tổ**, tên Hán là **Dương Kiên** (楊堅), tên Tiên Ti là **Fuluruqen** (普六茹堅, Phổ Lục Như
**Tiêu Bảo Dần/Di** (; 483 – 530) , tự **Trí Lượng** (智亮), hoàng tử nhà Nam Tề, nhà chính trị, tướng lĩnh nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Alexandros III của Macedonia** (, ), thường được biết đến rộng rãi với cái tên **Alexander Đại đế** (tiếng Hy Lạp: _Megas Alexandros_, tiếng Latinh: _Alexander Magnus_), hay còn được một số tài liệu tiếng
**Nguyên Diệp** () (509-532), tên tự **Hoa Hưng** (華興), biệt danh **Bồn Tử** (盆子), thường được gọi là **Trường Quảng vương** (長廣王), là vị hoàng đế thứ 12, có thời gian cai trị ngắn ngủi
**Hạ Bạt Nhạc** (chữ Hán: 贺拔岳, ? – 534), tên tự là **A Đấu Nê**, người Tiêm Sơn, Thần Vũ , dân tộc Sắc Lặc, là tướng lĩnh nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung
**Cao Ngao Tào** (chữ Hán: 高敖曹; 491-538), vốn tên húy là **Cao Ngang** (chữ Hán: 高昂), tên tự là **Ngao Tào**, nhưng thường được gọi bằng tên chữ, dân tộc Hán, người huyện Tu, Bột
**Bắc Kinh** có lịch sử lâu dài và phong phú, nguyên truy từ cách nay 3.000 năm. Trước khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa vào năm 221 TCN, Bắc Kinh là thủ đô
**Nhĩ Chu Thế Long** (chữ Hán: 尒朱世隆, 500 – 532), tên tự là **Vinh Tông**, người Bắc Tú Dung xuyên , dân tộc Yết đã Tiên Ti hóa, thành viên gia tộc Nhĩ Chu, tướng
**Vu Cẩn** (chữ Hán: 于谨, 493 – 568), tự **Tư Kính**, tên lúc nhỏ là **Cự Di**, dân tộc Tiên Ti, người Lạc Dương, Hà Nam (nay là Lạc Dương, Hà Nam), tướng lĩnh nhà
**Triệu Quý** (, ? – 557), tự **Phù Quý**, người Nam An, Thiên Thủy , tướng lĩnh, khai quốc công thần nhà Tây Ngụy, nhà Bắc Chu, một trong "Bát Trụ Quốc" nhà Tây Ngụy,
**Hình Loan** (, 463 – 514), tên tự là **Hồng Tân**, người huyện Hương, quận Hà Gian, tướng lĩnh nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Tổ 5 đời của Loan
**Lý Bưu** (chữ Hán: 李彪, 444 – 501), tên tự là **Đạo Cố**, người huyện Vệ Quốc, quận Đốn Khâu , là quan viên nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung
**Nhĩ Chu Trọng Viễn** (chữ Hán: 尒朱仲远, ? – ?), không rõ tên tự, người Bắc Tú Dung xuyên , dân tộc Yết đã Tiên Ti hóa, thành viên gia tộc Nhĩ Chu, tướng lãnh
**Hà Bắc** (; bính âm bưu chính: **Hopeh**) là một tỉnh nằm ở phía bắc của Trung Quốc. Giản xưng của Hà Bắc là Ký, Hán tự: "", theo tên Ký châu thời Nhà Hán,
**Hạ Bạt Thắng** (chữ Hán: 贺拔胜, ? – 544), tên tự là **Phá Hồ**, người Tiêm Sơn, Thần Vũ, dân tộc Sắc Lặc, tướng lĩnh nhà Bắc Ngụy, Tây Ngụy trong lịch sử Trung Quốc.