✨Nhĩ Chu Triệu

Nhĩ Chu Triệu

Nhĩ Chu Triệu (chữ Hán: 尔朱兆, ? – 533), tên tự là Vạn Nhân, người Bắc Tú Dung xuyên , dân tộc Yết đã Tiên Ti hóa, là tướng lãnh, quyền thần nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc.

Thời trẻ

Nhĩ Chu Triệu là cháu gọi tù trưởng Nhĩ Chu Vinh bằng chú. Từ nhỏ ông khỏe mạnh, giỏi cưỡi ngựa bắn cung, tay không bắt mãnh thú, nhanh nhẹn hơn người. Nhiều lần theo Vinh sắn bắn, gặp những nơi vách cao khe sâu, Triệu vượt qua đầu tiên. Nhĩ Chu Vinh vì thế đặc biệt khen ngợi yêu mến, dùng làm nanh vuốt.

Có lần Nhĩ Chu Vinh đưa tiễn sứ giả triều đình, thấy hai con hươu, gọi ông đến, giao 2 mũi tên, nói với sứ giả: "Có thể bắt những con hươu này để dùng bữa ngay bây giờ." Rồi dừng ngựa nhóm lửa để đợi. Một lúc sau Triệu bắt được một con hươu, Vinh muốn khoa trương, sai người trách ông: "Sao không bắt hết?" Nhĩ Chu Triệu bị phạt 50 trượng.

Phụng sự Nhĩ Chu Vinh

Nhĩ Chu Triệu theo Nhĩ Chu Vinh đánh dẹp nghĩa quân, nhờ công được thăng làm Bình viễn tướng quân, Bộ binh hiệu úy. Nhĩ Chu Vinh tiến vào Lạc Dương, ông kiêm chức Tiền phong đô đốc. Khi Hiếu Trang đế lên ngôi, được nhân chức Trung quân tướng quân, Kim tử quang lộc đại phu, còn nhận Giả kiêu kỵ tướng quân, Kiến Hưng thái thú. Tiếp đó thăng làm Sứ trì tiết, Xa kỵ tướng quân, Vũ vệ tướng quân, Tả quang lộc đại phu, Đô đốc, Dĩnh Xuyên quận khai quốc công, thực ấp 1200 hộ.

Ông theo Thượng Đảng vương Nguyên Thiên Mục đánh dẹp khởi nghĩa Hình Cảo.

Khi Nguyên Hạo được quân nhà Lương đưa vào Lạc Dương, quân đội của ông ta đóng đồn ngăn giữ ở Hà Kiều, Nhĩ Chu Vinh sai ông cùng bọn Hạ Bạt Thắng từ bờ tây Mã Chử trong đêm đưa vài trăm kỵ binh vượt Hoàng Hà, tập kích con của Hạo là Quan Thụ, bắt sống ông ta. Lại tiến quân phá An Phong vương Nguyên Duyên Minh, khiến Hạo phải bỏ chạy. Hiếu Trang đế về cung luận công, ông được nhận chức Tán kỵ thường thị, Xa kỵ đại tướng quân, Nghi đồng tam tư, tăng ấp 800 hộ. Làm Phần Châu thứ sử, lại tăng ấp 1000 hộ. Lại được gia chức Thị trung, Phiêu kỵ đại tướng quân, còn tăng ấp 500 hộ.

Nắm quyền nhà Bắc Ngụy

Khi Nhĩ Chu Vinh bị Hiếu Trang đế giết, Triệu từ Phần Châu soái kỵ binh giữ Tấn Dương. Nguyên Huy nắm quyền chánh, cho ông thụ chức Đại tướng quân, thăng tước làm vương. Nhưng Triệu vẫn cùng bọn Nhĩ Chu Thế Long bàn mưu đánh Lạc Dương, rồi soái quân nam tiến, đến núi Thái Hành, đô đốc Sử Ngỗ Long dưới quyền Đại đô đốc Nguyên Tử Cung mở lũy ra hàng, Tử Cung lui chạy. Ông đưa khinh kỵ theo đường tắt từ Hà Lương tây tiến, vượt Hoàng Hà bất ngờ tập kích kinh thành. Quân của Triệu ập vào, túc vệ tan chạy, Hiếu Trang đế trốn ra cửa Vân Long thì bị bắt. Ông đem Hiếu Trang đế giam ở chùa Vĩnh Ninh, đánh chết hoàng tử (con của Nhĩ Chu hoàng hậu), hãm hiếp phi tần, thả binh cướp bóc; ở lại Lạc Dương hơn tuần thì đưa đế về Tấn Dương, còn mình dừng lại Hà Lương kiểm đếm tài sản. Sau đó, sai người giết chết Hiếu Trang đế ở chùa Tam Cấp,

Ngay sau khi giết Nhĩ Chu Vinh, Hiếu Trang đế ban chiếu cho nghĩa quân Hột Đậu Lăng Bộ Phiền ở Hà Tây tập kích Tú Dung. Triệu vào Lạc Dương thì cũng là lúc binh lực của Bộ Phiền rất mạnh, từ phía nam uy hiếp Tấn Dương. Ông không dám ở lại Lạc Dương thêm nữa, mà vội vàng lui quân về Tấn Dương chống lại Bộ Phiền.

Triệu hữu dũng vô mưu, nhiều lần bị Bộ Phiền đánh bại, bèn thu gom sĩ tốt, tính ra Sơn Đông. Ông mấy lần gọi thì Tấn Châu thứ sử Cao Hoan mới đến, chia cho ông ta người của 3 châu 6 trấn, phân biệt doanh binh, rồi cùng nhau đưa quân đi về phía nam, để tránh khí thế hừng hực của nghĩa quân. Bộ Phiền đuổi theo đến quận Nhạc Bình, Triệu và Hoan quay lại tấn công, chém được Bộ Phiền ở núi Thạch Cổ thuộc Tú Dung. Ông đưa vài chục kỵ binh đến chỗ Hoan, uống rượu thâu đêm. Sau đó, Triệu mời Hoan, ông ta đã lên ngựa, nhưng bọn trưởng sử Tôn Đằng níu áo giữ lại. Triệu cách sông mắng chửi bọn Đằng, rồi lui quân. Hoan về miền đông, ông về Tấn Dương.

Khi Bắc Ngụy Tiết Mẫn đế mới lên ngôi, thụ Triệu làm Sứ trì tiết, thị trung, đô đốc Trung ngoại chư quân sự, Trụ quốc đại tướng quân, Lĩnh quân tướng quân, Lĩnh tả hữu, Tịnh Châu thứ sử, kiêm Lục thượng thư sự, Đại hành đài. Lại lấy ông làm Thiên trụ đại tướng quân, Triệu cho rằng đây là quan chức mà Nhĩ Chu Vinh đã nhận rồi phải chết, nên không dám nhận. Sau đó được gia chức Đô đốc 10 châu chư quân sự, thế tập Tịnh Châu thứ sử.

Bị Cao Hoan đánh bại

Cao Hoan hạ được Ân Châu, ra mặt chống đối họ Nhĩ Chu. Triệu cùng Trọng Viễn, Độ Luật hẹn nhau cùng đánh dẹp. Trọng Viễn, Độ Luật lần lượt đến Dương Bình, ông bắc tiến ra Tỉnh Hình, đóng đồn ở Quảng A, phao lên có 10 vạn người. Hoan bày kế phản gián, khiến cho liên quân chia rẽ, lần lữa không tiến. Trọng Viễn mấy lần sai Hộc Tư Xuân, Hạ Bạt Thắng đến khuyên nhủ. Triệu đưa 300 khinh kỵ đến gặp Trọng Viễn, cùng ngồi trong trướng. Ông tỏ ra thô bạo, ra mặt bất bình, tay múa roi ngựa, miệng nói lớn tiếng, mắt nhìn hằn học, rồi đột ngột ra ngoài, lên ngựa bỏ về. Trọng Viễn sai Xuân, Thắng chạy theo giải thích, Triệu bắt trói bọn họ đem về, qua hôm sau mới thả ra. Bọn Trọng Viễn lui chạy, Cao Hoan bèn tiến đánh, Triệu đại bại.

Triệu thua chạy về Tấn Dương, Nhĩ Chu Thế Long muốn hòa giải, nên xin Tiết Mẫn đế nạp con gái của ông làm Hoàng hậu, Triệu rất mừng rỡ. Thế Long dùng hậu lễ mời ông đến Lạc Dương, rất nhún nhường với Triệu, luôn theo ý của ông, không hề trái lời. Triệu cùng Thiên Quang, Độ Luật hội họp, nhưng rồi lại nghi kỵ lẫn nhau, khiến cho liên quân đại bại ở núi Hàn Lăng.

Triệu lại thua chạy về Tấn Dương, Cao Hoan từ Nghiệp Thành tiến đánh, ông bèn chạy đi Tú Dung. Cao Hoan truy kích, Triệu chạy đến Xích Hồng Lĩnh, bộ hạ tan rã. Ông hết đường, giết con ngựa đang cưỡi, rồi tự treo cổ trên cây. Cao Hoan nhặt thây ông về an táng.

Đánh giá

Triệu chiến đấu quả cảm, mỗi khi ra trận, thường đi đầu tướng sĩ, được mọi người khâm phục. Nhưng ông thô kệch kém khôn, không có tài làm tướng. Nhĩ Chu Vinh tuy khen sự can đảm, quyết đoán của cháu mình, nhưng vẫn nói: "Triệu nắm được không quá 3000 kỵ binh, nhiều hơn ắt loạn!"

Dật sự

Triệu sắp tấn công Ngụy Hiếu Trang đế ở Lạc Dương, sai sứ mời Cao Hoan, Tôn Đằng khuyên ông ta không nên tham gia việc bạn nghịch, nhưng không thể từ chối để gây oán hận, mà tìm cớ thoái thác rằng: phải đánh dẹp người Thục ở Vân Sơn để trừ mối lo về sau, xong, sẽ ở bên kia Hoàng Hà làm thế ỷ giốc giúp Triệu. Hoan nghe theo, sai Đằng đi trình bày với ông. Khi ấy Nhĩ Chu Triệu đang ở Đại Cốc thuộc Tịnh Châu, gặp Đằng, biết Hoan không đến, rất không vui, nói: "Về nói với anh Cao, em có giấc mơ lành, bây giờ quyết đoán thi hành, ắt đạt được thành công." Đằng hỏi: "Vương mơ ra sao?" Ông đáp: "Ta đã mơ thấy người cha đã mất của ta trèo lên ngọn đồi cao, đất hai bên đều được cày nhuyễn, chỉ có gốc cỏ mã lận vẫn còn khắp nơi, cha ta hỏi sao không nhổ đi, bộ hạ đáp (gốc cỏ) chắc không thể làm nổi. Cha ta nhìn ta, lệnh cúi xuống nhổ cỏ, tay ta đến đâu, không gì không bật ra. Cứ lấy việc này mà nói, đi ắt thành công."

Trước đó, có người ở ven Hoàng Hà mơ thấy một vị thần nói với mình: "Họ Nhĩ Chu muốn vượt Hoàng Hà, dùng mày làm người nắm quyền ở bến Lũy Ba, vì họ mà rút mạch nước." Hơn tháng, người ấy chết. Khi Triệu đến, gặp người qua đường cho biết Hoàng Hà có chỗ nông, khiến cỏ mọc khắp nơi dẫn thành lối đi. Nói xong thì biến mất. Ông bèn thúc ngựa vượt sông. Hôm ấy, gió lớn ầm ầm, cát bụi giăng trời; quân Nhĩ Chu xông vào cửa cung, túc vệ nhận ra, giương cung muốn bắn, áo dài tốc lên dây cung, không phát tên ra được, nên tan chạy.

Sau khi Tôn Đằng trở về báo lại, Cao Hoan cho rằng Hiếu Trang đế sẽ ngăn được Triệu ở Hoàng Hà, dự định nhân lúc ông lui quân thì tập kích. Không lâu sau, Triệu hạ được kinh sư, rồi quay về Tấn Dương, đô đốc Úy Cảnh đi theo, gửi thư báo tin cho Cao Hoan. Ông ta kinh ngạc, đành gửi thư khuyên ông không nên làm hại thiên tử.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nhĩ Chu Triệu** (chữ Hán: 尔朱兆, ? – 533), tên tự là **Vạn Nhân**, người Bắc Tú Dung xuyên , dân tộc Yết đã Tiên Ti hóa, là tướng lãnh, quyền thần nhà Bắc Ngụy
**Nhĩ Chu Vinh** (, 493 -530), tên tự là **Thiên Bảo** (天寶), người Bắc Tú Dung, là tướng lĩnh, quyền thần nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Ông là
**Nhĩ Chu Ngạn Bá** (chữ Hán: 尒朱彦伯, ? – 532), không rõ tên tự, người Bắc Tú Dung xuyên , dân tộc Yết đã Tiên Ti hóa, thành viên gia tộc Nhĩ Chu, tướng lãnh
**Nhĩ Chu Thế Long** (chữ Hán: 尒朱世隆, 500 – 532), tên tự là **Vinh Tông**, người Bắc Tú Dung xuyên , dân tộc Yết đã Tiên Ti hóa, thành viên gia tộc Nhĩ Chu, tướng
**Nhĩ Chu Anh Nga** (chữ Hán: 爾朱英娥) (514–556) là một phi tần ở Hậu cung của Bắc Ngụy Hiếu Minh Đế, sau trở thành Hoàng hậu của Bắc Ngụy Hiếu Trang Đế. Trong triều đại
**Nhĩ Chu Thiên Quang** (chữ Hán: 尒朱天光, 496 – 532), không rõ tên tự, người Bắc Tú Dung xuyên , dân tộc Yết đã Tiên Ti hóa, thành viên gia tộc Nhĩ Chu, tướng lãnh,
**Nhĩ Chu Trọng Viễn** (chữ Hán: 尒朱仲远, ? – ?), không rõ tên tự, người Bắc Tú Dung xuyên , dân tộc Yết đã Tiên Ti hóa, thành viên gia tộc Nhĩ Chu, tướng lãnh
**Nhĩ Chu Hoàng hậu** (chữ Hán: 爾朱皇后), không rõ tên thật, là Hoàng hậu của Bắc Ngụy Tiết Mẫn Đế Nguyên Cung trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Khá ít thông tin về
**Nhĩ Chu Hoàng hậu** (chữ Hán: 爾朱皇后) (không rõ tên thật) là Hoàng hậu của Bắc Ngụy Phế đế Nguyên Diệp trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Nhĩ Chu Hoàng hậu là con
**Nhĩ Chu Độ Luật** (chữ Hán: 尒朱度律, ? – 532), không rõ tên tự, người Bắc Tú Dung xuyên , dân tộc Yết đã Tiên Ti hóa, thành viên gia tộc Nhĩ Chu, tướng lãnh,
**Nhĩ Chu Sưởng** (chữ Hán: 尔朱敞, 519 – 590), tên tự **Kiền La**, người Bắc Tú Dung xuyên , dân tộc Yết đã Tiên Ti hóa, thành viên gia tộc Nhĩ Chu, tướng lãnh nhà
**Nam Bắc triều** (, 420-589) là một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ năm 420 khi Lưu Dụ soán Đông Tấn mà lập nên Lưu Tống, kéo dài đến năm 589
**Dương Khoan** (, ? – 561), tự Cảnh Nhân hay Mông Nhân , người Hoa Âm, Hoằng Nông, quan viên nhà Bắc Ngụy, nhà Tây Ngụy và nhà Bắc Chu. Ông sinh gặp thời loạn,
**Dương Trung** (, 507 – 568), tên lúc nhỏ là **Nô Nô**, tướng lĩnh nhà Tây Ngụy, nhà Bắc Chu, được con trai là Tùy Văn đế Dương Kiên truy tôn làm Hoàng đế, miếu
**Trương Nhĩ** (chữ Hán: 張耳; ?-202 TCN) là tướng nước Triệu và vua chư hầu thời Hán Sở trong lịch sử Trung Quốc, xuất thân từ Đại Lương (nước Nguỵ). ## Giàu sang nhờ vợ
**Triệu Yết** (chữ Hán: 趙歇; ?-204 TCN) là vua chư hầu nước Triệu thời Tần và Hán Sở trong lịch sử Trung Quốc. ## Chống Tần :_Xem thêm:_ Trận Cự Lộc Triệu Yết là dòng
**Triều đại trong lịch sử Trung Quốc**, hay **triều đại Trung Quốc**, ý chỉ các chế độ quân chủ thế tập cai trị Trung Quốc trong phần lớn chiều dài lịch sử nước này. Kể
**Phan Ngọc Nhi** (chữ Hán: 潘玉兒, ? - 501), là sủng phi của Phế Đế Đông Hôn hầu Tiêu Bảo Quyển triều Nam Tề trong lịch sử Trung Quốc. Tiêu Bảo Quyển chơi bời vô
**Hạ Thương Chu đoạn đại công trình** () - _Dự án xác định niên đại Hạ Thương Chu_ -là một dự án đa ngành, kết hợp giữa các bộ môn khoa học tự nhiên với
**Phan Nhạc/Lạc** (chữ Hán: 潘乐, ? – 555), tự Tương Quý, sinh quán ở huyện Thạch Môn, quận Quảng Ninh , tướng lãnh nhà Đông Ngụy, Bắc Tề. ## Thân thế Theo chính sử, Nhạc
**Lý Nhị** (chữ Hán: 李珥; 1536 – 1584), tên hiệu là **Lật Cốc** (栗谷, 율곡, Yulgok), tên tự là **Thúc Hiến** (叔獻, 숙헌) là một trong hai Nho gia lỗi lạc nhất của nhà Triều
**Triệu Quý** (, ? – 557), tự **Phù Quý**, người Nam An, Thiên Thủy , tướng lĩnh, khai quốc công thần nhà Tây Ngụy, nhà Bắc Chu, một trong "Bát Trụ Quốc" nhà Tây Ngụy,
**Nhà Bắc Ngụy** (tiếng Trung: 北魏朝, bính âm: běi wèi cháo, 386–535), còn gọi là **Thác Bạt Ngụy** (拓拔魏), **Hậu Ngụy** (後魏) hay **Nguyên Ngụy** (元魏), là một triều đại thời Nam Bắc triều trong
**Trận Hàn Lăng** (chữ Hán: 韩陵之战, Hàn Lăng chi chiến) là trận đánh diễn ra vào thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Từ năm 531 đến năm 533, hai thế lực Cao
**Thổ Nhĩ Kỳ** ( ), tên chính thức là nước **Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ** ( ), thường được gọi ngắn là **Thổ**, là một quốc gia xuyên lục địa, phần lớn nằm tại Tây
**Cáp Nhĩ Tân** là một địa cấp thị và thủ phủ của tỉnh Hắc Long Giang ở phía Đông Bắc Trung Quốc. Cáp Nhĩ Tân là thành phố đông dân thứ 8 của Trung Quốc
thế=Các quốc gia đã gửi thông điệp chia buồn, viện trợ nhân đạo sau trận động đất Thổ Nhĩ Kỳ–Syria 2023.|nhỏ|Các quốc gia/vùng lãnh thổ đã gửi thông điệp chia buồn, viện trợ nhân đạo
**Triệu Huệ** (chữ Hán: 兆惠, ; 1708 – 1764), tự **Hòa Phủ** (和甫), là một đại thần, tướng lĩnh đời Càn Long nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. ## Khởi nghiệp Ông là người
**Thiếp Mộc Nhi** ( _Timūr_, tiếng Sát Hợp Đài: **', , chữ Hán: 帖木兒; 8 tháng 4 năm 1336— 18 tháng 2 năm 1405), còn được biết đến trong sử sách với tên gọi **Tamerlane_'
**Hãn quốc Y Nhi**, (, _Hülegü-yn Ulus_, , _Ilxānān_, chữ Hán: 伊兒汗國), còn dịch là **hãn quốc Y Lợi** (伊利汗国) hoặc **hãn quốc Y Nhĩ** (伊尔汗国), là một hãn quốc của người Mông Cổ thành
**Triệu Thôi** (chữ Hán: 趙衰; 700 TCN-622 TCN), tức **Triệu Thành tử** (趙成子), là tông chủ thứ ba của họ Triệu, một trong Lục khanh của nước Tấn dưới thời Xuân Thu. ## Tổ tiên
right|thumb|Diễu hành nhạc truyền thống ở Seoul. **Nhạc truyền thống Triều Tiên** bao gồm nhạc dân tộc, thanh nhạc, tôn giáo và phong cách âm nhạc nghi lễ của người Triều Tiên. Nhạc Triều Tiên,
**Người Duy Ngô Nhĩ** hay **Người Uyghur** (tiếng Uyghur: ئۇيغۇرلار (chữ Ả Rập), уйғурлар (chữ Kirin), tiếng Trung ) là một sắc tộc người Turk sống chủ yếu ở khu tự trị Tân Cương, Trung
**Triệu Cao** (chữ Hán: 趙高, trước 258/257 TCN - 207 TCN) là một nhân vật chính trị của triều đại nhà Tần, người có ảnh hưởng chính trị rất lớn trong giai đoạn cuối nhà
**Bắc Tề Hậu Chủ** (北齊後主, 557–577), tên húy là **Cao Vĩ** (高緯), tên tự **Nhân Cương** (仁綱), đôi khi được đề cập đến với tước hiệu do Bắc Chu phong là **Ôn công** (溫公), là
Lăng Hùng Vương trên núi Nghĩa Lĩnh.|thế= **Triều đại**, **hoàng triều**, hay **vương triều**, thường là danh từ để gọi chung hai hay nhiều vua chúa của cùng một gia đình nối tiếp nhau trị
**Bính Tý Hồ loạn** hay còn được gọi là **Cuộc xâm lược Triều Tiên lần thứ hai của Mãn Châu** diễn ra vào năm 1636 là sự tiếp nối lần xâm lược thứ nhất năm
Trong tính toán, **tiền tố nhị phân** được dùng để định lượng những con số lớn mà ở đó dùng lũy thừa hai có ích hơn dùng lũy thừa 10 (như kích thước bộ nhớ
**Galdan** (, chữ Hán: 噶爾丹, Hán Việt: **Cát Nhĩ Đan** hay cũng phiên thành **Cát Lặc Đan** (噶勒丹) 1644 - 1697), là một Đại hãn người Mông Cổ nhánh Oirat của Hãn quốc Chuẩn Cát
**Đệ nhị Cộng hòa Ba Lan**, quốc hiệu là **Cộng hòa Ba Lan** ()**,** là một quốc gia ở Trung và Đông Âu, tồn tại từ ngày 7 tháng 10 năm 1918 đến ngày 6
**Chủ quyền nghị viện**, hoặc gọi **tối thượng nghị viện**, là một hạng mục nguyên tắc của chế độ dân chủ, trong đó nghị viện chiếm lấy quyền lực nhà nước tối cao, địa vị
thumb|[[Thần Trinh Vương hậu.]] **Nội mệnh phụ** (chữ Hán: 內命婦; Hangul: 내명부) là từ chỉ Hậu cung ở Triều Tiên, gồm Vương phi và các Hậu cung tần ngự - những người có nhiệm vụ
**Cuộc viễn chinh của Hoa Kỳ đến Triều Tiên**, tại Triều Tiên gọi là **_Shinmiyangyo_** () là một hành động quân sự của Hoa Kỳ tại Triều Tiên, chủ yếu diễn ra tại đảo Ganghwa
**Nhà Triệu** () là triều đại duy nhất cai trị nước **Nam Việt** (ngày nay gồm 1 phần của Miền Nam Trung Quốc và Miền Bắc Việt Nam) suốt giai đoạn 204–111 trước Công nguyên
thumb|250x250px|Tượng Chu Hi tại [[Bạch Lộc Động thư viện ở Lư Sơn]] **Chu Hi** (, ; 18 tháng 10 năm 1130 – 23 tháng 4 năm 1200) tự **Nguyên Hối** (元晦) hoặc **Trọng Hối** (仲晦),
**Chủ tịch Chính phủ Nhân dân Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương** (Tiếng Trung Quốc: **新疆维吾尔自治区人民政府主席**, Bính âm Hán ngữ: _Xīn Jiāng Wéiwú'ěr Zìzhìqū Rénmín Zhèngfǔ Zhǔxí_, _Tân Cương Duy Ngô Nhĩ tự
**Sát Hãn Thiếp Mộc Nhi** () hay **Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ** (察罕特穆爾, chữ Mông Cổ: ᠴᠠᠭᠠᠨ ᠲᠡᠮᠦᠷ, chuyển tự La Tinh: Čaγan Temür hay Chaqan-temür, ? – 6/7/1362), tên tự Đình Thụy, sinh quán
**Bắc Chu Tuyên Đế** (chữ Hán: 北周宣帝; 559 – 580), tên húy là **Vũ Văn Uân** (宇文贇), tên tự **Can Bá** (乾伯), là một hoàng đế của triều đại Bắc Chu trong lịch sử Trung
**Nhị thập bát tú** là một thuật ngữ trong thiên văn học phương Đông cổ đại, chỉ 28 chòm sao nằm gần hoàng đạo và xích đạo thiên cầu. Đây là một phần quan trọng
**Đế chế thứ hai** hay **Đệ Nhị đế chế** là vương triều Bonaparte được cai trị bởi Napoléon III từ 1852 đến 1870 tại Pháp. Đế quốc này được bắt đầu sau Đệ Nhị Cộng