Triệu Cao (chữ Hán: 趙高, trước 258/257 TCN - 207 TCN) là một nhân vật chính trị của triều đại nhà Tần, người có ảnh hưởng chính trị rất lớn trong giai đoạn cuối nhà Tần. Ông đã trải qua cả ba đời quân chủ nước Tần là Tần Thủy Hoàng, Tần Nhị Thế và Tần Tử Anh, nắm quyền hành rất lớn.
Triệu Cao nổi tiếng trong lịch sử bởi là một gian thần có ảnh hưởng rất lớn cục diện chính trị, cũng như qua 2 cuộc chính biến rất lớn là Chính biến Sa Khâu (沙丘之變) và Chính biến cung Vọng Ly (望夷宮之變). Ngoài ra, ông còn nổi tiếng với điển tích "Chỉ hươu thành ngựa" (指鹿為馬). Hình tượng Triệu Cao trong lịch sử thường được cho là một hoạn quan, tuy nhiên, một số nghiên cứu đã chỉ ra điều này là không có căn cứ thông qua sử liệu.
Xuất thân
Theo Sử kí - Mông Điềm liệt truyện thì Triệu Cao là người thân xa của họ Triệu (tức là họ hàng trên 3 đời với Tần Thủy Hoàng). Triệu Cao có mấy anh em, đều sinh ở trong cung. Mẹ Triệu Cao bị tội chết, đời đời hèn kém. Vua Tần nghe nói Cao có sức khỏe, thạo việc hình ngục, cử lấy làm Trung xa phủ lệnh. Cao đã giúp riêng công tử là Hồ Hợi, dạy Hồ Hợi xử hình ngục. Cao có tội lớn, vua Tần sai Mông Nghị dùng hình trị tội Cao. Nghị không dám trái pháp, xử Cao tội chết, trừ khỏi sổ quan hoạn. Thủy Hoàng vì thấy Cao chăm làm việc, tha cho, trao tước quan như cũ.
Chính biến Sa Khâu
Năm 210 TCN, Tần Thủy Hoàng đi tuần du ở Kê Sơn, dẫn theo Hồ Hợi, Triệu Cao cùng với thừa tướng Lý Tư và tướng Mông Nghị. Đến tháng 8 năm đó, xa giá của ông ta đến Bình Nguyên thì Thủy Hoàng bệnh nặng, đến cung Sa Khâu thì bệnh tình đã nguy cấp, bèn viết chiếu triệu công tử cả là Phù Tô về kinh đô Hàm Dương để lo tang lễ và nối ngôi rồi cho Triệu Cao chuyển thư đi giao cho Mông Điềm (anh Mông Nghị, đang ở cùng Phù Tô), nhưng đột nhiên Thủy Hoàng lại qua đời.
Triệu Cao, Lý Tư và Hồ Hợi biết tin, bèn trở về Hàm Dương, phát tang Tần Thủy Hoàng, sau đó Hồ Hợi lên nối ngôi, tức Tần Nhị Thế. Riêng công tử Cao (公子高) không bị giết, cũng dâng thư xin Nhị Thế cho tuẫn táng chung với Thủy Hoàng và xin tha cho con cháu. Triệu Cao khuyên Nhị thế chấp nhận
Nhị Thế bèn giao Lý Tư cho Triệu Cao xét xử chỉ có một số ít không chịu, khẳng định là hươu nhưng không đáng kể. Nhị Thế tưởng là ngựa thật, nghĩ mình loạn óc, bèn vào Vọng Di cung trai giới. Còn những người nói thật đều bị Triệu Cao để bụng trả thù.
Chính biến Vọng Di cung
Năm 209 TCN, Trần Thắng và Ngô Quảng khởi nghĩa ở Đại Trạch chống lại nhà Tần. Trần Thắng tự xưng là Trương Sở vương. Sau đó, một loạt nước chư hầu thời Chiến Quốc cũng tự xưng vương.
Năm 207 TCN, tướng Chương Hàm cầm quân vây thành Cự Lộc, tướng nước Sở là Hạng Vũ cầm đầu quân Sở đến cứu Cự Lộc, đánh tan quân của Vương Ly và Chương Hàm. Chương Hàm đánh bị thua mấy lần, Nhị Thế cho người đến trách Chương Hàm. Chương Hàm sợ tội, sai trưởng sử là Tư Mã Hân đến trình việc và tâu xin định đoạt. Triệu Cao không cho tiếp kiến, lại tỏ ra nghi ngờ muốn làm hại Tư Mã Hân, vì thế Tư Mã Hân khuyên Chương Hàm hàng Sở.
Bị Triệu Cao bức bách quá, Chương Hàm bèn đem binh đầu hàng chư hầu, cùng Hạng Vũ đi đánh Tần. Một cánh quân Sở khác do Lưu Bang chỉ huy cũng tiến gần đến Quan Trung.
Triệu Cao nhiều lần giấu Tần Nhị Thế việc thua trận, đến khi không giấu được nữa bèn tìm cách giết Nhị Thế, sau đó cầu hòa với Lưu Bang để được xưng vương. Ông bàn mưu với người con rể là Diễm Nhạc làm quan lệnh ở Hàm Dương và em là Triệu Thành phế Nhị Thế để lập em Nhị Thế là Tử Anh làm vua. Diễm Nhạc bèn đem quân vào Vọng Di cung ép Nhị Thế tự sát..
Cái chết
Sau khi giết Nhị Thế, Triệu Cao muốn xưng vương ở Quan Trung, bèn bí mật liên lạc với Lưu Bang để xin cùng diệt nhà Tần và chia đôi Quan Trung. Để thực hiện mưu đồ này, ông lập Tần Tử Anh lên ngôi định sau sẽ giết chết.
Để tôn lập Anh, Triệu Cao triệu tập các đại thần lại nói rằng:
:Nguyên trước Tần là một vương quốc, Thủy Hoàng làm vua cả thiên hạ nên xưng đế. Nay sáu nước lại tự lập, đất đai của Tần càng nhỏ đi, làm đế là chỉ có cái tên hão mà thôi, như thế không nên, nên làm vương như trước.
Và chỉ cho Tử Anh làm vương, sau đó bảo Tử Anh rằng trước khi ra thái miếu để nhận ấn làm vua, phải ăn chay 5 ngày. Tử Anh biết ý đồ của Triệu Cao muốn thừa cơ hại mình, bèn bàn với hai người con và hoạn quan Hàm Đàn:
:Thừa tướng Triệu Cao giết Nhị Thế ở "Vọng di cung", sợ bị quần thần giết nên giả vờ lập ta. Ta nghe nói Triệu Cao đã giao ước với Sở tiêu diệt dòng họ nhà Tần và làm vương ở Quan Trung. Nay ông ta bảo ta ăn chay ra miếu tức là muốn nhân đấy giết ta ở trong miếu. Ta cáo bệnh không đi, thừa tướng thế nào cũng thân hành đến, khi đến thì ta sẽ giết.
Tử Anh bèn giả cách cáo ốm, không ra làm lễ trai giới. Triệu Cao sai người mời Tử Anh mấy lần không được, đành thân hành đến tận nơi gặp ông nói:
:Việc tôn miếu là việc quan trọng. Tại sao nhà vua lại không đi ?
Hàm Đàn bất ngờ cầm giáo đâm chết Triệu Cao ở trai cung. hay tội chết, nghĩa là nói dối vua những việc phi lý như là chỉ con hươu mà nói là con ngựa của Triệu Cao đời nhà Tần. Nếu việc nhẹ, thì xử tội tâu vua không thật. Dối trá quan đại thần thì xử nhẹ hơn tội trên ba bậc, dối quan bản quản thì chiếu theo phẩm mà luận tội giảm một bậc".''
Như vậy, nếu như Triệu Cao sống vào thời Hậu Lê thì việc làm chỉ hươu làm ngựa của ông có thể khiến ông bị xử chết.
Trong văn hóa đại chúng
Triệu Cao xuất hiện trong hồi thứ 107 bộ tiểu thuyết Đông Chu liệt quốc của Phùng Mộng Long: Dâng địa đồ, Kinh Kha náo Tần đình. Bàn binh pháp, Vương Tiễn thay Lý Tín. Theo đó thì chính Triệu Cao là người nhắc cho Tần Thủy Hoàng lấy được kiếm ra khỏi vỏ khi bị Kinh Kha ám sát, nhờ đó giết được Kha. Bởi công lao đó, ông được phong làm Lang trung lệnh.
Nhân vật Triệu Cao xuất hiện trong nhiều bộ phim truyền hình nói về thời Hán Sở:
- Sở Hán phong vân (2003) do Vương Cương thủ vai
- Thần thoại (2010) do sự thể hiện của Trương Thế
- Phim Cỗ Máy Thời Gian (2001) do Vương Vĩ Lương đảm nhận
- Phim hoạt hình Tần Thời Minh Nguyệt của hãng Huyền Cơ
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Triệu Cao** (chữ Hán: 趙高, trước 258/257 TCN - 207 TCN) là một nhân vật chính trị của triều đại nhà Tần, người có ảnh hưởng chính trị rất lớn trong giai đoạn cuối nhà
**Triệu Cao Tổ** (_chữ Hán_:趙高祖) có thể là những vị hoàng đế nước Triệu sau: ## Danh sách *Tiền Triệu Cao Tổ Lưu Uyên (có thụy hiệu khác là Thái Tổ, vì trước đó quốc
Triều lên (nước lớn) và triều xuống (nước ròng) tại [[vịnh Fundy.]] **Thủy triều** là hiện tượng nước biển, nước sông... lên xuống trong một chu kỳ thời gian phụ thuộc biến chuyển thiên văn.
**Cao Ly** (), tên đầy đủ là **Vương quốc Cao Ly**, là một vương quốc có chủ quyền ở bán đảo Triều Tiên được thành lập vào năm 918 bởi vua Thái Tổ sau khi
**Triều Tiên** (theo cách sử dụng tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên: Chosŏn'gŭl: 조선, Hanja: 朝鮮, McCune–Reischauer: Chosǒn), **Hàn Quốc** (theo cách sử dụng tại Đại Hàn Dân Quốc: ), **liên Triều**
**Cao Câu Ly** (; tiếng Hàn trung đại: 고ᇢ롕〮 Gowoyeliᴇ), (năm thành lập theo truyền thống là năm 37 trước Công nguyên, có lẽ thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên – 668) là một
**Triều đại trong lịch sử Trung Quốc**, hay **triều đại Trung Quốc**, ý chỉ các chế độ quân chủ thế tập cai trị Trung Quốc trong phần lớn chiều dài lịch sử nước này. Kể
**Chiến tranh Nhật Bản – Triều Tiên**, còn gọi là **Chiến tranh Triều - Nhật** (hangul: 조일전쟁, hanja: 朝日戰爭, _Joil jeonjaeng_) hay **Chiến dịch Văn Lộc - Khánh Trường** (kanji: 文禄・慶長の役, hiragana: ぶんろく・けいちょうのえき, _Bunroku・Keichō no
**Triều Tiên Thái Tổ** (chữ Hán: 朝鮮太祖; Hangul: 조선 태조; 4 tháng 11 năm 1335 – 27 tháng 6 năm 1408), tên khai sinh là **Lý Thành Quế (Yi Seong-gye)** là người sáng lập ra
right|thumb|Trạm điện thủy triều Sihwa Lake, nằm ở [[Gyeonggi, Hàn Quốc, là công trình thủy điện lớn nhất thế giới, với tổng công suất đầu ra là 254 MW.]] **Năng lượng thủy triều** hay **Điện
**Thể chế chính trị nhà Triều Tiên** được vận hành theo chế độ quan liêu tập quyền, dựa trên lý tưởng Nho giáo Tính Lý Học (성리학) làm nền tảng. Về lý thuyết, vua Triều
**Cao Ly dưới sự cai trị của Mông Cổ** đề cập đến sự cai trị của Đế quốc Mông Cổ trên Bán đảo Triều Tiên từ khoảng năm 1270 đến năm 1356. Sau cuộc xâm
**Hán Cao Tổ** (chữ Hán: 漢高祖; 256 TCN – 1 tháng 6 năm 195 TCN), húy **Lưu Bang** (劉邦), biểu tự **Quý** (季), là vị hoàng đế khai quốc của triều đại nhà Hán trong
**Cao Ly Mục Tông** (Hangeul: 고려 목종, chữ Hán: 高麗 穆宗; 5 tháng 7 năm 980 – 2 tháng 3 năm 1009, trị vì 997 – 1009) là quốc vương thứ 7 của vương triều
**Quyền tri Cao Ly Quốc sự** () là tước hiệu mà Lý Thành Quế, tướng quân và người nắm quyền thực tế Cao Ly vào cuối thời kỳ Cao Ly, tự xưng khi xin triều
nhỏ|Sông Honjoe - thuộc hệ thống sông ngòi Kase, tỉnh [[Saga, lúc triều cao.]] nhỏ|Sông Honjoe lúc triều thấp. Ở phía sau có một cống ngăn nước để ngăn chặn [[nước biển chảy vào.]] **Sông
**Cao** là một họ của người thuộc vùng Văn hóa Đông Á. Họ này có mặt ở Việt Nam, Triều Tiên (Hangul: 고, Romaja quốc ngữ: _Go_), Trung Quốc (chữ Hán: 高, bính âm: _Gao_).
**Cao Biền** (; 821 - 24 tháng 9, năm 887), tên tự **Thiên Lý** (千里), là một tướng lĩnh triều Đường, một nhân vật chính trị, người đầu tiên trở thành Tiết độ sứ của
phải|nhỏ| Một bảng thủy triều cho Thủy cung Vịnh Monterey **Bảng thủy triều**, đôi khi được gọi là **biểu đồ thủy triều**, được sử dụng để dự đoán thủy triều và hiển thị thời gian
**Cao Bá Quát** (; 1808–1855), biểu tự **Chu Thần** (周臣), hiệu **Mẫn Hiên** (敏軒), lại có hiệu **Cúc Đường** (菊堂), là quân sư trong cuộc nổi dậy Mỹ Lương, và là một nhà thơ nổi
Thanh Hà vương **Cao Nhạc** (chữ Hán: 高岳, 511 - 555), tự Hồng Lược, tướng lĩnh nhà Bắc Ngụy, Đông Ngụy, Bắc Tề, hoàng thân nhà Bắc Tề. ## Xuất thân Ông là em họ
**Cao Ngao Tào** (chữ Hán: 高敖曹; 491-538), vốn tên húy là **Cao Ngang** (chữ Hán: 高昂), tên tự là **Ngao Tào**, nhưng thường được gọi bằng tên chữ, dân tộc Hán, người huyện Tu, Bột
**Người Việt tại Triều Tiên** hay **Người Triều Tiên gốc Việt**, là nhóm người có gốc tích từ Việt Nam sau sang sinh sống tại bán đảo Triều Tiên. Họ có thể là hoàn toàn
**Cao Ly Thành Tông** (Hangul: 고려 성종, chữ Hán: 高麗 成宗; 15 tháng 1 năm 961 – 29 tháng 11 năm 997; trị vì 981 – 997) là vị quốc vương thứ sáu của vương
**Khoảng nghỉ thủy triều**, đo độ trễ thời gian từ Mặt trăng đi qua đỉnh, đến thủy triều cao hay thấp tiếp theo. Nó cũng được gọi là **khoảng thời gian nước cao** (**HWI**). Đôi
**Điểm Amphidromos** (còn gọi là **giao điểm thủy triều**) là điểm có biên độ bằng 0 của một thành phần điều hòa của thủy triều. Biên độ thủy triều (biên độ đỉnh - đỉnh, hoặc
**Cao Quýnh** (chữ Hán: 高熲, 541 - 607), hay **Độc Cô Quýnh** (獨孤熲) tên tự là **Chiêu Huyền** (昭玄), còn có tên khác là Mẫn, nguyên quán ở huyện Tự Vân, quận Bột Hải, là
**Triệu** là một họ phổ biến của người thuộc vùng Văn hóa Đông Á, gồm Việt Nam, Trung Quốc (chữ Hán: 趙, Bính âm: Zhao, Wade-Giles: Chao) và Triều Tiên (Hangul: 조, Romaja quốc ngữ:
**Cao Ly Trung Tuyên Vương** (Hangul: 고려 충선왕; chữ Hán: 高麗 忠宣王; 20 tháng 10 năm 1275 – 23 tháng 6 năm 1325, trị vì 2 lần: năm 1298 và 1308 – 1313) là quốc
**Cao Trừng** (, 521–549), tên tự **Tử Huệ** (子惠), hiệu **Bột Hải Văn Tương vương** (勃海文襄王), sau này được triều Bắc Tề truy thụy hiệu **Văn Tương hoàng đế** (文襄皇帝) cùng miếu hiệu **Thế Tông**
**Quần thể lăng mộ Vương tộc của nhà Triều Tiên** là quần thể gồm 40 lăng mộ nằm rải rác tại 18 địa điểm được xây dựng từ năm 1408 đến năm 1966 nhằm tưởng
**Cao Ly Văn Tông** (Hangul: 고려 문종, chữ Hán: 高麗 文宗; 29 tháng 12 năm 1019 – 2 tháng 9 năm 1083, trị vì 1046 – 1083) là quốc vương thứ 11 của vương triều
nhỏ|Bãi biển Bancao khi thủy triều thấp, để lộ ra Vùng Gian triều cách khoảng 200 mét từ bãi biển **Vùng gian triều**, còn được gọi là vùng **đất bồi** hoặc **bờ biển**, là khu
**Cao Ly thành quân quán** (, ) là học viện cao cấp có trụ sở tại Khai Thành. ## Lịch sử Năm 992, triều Cao Ly lập tại Thành Đô một cơ sở giáo dục
**Chiến tranh Đường – Cao Câu Ly lần thứ nhất** nổ ra khi Đường Thái Tông Lý Thế Dân phát động chiến dịch xâm lược Cao Câu Ly quy mô lớn với lý do là
Hình 1: [[Sao chổi Shoemaker-Levy 9 năm 1994 sau khi bị phá vỡ bởi ảnh hưởng của các lực thủy triều từ Sao Mộc trong lần bay ngang qua trước đó vào năm 1992.]] nhỏ|Hình
**Cao Ly Nguyên Tông** (Hangul: 고려 원종, chữ Hán: 高麗 元宗; 5 tháng 4 năm 1219 – 23 tháng 7 năm 1274, trị vì 1260 – 1274) là quốc vương thứ 24 của vương triều
**Cao Ly Đức Tông** (Hangeul: 고려 덕종, chữ Hán: 高麗 德宗, 9 tháng 6 năm 1016 – 31 tháng 10 năm 1034, trị vì 1031 – 1034) là quốc vương thứ 9 của vương triều
**Cao Ly Khang Tông** (Hangul: 고려 강종, chữ Hán: 高麗 康宗; 10 tháng 5 năm 1152 – 26 tháng 8 năm 1213, trị vì 1211 – 1213) là quốc vương thứ 22 của vương triều
**Cao Ly Tĩnh Tông** (Hangeul: 고려 정종, chữ Hán: 高麗 靖宗; 31 tháng 8 năm 1018 – 24 tháng 6 năm 1046, trị vì 1034 – 1046) là vua thứ 10 của vương triều Cao
**Cao Ly Cảnh Tông** (Hangul: 고려 경종, chữ Hán: 高麗 景宗; 9 tháng 11 năm 955 – 13 tháng 8 năm 981, trị vì 975 – 981) là quốc vương thứ năm của vương triều
**Cao Ly Trung Túc Vương** (Hangul: 고려 충숙왕; chữ Hán: 高麗 忠肅王; 30 tháng 7 năm 1294 – 3 tháng 5 năm 1339, trị vì 1313 – 1330 và 1332 – 1339), là vua thứ
**Cao Ly Thần Tông** (Hangul: 고려 신종; chữ Hán: 高麗 神宗; 11 tháng 8 năm 1144 – 15 tháng 2 năm 1204, trị vì 1197 – 1204) là quốc vương thứ 20 của vương triều
**Cao Ly Hiển Tông** (chữ Hán: 高麗 顯宗, Hangul: 고려 현종, _Golyeo Hyeonjong_; 1 tháng 8 năm 992 – 17 tháng 6 năm 1031, trị vì 1009 – 1031) là quốc vương thứ 8 của
**Cao Ly Đới Tông** (Hangul: 고려 대종, Hanja: 高麗 戴宗; ? - tháng 11 năm 969), có tên húy là **Vương Húc** (王旭, 왕욱, Wang Wook) là vương tử thứ 8 của Cao Ly Thái
**Cao Ly Hi Tông** (Hangul: 고려 희종; chữ Hán: 高麗 熙宗; 21 tháng 6 năm 1181 – 31 tháng 8 năm 1237, trị vì 1204 – 1211) là quốc vương thứ 21 của vương triều
**Cao Ly Túc Tông** (Hangul: 고려 숙종, chữ Hán: 高麗 肅宗; 2 tháng 9 năm 1054 – 10 tháng 11 năm 1105, trị vì 1095 – 1105) là quốc vương thứ 15 của vương triều
**Nam Bắc triều** (, 420-589) là một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ năm 420 khi Lưu Dụ soán Đông Tấn mà lập nên Lưu Tống, kéo dài đến năm 589
**Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** (), gọi ngắn là **Triều Tiên** (, MR: Chosŏn) hay **Bắc Triều Tiên** (, MR: Puk-chosŏn) là một quốc gia ở Đông Á, tạo thành nửa phía
**Đường Cao Tông** (chữ Hán: 唐高宗, 21 tháng 7 năm 628 - 27 tháng 12 năm 683) là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, trị vì