Chiến tranh Đường – Cao Câu Ly lần thứ nhất nổ ra khi Đường Thái Tông Lý Thế Dân phát động chiến dịch xâm lược Cao Câu Ly quy mô lớn với lý do là để bảo vệ đồng minh Tân La. Quân đội nhà Đường do Thái Tông chỉ huy cùng với Lý Thế Tích, Lý Đạo Tông và Trưởng Tôn Vô Kỵ. Tổng chỉ huy bên phía Cao Câu Ly là Uyên Cái Tô Văn, người nắm quyền điều hành chính sự nước này trên thực tế khi Bảo Tạng Vương chỉ là vua bù nhìn.
Vào năm 645 (Trinh Quán năm thứ 19), sau khi chiếm một loạt thành trì của Cao Câu Ly trên đường đi, Đường Thái Tông đã sẵn sàng để tấn công kinh đô Bình Nhưỡng của Cao Câu Ly. Tuy nhiên, tại thành An Thị (nay là Hải Thành, An Sơn thuộc tỉnh Liêu Ninh), quân Cao Lâu Ly đã chặn đứng quân Đường. Sau hơn 60 ngày giao tranh quyết liệt mà không thể phá vỡ tòa thành này, Đường Thái Tông phải hạ lệnh rút quân. Cao Câu Ly đạt đến điểm cực thịnh dưới thời Quảng Khai Thổ Thái Vương, cai trị từ năm 391 đến năm 413, tương ứng với những năm cuối cùng của nhà Đông Tấn bên Trung Quốc. Dưới thời trị vị của Quảng Khai Thổ, vương triều Cao Câu Ly trở nên hùng mạnh, thôn tính các nước nhỏ yếu lân bang, qua đó trở thành một nước hùng mạnh trong khu vực. Sau một thời kỳ cường thịnh, Cao Câu Ly bắt đầu suy yếu vào cuối thể kỷ thứ 5, khi vương quốc rơi vào hàng loạt cuộc tranh chấp nội bộ xung quanh vấn đề kế vị.
Tình hình trở nên phức tạp tại bán đảo Triều Tiên khi hai nước phía nam là Bách Tế và Tân La liên minh với nhau, đánh chiếm khu vực thung lũng sông Hán. Mọi chuyện không chỉ dừng lại ở đó, trong phần lớn thời gian diễn ra chiến sự, Bách Tế một mình giao tranh với Cao Câu Ly, chỉ đến khi chiến tranh gần kết thúc thì Tân La với danh nghĩa là viện binh của Bách Tế mới tiến đánh Cao Câu Ly rồi "thừa nước đục thả câu" chiếm hết vùng đất mà Bách Tế vất vả chiếm được. Tức giận, vua Bách Tế quyết định tấn công biên giới Tân La, nhưng do quân đội mỏi mệt vì phải giao chiến với Cao Câu Ly lâu ngày, Bách Tế thua trận và bản thân nhà vua cũng tử trận. Tân La tiếp quản thung lũng sông Hán, qua đó làm chủ con đường thông ra biển Hoàng Hải, mở đường huyết mạch giao thương trực tiếp với Trung Quốc mà không cần phải thông qua Cao Câu Ly như trước. Chính điều này đã tạo nên những hệ luỵ về sau khi mối quan hệ giữa Tân La và các triều đại Trung Quốc dần được thắt chặt và đến thế kỷ thứ 7 thì trở thành một liên minh, đe dọa Cao Câu Ly từ hai phía.
Cuối thể kỷ thứ 6, xung đột giữa nhà Tùy và Cao Câu Ly nổ ra. Trong các năm 598, 612, 613 và 614, nhà Tùy đã phát động tổng cộng 4 cuộc chiến với Cao Câu Ly, nhưng đều chuốc lấy thất bại. Đỉnh điểm là vào năm 612, Tùy Dạng Đế huy động một đạo quân tới 1.133.800 người, tiến đánh Cao Câu Ly nhưng thua thảm hại tại bờ sông Tát Thủy, vùng ngoại vi Bình Nhưỡng. Những cuộc chiến với Cao Câu Ly đã làm nhà Tùy suy yếu trầm trọng để rồi cuối cùng sụp đổ nhưng đồng thời cũng khiến Cao Câu Ly tổn thất nặng nề và ngày càng yếu đi.
Nguyên nhân của cuộc chiến
Sau khi tiêu diệt Hãn quốc Đột Quyết – một đồng minh quan trọng của Cao Câu Ly, Đường Thái Tông Lý Thế Dân được người Đột Quyết tôn làm Thiên Khả hãn và bắt đầu dòm ngó tới khu vực phía đông. Cao Câu Ly tuy lúc bấy giờ không còn cường thịnh như xưa, nhưng vẫn đang là một thế lực lớn trong khu vực và một mối đe dọa tiềm tàng với nhà Đường. Bản thân Đường Thái Tông cũng quyết tâm tiêu diệt Cao Câu Ly, giành lấy vinh quang tại nơi mà Tùy Dạng Đế trước kia từng thất bại.
Về phía Cao Câu Ly vào thời điểm này, do lo ngại trước thế lực ngày càng lớn mạnh của viên tướng Uyên Cái Tô Văn, Kể từ đây, chính trị Cao Câu Ly bị quyền thần Uyên Cái Tô Văn thao túng còn Bảo Tạng Vương chỉ là vua bù nhìn, không có thực quyền.
Năm 642, Nghĩa Từ vương của Bách Tế liên minh với Cao Câu Ly tấn công Tân La, chiếm được 40 tòa thành. Trước sức tấn công dữ dội của phe địch, vào năm 643, Thiện Đức nữ vương phải cầu cứu nhà Đường, nêu rõ việc liên minh Bách Tế – Cao Câu Ly đang tấn công nước mình. Nhận được lời cầu cứu của Tân La, Đường Thái Tông sai sứ giả là Tương Lý Huyền Tưởng (相里玄獎) đến yêu cầu Uyên Cái Tô Văn lui binh, nhưng bị khước từ.
Diễn biến
Lấy cớ là Uyên Cái Tô Văn chuyên quyền, giết vua mưu chuyện phế lập, Đường Thái Tông bắt đầu huy động binh mã, chuẩn bị cho cuộc chiến sắp tới. Tháng 4 năm 645, Lý Thế Tích cầm đầu 6 vạn quân Đường chính quy cùng một vài lực lượng binh mã (của các dân tộc không rõ), tập hợp tại U Châu (khu vực quanh Bắc Kinh ngày nay), rồi khởi binh xuất chinh. Bản thân Đường Thái Tông cũng đích thân chỉ huy 1 vạn quân thiết kỵ, dự kiến khởi hành sau và sẽ hội binh với lộ quân của Lý Thế Tích. Ngoài ra, một hạm đội gồm 500 tàu sẽ chuyên chở 4 vạn quân mới tuyển và 3.000 quân tinh nhuệ (từ Lạc Dương và Trường An) từ bán đảo Liêu Đông đi dọc theo đường biển để tới bán đảo Triều Tiên, bổ sung binh lực khi đạo quân chính của nhà Đường tiến vào bán đảo Triều Tiên.
Lý Thế Tích tiến vào lãnh thổ Cao Câu Ly vào ngày 1 tháng 5 sau khi vượt qua sông Liêu Hà. Do thiếu sự chuẩn bị trước, quân Cao Câu Ly bất ngờ khi thấy quân Đường xuất hiện.
Ngày 27 tháng 6, quân Đường đến ngoài thành Bạch Nham (Baekam). Ngày 2 tháng 7, biết khó giữ được thành, tướng giữ thành Tôn Đại Âm của Cao Câu Ly dâng thành đầu hàng. cả Cao Câu Ly lẫn Mạt Hạt đang ở gần đó. Đường Thái Tông đặt cược mọi thứ ông có khi hạ lệnh cho quân sĩ lấy đất đắp thành một ụ đất khổng lồ, nhưng ụ đất này bị quân giữ thành chiếm được, và bảo vệ thành công ba ngày dù quân Đường tấn công dữ dội.
Sau gần 3 tháng, 5.000 quân Cao Câu Ly vẫn kiên trì phòng thủ, quân Đường không hạ nổi thành. Tình hình thời tiết cũng ngày một xấu đi và mùa đông sắp đến, Đường Thái Tông đành phải hạ lệnh rút quân vào ngày 13 tháng 10, Hành trình rút quân của Đường Thái Tông đầy gian nan, khó khăn và đã lấy đi tính mạng của rất nhiều binh sĩ. Tuy nhiên mọi người sớm nhận ra dân Kiến Nam không giỏi việc đóng tàu, nên từ đóng tàu địa phương này chuyển sang cung cấp gỗ cho các nơi khác. Gỗ được vận tải đến Đàm Châu (nay là Trường Sa, Hồ Nam) để đóng tại đó.
Thái Tông qua đời năm 649, không kịp đích thân đông chinh. Ông trước lúc qua đời đã lệnh hủy bỏ chiến dịch. Sau khi Đường Cao Tông Lý Trị lên ngôi, nhà Đường liên tục phát động chiến tranh với Bách Tế và Cao Câu Ly. Năm 660, liên quân Đường – Tân La tiêu diệt Bách Tế. Năm 666, Uyên Cái Tô Văn mất, các con giao chiến lẫn nhau, tranh giành quyền lực khiến quốc lực Cao Câu Ly suy yếu trầm trọng. Trong khi cuộc xung đột nội bộ vẫn tiếp diễn, con trưởng Uyên Nam Sinh dâng 40 thành gần biên giới quy hàng nhà Đường. Đường Cao Tông liền nhân cơ hội, mượn danh nghĩa cứu Nam Sinh phát động chiến tranh, thực chất là xâm lược Cao Câu Ly.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến tranh Đường – Cao Câu Ly lần thứ nhất** nổ ra khi Đường Thái Tông Lý Thế Dân phát động chiến dịch xâm lược Cao Câu Ly quy mô lớn với lý do là
**Cao Câu Ly** (; tiếng Hàn trung đại: 고ᇢ롕〮 Gowoyeliᴇ), (năm thành lập theo truyền thống là năm 37 trước Công nguyên, có lẽ thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên – 668) là một
**Chiến tranh Punic lần thứ nhất **(264-241 TCN) là cuộc chiến tranh lớn đầu tiên xảy ra giữa Carthage và Cộng hòa La Mã, kéo dài suốt 23 năm giữa hai thế lực hùng mạnh
**Chiến tranh Trung Quốc – Triều Tiên** là những cuộc chiến xảy ra giữa Trung Quốc và Triều Tiên trong suốt chiều dài lịch sử. ## Dòng thời gian * Chiến tranh Yên – Cổ
**Chiến tranh Mông Cổ - Cao Ly** (1231 - 1273) là cuộc xâm lăng Vương quốc Cao Ly (vương triều cai trị bán đảo Triều Tiên từ năm 918 đến năm 1392) của Đế quốc
nhỏ|300x300px|Bản đồ miêu tả chiến tranh Kim–Tống **Chiến tranh Kim – Tống** là một loạt các cuộc xung đột giữa nhà Kim (1115–1234) của người Nữ Chân và nhà Tống (960–1279) của người Hán. Năm
[[Tùy Dạng Đế, do họa sĩ thời Đường Diêm Lập Bản họa (khoảng 600–673)]] Chân dung [[Đường Cao Tổ]] **Tùy mạt Đường sơ** (隋末唐初) đề cập đến một giai đoạn mà trong đó triều đại
**Chiến tranh Tống-Việt** là một cuộc chiến tranh giữa Nhà Tống thời Tống Thái Tông và Đại Cồ Việt thời Lê Đại Hành diễn ra từ tháng 1 đến tháng 4 năm 981 trên lãnh
nhỏ|Tàu cao tốc [[ICE (Intercity-Express) tại Đức]] nhỏ|phải|[[E5 Series Shinkansen|E5 Series Shinkansen tại Nhật Bản]] nhỏ|phải|[[Intercity-Express|ICE thế hệ thứ ba do Đức thiết kế trên tuyến đường sắt cao tốc Köln–Frankfurt]] **Đường sắt cao tốc**
**Chiến tranh Nhật Bản – Triều Tiên**, còn gọi là **Chiến tranh Triều - Nhật** (hangul: 조일전쟁, hanja: 朝日戰爭, _Joil jeonjaeng_) hay **Chiến dịch Văn Lộc - Khánh Trường** (kanji: 文禄・慶長の役, hiragana: ぶんろく・けいちょうのえき, _Bunroku・Keichō no
**Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh** (War Remnants Museum) là một bảo tàng vì hòa bình ở số 28 đường Võ Văn Tần, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. Bảo
**Chiến tranh Trung – Nhật** (1937–1945) là một cuộc xung đột quân sự giữa Trung Hoa Dân Quốc và Đế quốc Nhật Bản. Hai thế lực đã chiến đấu với nhau ở vùng biên giới
phải|Bản đồ Thế giới năm 1962 với các phe liên kết **Chiến tranh Lạnh (1953–1962)** là một giai đoạn trong cuộc Chiến tranh Lạnh từ khi lãnh tụ Liên Xô Joseph Stalin qua đời năm
right|thumb|upright=1.2|Lính nhảy dù Mỹ thuộc Lữ đoàn dù 173 tuần tra vào tháng 3 năm 1966 **Hoa Kỳ can thiệp quân sự tại Việt Nam** trong giai đoạn 1948–1975 là quá trình diễn biến của
**Chiến tranh nhân dân** là chiến lược quân sự tại Việt Nam để chỉ chung các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc do nhân dân Việt Nam tiến hành
upright|Một kỵ sĩ trên lưng ngựa nhỏ|phải|Một con ngựa kéo hạng nặng, có thể dùng để tải pháo **Ngựa** là động vật được sử dụng nhiều nhất trong cuộc chiến, nhất là chiến tranh thời
**Chiến tranh Minh – Thanh** hoặc **Người Mãn Châu xâm lược Trung Quốc** (1618–1683) là thời kỳ dài của lịch sử khi người Mãn Châu (Nữ Chân) từng bước xâm lấn và chinh phục lãnh
**Danh sách các sự kiện trong lịch sử Nhật Bản** ghi lại các sự kiện chính trong lịch sử Nhật Bản theo thứ tự thời gian. ## Cổ đại ### Thời kỳ đồ đá cũ
**Cuộc chiến tranh nha phiến lần thứ nhất** (tiếng Trung: 第一次鸦片战争; bính âm: _Dìyīcì Yāpiàn Zhànzhēng_; tiếng Anh: _First Opium War_), còn được gọi là **Chiến tranh thuốc phiện lần 1** hay **Chiến tranh Anh-Thanh**,
nhỏ| Áp phích phim cho _[[Hawai Mare oki kaisen|Hawai Mare oki kaisen của_ Kajiro Yamamoto, (ハ ワ イ ・ マ レ ー 沖 海 戦, _The War at Sea from Hawaii to Malaya_ ), Toho
**Mặt trận Balkan** (28 tháng 7 năm 1914 - 29 tháng 9 năm 1918) hay **Chiến trường Balkan** là một trong những mặt trận của Chiến tranh thế giới thứ nhất, diễn ra trên bán
**Chiến tranh Triều Tiên** là cuộc chiến xảy ra trên bán đảo Triều Tiên giữa Bắc Triều Tiên (với sự hỗ trợ của Trung Quốc, Liên Xô cùng các nước xã hội chủ nghĩa) và
**Chiến tranh thế giới thứ nhất**, còn được gọi là **Đại chiến thế giới lần thứ nhất**, **Đệ nhất Thế chiến** hay **Thế chiến I**, là một cuộc chiến tranh thế giới bắt nguồn tại
**Chiến tranh thế giới thứ hai** (còn được nhắc đến với các tên gọi **Đệ nhị thế chiến**, **Thế chiến II** hay **Đại chiến thế giới lần thứ hai**) là một cuộc chiến tranh thế
**Chiến tranh Lạnh** (1947-1991, tiếng Anh: **Cold War**) là chỉ đến sự căng thẳng địa chính trị và xung đột ý thức hệ đỉnh điểm giữa hai siêu cường (đứng đầu và đại diện hai
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 2** là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại Việt diễn ra trên lãnh thổ Đại Việt từ cuối tháng 1 đến cuối tháng 5 năm
**Chiến tranh Iran – Iraq**, hay còn được biết đến với những tên gọi **Chiến tranh xâm lược của Iraq** (جنگ تحمیلی, _Jang-e-tahmīlī_), **Cuộc phòng thủ thần thánh** (دفاع مقدس, _Defa-e-moghaddas_) và **Chiến tranh Cách
**Chiến tranh cục bộ** là một chiến lược quân sự của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam (giai đoạn 1965-1968). Nội dung cơ bản của chiến lược này là tận dụng ưu thế hỏa
thumb|Các thi thể trong trang phục dân sự, được Ukraine tuyên bố là bị bắn bởi binh sĩ Nga, nằm trên một con phố ở Bucha. Tay của một trong số họ bị trói sau
**Chiến tranh biên giới 1979**, hay thường được gọi là **Chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979**, là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa Trung Quốc và Việt Nam, diễn ra
**Tình hình Miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1959** là một phần của Chiến tranh Việt Nam, (Xem Hiệp định Genève). Đây là thời kỳ miền Bắc phục hồi các vết thương chiến tranh, xây
**_Chiến tranh và hòa bình_** (tiếng Nga: _Война и мир_) là một tiểu thuyết của Lev Nikolayevich Tolstoy, được xuất bản rải rác trong giai đoạn 1865–1869. Tác phẩm được xem là thành tựu văn
**Chiến tranh Xô–Đức 1941–1945** là một cuộc chiến giữa Liên Xô và Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, trải dài khắp Bắc, Nam và Đông Âu từ ngày 22 tháng 6 năm 1941
## Thập niên 1940 ### 1945 *Hội nghị Yalta *Hội nghị Potsdam ### 1946 * Tháng 1: Nội chiến Trung Quốc tái diễn giữa hai thế lực của Đảng Cộng sản và Quốc Dân Đảng.
**Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha** (1701–1714) là một cuộc xung đột chính trị quân sự ở châu Âu đầu thế kỉ XVIII, được kích nổ bởi cái chết của vị vua cuối cùng
Nagorno-Karabakh hiện tại là một nước Cộng hòa độc lập trên thực tế, nhưng trên lý thuyết vẫn là một phần của Cộng hòa Azerbaijan. Cuộc **chiến tranh Nagorno-Karabakh** là cuộc xung đột vũ trang
**Chiến tranh Pháp – Phổ** (19 tháng 7 năm 1870 – 28 tháng 1 năm 1871), thời hậu chiến còn gọi là **chiến tranh Pháp – Đức** (do sự kiện thống nhất nước Đức ở
**Chiến tranh Nga–Nhật** hay **Nhật-Nga chiến tranh** (tiếng Nhật: 日露戦争 _Nichi-Ro Sensō_, âm Hán Việt: "Nhật Lộ chiến tranh"; tiếng Nga: Русско-японская война, "Russko-yaponskaya voina"; tiếng Trung: 日俄戰爭 _Rì'ézhànzhēng_, "Nhật Nga chiến tranh") là một
**Chiến tranh Cách mạng Mỹ** (1775 - 1783), còn được gọi là **Chiến tranh giành độc lập Mỹ**, là một cuộc chiến vào thế kỷ 18 giữa Vương quốc Đại Anh và Mười ba xứ
**Chiến tranh Punic lần thứ hai**, cũng còn được gọi là **Chiến tranh Hannibal**, (bởi những người La Mã) **Cuộc chiến tranh chống lại Hannibal**, hoặc **Chiến tranh Carthage**, kéo dài từ năm 218 đến
**Chiến tranh Ả Rập – Israel năm 1948**, được người Do Thái gọi là **Chiến tranh giành độc lập** và **Chiến tranh giải phóng**, còn người Palestine gọi là **al Nakba** (tiếng Ả Rập: النكبة,
**Chiến tranh Afghanistan - Anh lần thứ nhất** là cuộc chiến giữa Công ty Đông Ấn Anh và Tiểu vương quốc Afghanistan từ năm 1839 đến 1842. Nó nổi tiếng với việc thảm sát 4.500
Cuộc **Chiến tranh nhân dân giải phóng Nam Tư** là một bộ phận quan trọng của Mặt trận phía đông trong Chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu. Cuộc chiến bắt đầu từ
**Chiến tranh Ba Mươi Năm** bắt đầu từ năm 1618, kết thúc năm 1648, chủ yếu diễn ra tại vùng nay là nước Đức và bao gồm hầu hết các cường quốc của châu Âu
**Cuộc Chiến tranh giành độc lập Hy Lạp** (1821–1829), cũng được biết đến với tên gọi **Cuộc chiến tranh cách mạng Hy Lạp** (tiếng Hy Lạp: Ελληνική Επανάσταση, _Elliniki Epanastasi_; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: يؤنان
**Chiến tranh Hoa Hồng** là một loạt các cuộc nội chiến tranh giành vương vị nước Anh giữa những người ủng hộ hai dòng họ Lancaster và York. Cuộc chiến diễn ra trong các giai
**Chiến tranh Anh-Maratha lần thứ ba** (1817–1819) là cuộc xung đột cuối cùng và mang tính quyết định giữa Công ty Đông Ấn Anh (EIC) và Đế quốc Maratha ở Ấn Độ. Cuộc chiến tranh
**Chiến tranh Mông Nguyên – Đại Việt lần thứ nhất** hay **Kháng chiến chống Mông Nguyên lần thứ nhất** là cách người Việt Nam gọi cuộc chiến đấu của quân dân Đại Việt chống lại
**Chiến tranh Ayutthaya – Myanmar** là cuộc chiến tranh giữa hai nước láng giềng ở Đông Nam Á. Vương quốc Ayutthaya là một trong những nhà nước tiền thân của Thái Lan hiện đại. Chiến
**Chiến tranh Đại liên minh** (1688-1697) - thường được gọi là **chiến tranh chín năm**, cuộc **chiến tranh Kế vị Palatine**, hoặc **chiến tranh của Liên minh Augsburg** - là một cuộc chiến lớn cuối