Nhĩ Chu Ngạn Bá (chữ Hán: 尒朱彦伯, ? – 532), không rõ tên tự, người Bắc Tú Dung xuyên , dân tộc Yết đã Tiên Ti hóa, thành viên gia tộc Nhĩ Chu, tướng lãnh nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc.
Thân thế
Ngạn Bá là em họ của quyền thần Nhĩ Chu Vinh. Ông nội là Hầu Chân, thời Văn Thành đế làm đến Tịnh, An 2 châu thứ sử, Thủy Xương hầu. Cha là Mãi Trân, thời Tuyên Vũ đế làm đến Vũ vệ tướng quân, Hoa Châu thứ sử.
Cuộc đời và sự nghiệp
Ngạn Bá từ áo vải được làm Phụng triều thỉnh, dần thăng đến Phụng xa đô úy, làm Phủ trưởng sử cho Nhĩ Chu Vinh.
Nhĩ Chu Vinh bị Hiếu Trang đế sát hại, Nhĩ Chu Triệu bèn lật đổ Hiếu Trang đế, cùng bọn Nhĩ Chu Thế Long lập Nguyên Diệp làm hoàng đế, Ngạn Bá được làm Thị trung. Nhưng bọn Thế Long cho rằng Nguyên Diệp (chút của Thái Vũ đế) là họ hàng xa, nên muốn lập Quảng Lăng vương Nguyên Cung (cháu nội của Hiến Văn đế). Khi ấy Nguyên Cung đang lánh ở Long Hoa phật tự, Ngạn Bá đi lại khuyên nhủ, thúc ép, tỏ ra rất ân cần, khẩn khoản. Nguyên Cung nhận lời lên ngôi, tức là Tiết Mẫn đế (hay Tiền Phế đế). Nhĩ Chu Triệu không được dự vào việc này, rất lấy làm căm giận, sắp đánh bọn Thế Long. Thế Long làm chiếu lệnh cho người Hoa Sơn là Vương Chí được kiêm Thượng thư bộc xạ, Bắc đạo đại sứ đi úy dụ Triệu, nhưng ông ta vẫn không nguôi. Thế Long lại sai Ngạn Bá tự đi dụ Triệu, ông ta mới thôi. Sau khi trở về Ngạn Bá được nhận chức Sứ trì tiết, Phiếu kỵ đại tướng quân, Hữu quang lộc đại phu, Mã trường đại đô đốc, phong Bác Lăng quận Khai quốc công. Sau đó được tiến tước làm vương; rồi thăng Tư đồ. Vào lúc khô hạn, có người khuyên Ngạn Bá cởi chức Tư đồ, ông bèn dâng biểu từ chức, có chiếu nghe theo. Ít lâu sau được nhận chức Nghi đồng tam tư, Thị trung.
Sau khi liên quân họ Nhĩ Chu thất bại trong trận Hàn Lăng (532), Ngạn Bá muốn lãnh binh đồn trú Hà Kiều để lấy thanh thế, Thế Long không nghe. Khi bọn Trương Hoan tập kích Thế Long, Ngạn Bá đang làm việc trong triều. Bọn Trưởng Tôn Trĩ tuyên bố ủng hộ Cao Hoan ở cửa Thần Hổ, Tiết Mẫn đế lệnh Xá nhân Quách Sùng báo cho Ngạn Bá biết. Ngạn Bá tất tả bỏ chạy, nhưng không thoát, cùng Thế Long bị chém ở ngoài cửa Xương Hạp, đầu bị treo trên cây trước cửa nhà Hộc Tư Xuân, sau đó gởi cho Cao Hoan.
Gia quyến
- Ông nội: Nhĩ Chu Hầu Chân.
- Cha: Nhĩ Chu Mãi Trân.
- Em trai:
:# Nhĩ Chu Trọng Viễn, sử cũ có truyện.
:# Nhĩ Chu Thế Long, sử cũ có truyện.
:# Nhĩ Chu Thế Thừa: Đầu thời Hiếu Trang đế, được làm Ninh sóc tướng quân, Bộ binh hiệu úy, Loan Thành huyện Khai quốc bá. Rồi được đặc trừ chức Phủ quân tướng quân, Kim tử quang lộc đại phu, Tả vệ tướng quân. Sau đó được gia Thị trung, lĩnh Ngự sử trung úy. Thế Thừa tài năng hèn kém, chỉ làm được đến thế. Khi tướng nhà Lương là Trần Khánh Chi hộ tống Bắc Hải vương Nguyên Hạo đến gần, Thế Thừa nhận lệnh giữ cửa quan Hoàn Viên. Thế Long bỏ Hổ Lao mà chạy, Thế Thừa không kịp chạy theo, nên bị Nguyên Hạo bắt được, xử lăng trì. Được tặng Sứ trì tiết, Đô đốc Ký Châu chư quân sự, Phiếu kỵ đại tướng quân, Tư đồ, Ký Châu thứ sử, truy phong Triệu quận công.
:# Nhĩ Chu Bật, tự Phụ Bá: đầu thời Tiết Mẫn đế, được làm Tán kỵ thường thị, Tả vệ tướng quân, phong Triêu Dương huyện Khai quốc bá. Rồi được trừ chức Xa kỵ tướng quân, Tả quang lộc đại phu, Lĩnh tả hữu, cải phong Hà Gian quận công. Sau đó được làm Phiếu kỵ đại tướng quân, Khai phủ nghi đồng tam tư, Thanh Châu thứ sử. Sau trận Hàn Lăng, Bật muốn chạy sang nhà Lương, tập hợp bộ hạ cắt tay ăn thề. Đô đốc Phùng Thiệu Long được Bật tín nhiệm, đề nghị trích máu từ tim mới là đáng tin cậy. Bật tin là thật, bèn triệu tập mọi người, nằm lên giường xếp, lệnh cho Thiệu Long lấy máu. Thiệu Long thừa cơ đâm chết Bật, gởi đầu về kinh sư.
- Con trai: Nhĩ Chu Sưởng, sử cũ có truyện.
- Anh/em họ: Nhĩ Chu Vinh, Nhĩ Chu Độ Luật, sử cũ đều có truyện.
- Cháu họ: Nhĩ Chu Triệu, Nhĩ Chu Thiên Quang, sử cũ đều có truyện.
Dật sự
Sau khi thuyết phục được Nhĩ Chu Triệu, Ngạn Bá trở về, được Tiết Mẫn đế bày tiệc mừng công ở Hiển Dương điện. Bấy giờ Thị trung Nguyên Tử Cung, Hoàng môn lang Đậu Viện cũng ngồi đấy, Ngạn Bá nói: "Nguyên thị trung gần đây làm đô đốc, cùng thần giằng co ở Hà Nội; vào lúc bấy giờ, cờ trống ngóng nhau, xa cách vời vợi, nào biết có niềm vui hôm nay, cùng phụng sự bệ hạ!" Tử Cung nói: "Khoái Thông nói rằng: chó cắn người dưng. Hôm ấy phụng sự Vĩnh An , mới có hôm nay phụng sự bệ hạ vậy!" Đế nói: "Nguyên thị trung xem như là có tấm lòng bắn móc thắt lưng đấy!" rồi lệnh 2 người thật say mới thôi.
Ngay trước khi bọn Hộc Tư Xuân phản bội họ Nhĩ Chu, trong thành Lạc Dương có lời đồng dao rằng: "Cuối tháng 3, đầu tháng 4, thổi tro sàng đất tìm chân châu." Lại có câu: "Đầu rời cổ, chân nằm ngang, chạy lên cây, chẳng đợi thang." Quả nhiên ứng nghiệm.
Đánh giá
Ngạn Bá truyện chép: Ngạn Bá tính hòa hậu,... trong các anh em, (là người) không có lỗi lầm gì! Trọng Viễn truyện chép: ...Ngạn Bá, Thế Long vô lễ nhất.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nhĩ Chu Ngạn Bá** (chữ Hán: 尒朱彦伯, ? – 532), không rõ tên tự, người Bắc Tú Dung xuyên , dân tộc Yết đã Tiên Ti hóa, thành viên gia tộc Nhĩ Chu, tướng lãnh
**Nhĩ Chu Thế Long** (chữ Hán: 尒朱世隆, 500 – 532), tên tự là **Vinh Tông**, người Bắc Tú Dung xuyên , dân tộc Yết đã Tiên Ti hóa, thành viên gia tộc Nhĩ Chu, tướng
**Nhĩ Chu Hoàng hậu** (chữ Hán: 爾朱皇后), không rõ tên thật, là Hoàng hậu của Bắc Ngụy Tiết Mẫn Đế Nguyên Cung trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Khá ít thông tin về
**Nhĩ Chu Sưởng** (chữ Hán: 尔朱敞, 519 – 590), tên tự **Kiền La**, người Bắc Tú Dung xuyên , dân tộc Yết đã Tiên Ti hóa, thành viên gia tộc Nhĩ Chu, tướng lãnh nhà
**Nhĩ Chu Độ Luật** (chữ Hán: 尒朱度律, ? – 532), không rõ tên tự, người Bắc Tú Dung xuyên , dân tộc Yết đã Tiên Ti hóa, thành viên gia tộc Nhĩ Chu, tướng lãnh,
**Nhĩ Chu Trọng Viễn** (chữ Hán: 尒朱仲远, ? – ?), không rõ tên tự, người Bắc Tú Dung xuyên , dân tộc Yết đã Tiên Ti hóa, thành viên gia tộc Nhĩ Chu, tướng lãnh
**Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dniepr** ở Ukraina (1944), hay còn được gọi là **Chiến dịch tấn công Dniepr–Carpath**, kéo dài từ ngày 24 tháng 12 năm 1943 đến ngày 14 tháng 4 năm
**Bắc Ngụy Tiết Mẫn Đế** () (498 – 21/6/532), cũng gọi là **Tiền Phế Đế** (前廢帝), hay còn được gọi với tước hiệu trước khi lên ngôi là **Quảng Lăng vương** (廣陵王), tên húy là
**Ngụy thư** (chữ Hán giản thể: 魏书; phồn thể: 魏書) là một sách lịch sử theo thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ sử_) do Ngụy Thâu, người Bắc
**Bắc Tề Hậu Chủ** (北齊後主, 557–577), tên húy là **Cao Vĩ** (高緯), tên tự **Nhân Cương** (仁綱), đôi khi được đề cập đến với tước hiệu do Bắc Chu phong là **Ôn công** (溫公), là
phải|Bản đồ Lĩnh Nam thời Trưng Vương (40-43 sau Công nguyên). **Khởi nghĩa Hai Bà Trưng** là cuộc khởi nghĩa chống Bắc thuộc đầu tiên trong lịch sử Việt Nam do hai chị em Trưng
**Cáp Nhĩ Tân** là một địa cấp thị và thủ phủ của tỉnh Hắc Long Giang ở phía Đông Bắc Trung Quốc. Cáp Nhĩ Tân là thành phố đông dân thứ 8 của Trung Quốc
**Bá Nhan** (chữ Hán: 伯颜, chữ Mông Cổ: ᠪᠠᠶᠠᠨ, chuyển ngữ Poppe: Bayan, chữ Kirin: Баян, 1236 – 11/01/1295), người Bát Lân bộ (Baarin), dân tộc Mông Cổ, là tướng lĩnh nhà Nguyên trong lịch
**Chu thư** hay còn gọi là **Bắc Chu thư** hoặc **Hậu Chu thư** (chữ Hán giản thể: 周书; phồn thể: 周書) là một sách lịch sử theo thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử
**Nguyên Diệp** () (509-532), tên tự **Hoa Hưng** (華興), biệt danh **Bồn Tử** (盆子), thường được gọi là **Trường Quảng vương** (長廣王), là vị hoàng đế thứ 12, có thời gian cai trị ngắn ngủi
**Trận Hàn Lăng** (chữ Hán: 韩陵之战, Hàn Lăng chi chiến) là trận đánh diễn ra vào thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Từ năm 531 đến năm 533, hai thế lực Cao
**Nguyên Lãng** () (513–532), tên tự **Trọng Triết** (仲哲), thường được biết đến với tước hiệu trước khi lên ngôi là **An Định vương** (安定王), vào một số thời điểm được gọi là **Hậu Phế
**Hộc Tư Xuân** (chữ Hán: 斛斯椿, 495 – 537), tự **Pháp Thọ**, người huyện Phú Xương, quận Quảng Mục, Sóc Châu, dân tộc Cao Xa, tướng lãnh cuối đời Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều.
**Bà Triệu** (chữ Hán: 趙婆, còn gọi là **Triệu Trinh Nương**, **Triệu Thị Trinh** hay **Triệu Quốc Trinh**, sinh ngày 08 tháng 11 năm 226 – 04 tháng 04 năm 248) là một thủ lĩnh
**Hai Bà Trưng** là một quận trung tâm của thành phố Hà Nội, Việt Nam. ## Địa lý Quận Hai Bà Trưng nằm ở trung tâm thành phố Hà Nội, có vị trí địa lý:
**Cựu Đường thư** (tiếng Trung phồn thể: 舊唐書, giản thể: 旧唐书; bính âm: Jiù táng shū) là bộ sách lịch sử nằm trong 24 bộ chính sử Trung Quốc do sử quan Lưu Hú triều
**Bắc sử** (北史) là một quyển sách trong Nhị thập tứ sử do Lý Đại Sư viết về giai đoạn lịch sử từ năm 386 tới 618. Sau khi Lý Đại Sư mất, Lý Diên
**Dương Ngạn Địch** (chữ Hán: 楊彥迪, ?-1688), là một thủ lĩnh phản Thanh phục Minh, tổng binh của nhà Minh Trịnh ở Long Môn (龍門), Khâm Châu, Quảng Tây, Trung Quốc. Năm 1679, ông cùng
thumb|phải|Huy hiệu Giám mục Tôma Aquinô Vũ Đình Hiệu **Giáo phận Bùi Chu** (tiếng Latinh: _Dioecesis Buichuensis_) là một giáo phận Công giáo Rôma tại Việt Nam. Giáo phận có nhiều xứ đạo lâu đời
**Lư Thắng Ngạn** (, 27 tháng 6 năm 1945), thường được các đệ tử gọi với tên thân mật là Lư Sư Tôn (Grand Master Lu) (師尊) là người sáng lập và lãnh đạo tinh
**Nhị lang thần** (二郎神), còn được biết đến với nhiều danh hiệu như **Hiển thánh Nhị lang chân quân** (顯聖二郎真君), **Quán Khẩu nhị lang** (灌口二郎) hay **Dương Nhị Lang** (楊二郎), là một vị thần quan
**Đông Chu liệt quốc chí** (chữ Hán: 東周列國志) là tiểu thuyết lịch sử gồm 108 hồi được Sái Nguyên Phóng thời Thanh cải biên từ _Tân liệt quốc chí_ khoảng trên 700.000 chữ của Phùng
**Đường Cao Tổ** (chữ Hán: 唐高祖, hiệu là **Lý Uyên** (李淵), biểu tự **Thúc Đức** (叔德), 8 tháng 4, 566 – 25 tháng 6, 635), là vị hoàng đế khai quốc của triều Đường trong
**Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi** () hay **Khố Khố Đặc Mục Nhĩ** (庫庫特穆爾, [http://en.wikipedia.org/wiki/Mongolian_script chữ Mông Cổ kinh điển]: ᠬᠥᠬᠡᠲᠡᠮᠦᠷ, phiên âm La Tinh: Köketemür, [http://en.wikipedia.org/wiki/Mongolian_Cyrillic_alphabet chữ Kirin Mông Cổ]: Хөхтөмөр) không rõ năm sinh,
Miếu Nhị Phủ **Hội quán Nhị Phủ** (chữ Hán: 二府會館), còn được gọi là **Miếu Nhị Phủ** hay **Chùa Ông Bổn**, là một cơ sở tín ngưỡng tại địa chỉ số 264 đường Hải Thượng
**A Sử Na Xã Nhĩ** (tiếng Turkic: Ashna Sheer, chữ Hán: 阿史那社尔, ? – 655), quý tộc Đột Quyết, phò mã, tướng lãnh đầu đời Đường, có công bình định Quy Tư. ## Khởi nghiệp
_ **Bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh** _ (zh. 般若波羅蜜多經, sa. _prajñāpāramitāsūtra_), cũng được gọi là _ **Ma-ha-bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh**_, _ **Huệ đáo bỉ ngạn kinh** _, "Kinh với trí huệ đưa người qua bờ bên kia", là một bộ
**Bà chằng** hay **Bà chằn** là một kiểu mẫu nhân vật truyền thuyết Việt Nam. ## Lịch sử Lai lịch nhân vật được gọi **bà chằn** có lẽ xuất hiện trước hết tại nơi ngày
**Húc Liệt Ngột** (; – 8 tháng 2 năm 1265) là một Hãn vương của Mông Cổ. Ông là em ruột của Mông Kha và Hốt Tất Liệt, con trai của Đà Lôi, cháu nội
**Nguyễn Bá Phát** (2 tháng 5 năm 1921 – 1993) là một tướng lĩnh của Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Chuẩn Đô đốc, nguyên Tư lệnh Quân chủng Hải quân, nguyên Thứ trưởng
**Ngạc Nhĩ Thái** (chữ Hán: 鄂爾泰, ; 1677 – 1745), tự **Nghị Am** (毅庵), là một triều thần nổi tiếng phục vụ hai triều vua Ung Chính (1722 – 1735) và Càn Long (1735 –
**Vương Bá Đương** (chữ Hán: 王伯当, ? – 619), không rõ tên tự, không rõ quê quán, tướng lãnh khởi nghĩa Ngõa Cương cuối đời Tùy, bộ tướng tâm phúc của thủ lĩnh Lý Mật.
**Thập Quốc Xuân Thu** () là một sách sử theo thể kỷ truyện do Ngô Nhâm Thần (吳任臣) thời nhà Thanh biên soạn. Bộ sách có tổng cộng 114 quyển Bộ sách hoàn thành vào
**Cựu Ngũ Đại sử** (chữ Hán: 旧五代史) là một sách lịch sử theo thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ sử_) do Tiết Cư Chính thời Bắc Tống viết
**_Trung nghĩa Thủy hử truyện_** (忠義水滸傳), thường được biết đến tới tên gọi **_Thủy hử truyện_** (水滸傳), là một bộ tiểu thuyết chương hồi được sáng tác thời cuối Nguyên đầu Minh. Tác giả của
**_Thanh sử cảo_** (清史稿) là bản thảo một bộ tư liệu lịch sử về thời nhà Thanh, bắt đầu từ khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích (hay Thanh Thái Tổ) lập ra nhà Thanh vào năm
**Tống Cao Tông** (chữ Hán: 宋高宗, 12 tháng 6 năm 1107 - 9 tháng 11 năm 1187), tên húy là **Triệu Cấu** (chữ Hán: 趙構), tên tự là **Đức Cơ** (德基), là vị Hoàng đế
**Đường Trung Tông** (chữ Hán: 唐中宗, 26 tháng 11 năm 656 - 3 tháng 7 năm 710), là vị Hoàng đế thứ tư và thứ sáu của nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, từng
**Nhà Bắc Ngụy** (tiếng Trung: 北魏朝, bính âm: běi wèi cháo, 386–535), còn gọi là **Thác Bạt Ngụy** (拓拔魏), **Hậu Ngụy** (後魏) hay **Nguyên Ngụy** (元魏), là một triều đại thời Nam Bắc triều trong
**Đường Trung Tông Vi Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐中宗韋皇后, ? - 21 tháng 7, năm 710), thường gọi **Vi hậu** (韋后) hay **Vi Thái hậu** (韋太后) hoặc **Trung Tông Vi Thứ nhân** (中宗韋庶人), kế phối,
**Bắc Tề Vũ Thành Đế** (北齊武成帝) (537–569), tên húy là **Cao Đam**/**Cao Trạm** (高湛), biệt danh **Bộ Lạc Kê** (步落稽), là hoàng đế thứ tư của triều đại Bắc Tề trong lịch sử Trung Quốc.
**Tiêu Xước** (萧綽, 953–1009), hay **Tiêu Yến Yến** (萧燕燕), là một hoàng hậu, hoàng thái hậu và chính trị gia triều Liêu. Bà là hoàng hậu của Liêu Cảnh Tông, và sau khi Cảnh Tông
Lịch sử của nước Nga, bắt đầu từ việc người Slav phương Đông tái định cư ở Đồng bằng Đông Âu vào thế kỷ thứ 6-7, những người sau đó được chia thành người Nga,
Trương Đạo Lăng, người sáng lập tông phái **Thiên sư Đạo** (chữ Hán: 天师道), còn gọi là **Ngũ Đấu Mễ Đạo** (五斗米道, nghĩa là "đạo Năm Đấu Gạo"), **Chính Nhất Đạo** (正一道), **Chính Nhất Minh
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế