✨Bà Triệu

Bà Triệu

Bà Triệu (chữ Hán: 趙婆, còn gọi là Triệu Trinh Nương, Triệu Thị Trinh hay Triệu Quốc Trinh, sinh ngày 08 tháng 11 năm 226 – 04 tháng 04 năm 248) là một thủ lĩnh kháng chiến thế kỷ thứ 3 tại Việt Nam.

Bối cảnh

Năm 226, Sĩ Nhiếp mất, vua Đông Ngô là Tôn Quyền bèn chia đất từ Hợp Phố về bắc thuộc Quảng Châu dùng Lã Đại làm thứ sử; từ Hợp Phố về nam là Giao Châu, sai Đới Lương làm thái thú; và sai Trần Thì làm thái thú quận Giao Chỉ. Lúc bấy giờ, con của Sĩ Nhiếp là Sĩ Huy tự nối ngôi và xưng là thái thú, liền đem binh chống lại. thumb|left|311x311px|Bản đồ Tam quốc năm 262, [[Đông Ngô kiểm soát Giao Châu.]] Thứ sử Lã Đại bèn xua quân sang đánh. Do nghe lời chiêu dụ, Sĩ Huy cùng năm anh em ra hàng. Lã Đại đem chém tất cả rồi đem đầu gửi về Vũ Xương. Dư đảng của Sĩ Huy tiếp tục chống lại, khiến Lã Đại mang quân vào Cửu Chân giết hại một lúc hàng vạn người.

Cuộc đời và sự nghiệp

nhỏ|phải|Tượng Bà Triệu tại đền thờ trên núi Nưa thuộc thị trấn [[Nưa, Triệu Sơn|Nưa huyện Triệu Sơn tỉnh Thanh Hóa.]] Triệu Thị Trinh sinh ngày 2 tháng 10 năm Bính Ngọ và mất 8 tháng 11 năm 226 tại miền núi Quan Yên (hay Quân Yên), quận Cửu Chân, nay thuộc làng Quan Yên (hay còn gọi là Yên Thôn), xã Định Tiến, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.

Từ nhỏ, bà sớm tỏ ra có chí khí hơn người. Khi cha bà hỏi về chí hướng mai sau, tuy còn ít tuổi, bà đã rắn rỏi thưa: "Lớn lên con sẽ đi đánh giặc như bà Trưng Trắc, Trưng Nhị". Cha mẹ đều mất sớm, Bà Triệu đến ở với anh là Triệu Quốc Đạt, một hào trưởng ở Quan Yên.

Lớn lên, bà là người có sức mạnh, giỏi võ nghệ, lại có chí lớn. Đến năm 19 tuổi gặp phải người chị dâu (vợ ông Đạt) ác nghiệt, bà giết chị dâu rồi vào ở trong núi Nưa (nay thuộc các thị trấn Nưa huyện Triệu Sơn, xã Mậu Lâm huyện Như Thanh, xã Trung Thành huyện Nông Cống, Thanh Hóa), chiêu mộ được hơn ngàn tráng sĩ.

Mùa xuân năm Mậu Thìn (248), thấy quan lại nhà Đông Ngô (Trung Quốc) tàn ác, dân khổ sở, Bà Triệu bèn bàn với anh việc khởi binh chống lại.

Từ hai căn cứ núi vùng Nưa và Yên Định, hai anh em bà dẫn quân đánh chiếm huyện trị Tư Phố nằm ở vị trí hữu ngạn sông Mã. Đây là căn cứ quân sự lớn của quan quân nhà Đông Ngô trên đất Cửu Chân. Thừa thắng, lực lượng nghĩa quân chuyển hướng xuống hoạt động ở vùng đồng bằng con sông này.

Đang lúc ấy, Triệu Quốc Đạt lâm bệnh qua đời. Các nghĩa binh thấy bà làm tướng có can đảm, bèn tôn lên làm chủ. Bà đã phối hợp với ba anh em họ Lý ở Bồ Điền đánh chiếm các vùng đất còn lại ở phía Bắc Thanh Hóa ngày nay. Đồng thời, bà xây dựng tuyến phòng thủ từ vùng căn cứ Bồ Điền đến cửa biển Thần Phù (Nga Sơn, Thanh Hoá) để ngăn chặn viện binh của giặc Ngô theo đường biển tấn công từ phía Bắc. Khi ra trận, Bà Triệu mặc áo giáp vàng, đi guốc ngà, cài trâm vàng, cưỡi voi trắng một ngà và được tôn là Nhụy Kiều tướng quân. Quân Bà đi đến đâu cũng được dân chúng hưởng ứng, khiến quân thù khiếp sợ. Theo truyền thuyết, để mua chuộc, giặc đã phong cho Bà Triệu đến chức Lệ Hải Bà Vương (nữ vương xinh đẹp của vùng ven biển), còn bí mật sai tay chân thân tín tới gặp và hứa sẽ cấp cho Bà thật nhiều tiền bạc, nhưng Bà cũng chẳng chút tơ hào. Cũng theo truyền thuyết, sau nhiều trận thất bại, hễ nghe tới việc phải đi đàn áp Bà Triệu là binh lính giặc lại lo lắng, chúng phải thốt lên rằng:

:Hoành qua đương hổ dị, :Đối diện Bà vương nan.

Dịch:

:Vung tay đánh cọp xem còn dễ :Đối diện Bà Vương mới khó sao.

Được tin cuộc khởi nghĩa lan nhanh, vua Ngô là Tôn Quyền liền phái tướng Lục Dận (cháu của Lục Tốn), sang làm Thứ sử Giao Châu, An Nam hiệu úy, đem theo 8.000 quân sang đàn áp cuộc khởi nghĩa. Đến nơi, tướng Lục Dận liền dùng của cải mua chuộc một số lãnh tụ địa phương để làm suy yếu và chia rẽ lực lượng nghĩa quân.

Những trận đánh ác liệt đã diễn ra tại căn cứ Bồ Điền. Song do chênh lệch về lực lượng và không có sự hỗ trợ của các phong trào đấu tranh khác nên căn cứ Bồ Điền bị bao vây cô lập, và chỉ đứng vững được trong hơn hai tháng. Đền Bà Triệu tại xã [[Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa.]] Theo Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược, bà chống đỡ với quân Đông Ngô được năm, sáu tháng thì thua. Bà Triệu đã tuẫn tiết trên núi Tùng (xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa) vào năm Mậu Thìn (248), lúc mới 23 tuổi.

Theo truyền thuyết, sau khi tìm thấy thi thể nữ chủ tướng, ba anh em họ Lý đã đắp mộ chu toàn cho Bà ngay trên đỉnh núi. Không bao lâu sau đó, ba ông cũng đã tuẫn tiết dưới chân núi Tùng để giữ trọn lời thề với nữ chủ tướng của mình.

Nước Việt lại bị nhà Đông Ngô đô hộ cho đến 263, khi Lã Hưng giết thứ sử Tôn Tư và dâng các châu cho Tào Ngụy, sau này là nhà Tấn.

Chính sử Trung Quốc (Tam quốc chí) chép lại sự kiện này như sau: :Năm Xích Ô thứ mười một, người rợ ở quận Giao Chỉ, Cửu Chân đánh diệt thành ấp, Giao Châu nhiễu động. Lấy Lục Dận làm Giao Châu Thứ sử, An nam Hiệu úy. Dận vào miền nam, dùng ân tín để dụ, ưa việc chiêu nạp, hơn ba nghìn người phe đảng của bọn cừ súy Hoàng Ngô ở huyện Cao Lương đều ra hàng. Dẫn quân xuống phía nam, tuyên bố rất thật, đem tiền của để trao tặng. Hơn trăm tướng giặc, năm vạn người dân ở nơi sâu xa khó quản, chẳng ai không cúi đầu, do đó Giao Châu yên bình.

Câu nói

Năm 19 tuổi, đáp lời người hỏi bà về việc chồng con, Bà Triệu nói:

Câu nói này thấy chép đầu tiên trong sách Thanh Hoá kỷ thắng của Vương Duy Trinh, sống vào thế kỷ 19, từng làm tổng đốc Thanh Hoá. Không thấy các bộ chính sử xưa hơn nhắc tới câu nói này, nên không rõ tính xác thực.

Tưởng nhớ

Về sau vua Lý Nam Đế (tức Lý Bí) khen Bà Triệu là người trung dũng, sai lập miếu thờ, phong là: "Bậc chính anh liệt hùng tài trinh nhất phu nhân".

Sử gia Lê Tung ở thế kỷ 16 viết: :Triệu Ẩu (tức Bà Triệu) là người con gái ở quận Cửu Chân, họp quân trong núi, đánh phá thành ấp, các bộ đều theo như bóng theo hình, dễ hơn trở bàn tay. Tuy chưa chiếm giữ được đất Lĩnh Biểu như việc cũ của Trưng Vương, nhưng cũng là bậc hùng tài trong nữ giới.

Vua Tự Đức ở thế kỷ 19 cũng viết: :Con gái nước ta có nhiều người hùng dũng lạ thường. Bà Triệu Ẩu thật xứng đáng là người sánh vai được với Hai Bà Trưng. Xem thế thì há có phải chỉ Trung Quốc mới có đàn bà danh tiếng như chuyện Thành Phu Nhân và Nương Tử Quân mà Bắc sử đã chép đâu.

Hiện nay, nơi núi Tùng (xã Triệu Lộc) vẫn còn di tích lăng mộ của bà. Cách nơi bà mất không xa, trên núi Gai ngay sát Quốc lộ 1 (đoạn đi qua thôn Phú Điền, xã Triệu Lộc, cách thành phố Thanh Hóa 18 km về phía Bắc) là đền thờ bà. Hằng năm, vào ngày 21 tháng 2 (âm lịch), người dân trong vùng vẫn tổ chức làm lễ giỗ bà. Đền Bà Triệu ở dưới chân [[núi Gai tại xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa]] Tên của bà được đặt cho một số địa danh tại tỉnh Thanh Hóa như huyện Triệu Sơn (từ năm 1964) và xã Triệu Lộc (thuộc huyện Hậu Lộc, từ năm 1954).

Tại nhiều tỉnh thành ở Việt Nam, tên bà cũng đã được dùng để đặt tên cho nhiều trường học và đường phố; riêng tại Hà Nội, có một con đường mang tên phố Bà Triệu, và tại Đà Nẵng cũng như vậy nhưng lại viết là Triệu Nữ Vương.

Thơ ca, câu đối

Trong Đại Nam quốc sử diễn ca có đoạn "Bà Triệu Ẩu đánh Ngô", khái quát rất sinh động:

Tương truyền quân Ngô khiếp uy dũng của Bà Triệu nên có câu:

Trong dân gian hiện cũng còn truyền tụng nhiều câu thơ ca và câu đối liên quan đến bà như sau:

Ngoài ra, trong Hồng Đức quốc âm thi tập và trong các tập thơ của các danh sĩ như Nguyễn Đôn Phục, Nguyễn Đôn Dự... đều có thơ khen ngợi Bà Triệu.

Vấn đề liên quan

Đoạn cuối cuộc khởi nghĩa

Lâu nay sử sách đều biên chép cuộc khởi nghĩa Bà Triệu thất bại, và bà đã tự vẫn năm 248. Tuy nhiên, Giáo sư Lê Mạnh Thát đã dẫn Thiên Nam ngữ lụcNgụy chí để kết luận rằng Bà Triệu đã không thua bởi tay Lục Dận, trái lại đã đánh bại viên tướng này. Lục Dận chỉ chiếm được vùng đất nay thuộc Quảng Tây và Bà Triệu đã giữ được độc lập cho đất nước đến khi Đặng Tuân được Tôn Hựu sai sang đánh Giao Chỉ vào năm 257. Tuy nhiên, ý kiến mới mẻ này còn phải được sự đồng thuận của nhiều người trong giới.

Tên gọi

Những bộ sử cổ chỉ gọi bà là Triệu nữ (cô gái Triệu), Triệu Ẩu. Những tên gọi Triệu Trinh Nương, Triệu Thị Trinh, Triệu Quốc Trinh... theo Văn Lang thì rõ ràng là mới đặt gần đây. Tác giả cho biết vấn đề tên gọi này (cũng như tên gọi của Bà Trưng) thuộc phạm trù ngôn ngữ Việt cổ và cách đặt tên người ở thời gian đầu Công nguyên, còn đang được nghiên cứu (tr. 33).

Ngoài ra, Bà Triệu còn được người đời tôn là Nhụy Kiều tướng quân (vị tướng yêu kiều) và Lệ Hải bà vương (vua bà ở vùng biển mỹ lệ).

Riêng cái tên Triệu Ẩu (趙嫗), thấy xuất hiện lần đầu trong Nam Việt chí, Giao Châu ký (thế kỷ 4, 5) rồi đến Thái bình hoàn vũ (thế kỷ 10) dưới mục Quân Ninh (tức Quân Yên cũ).

Trước đây, Hồng Đức quốc âm thi tập, Đại Việt sử ký toàn thư, Thanh Hóa kỉ thắng, Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục... đều gọi bà là Triệu Ẩu. Sau, sử gia Trần Trọng Kim khi cho tái bản Việt Nam sử lược đã không giải thích mà chỉ ghi chú rằng: Bà Triệu, các kỳ xuất bản trước để là Triệu Ẩu. Nay xét ra nên để là Triệu Thị Chinh (tr. 52).

Kể từ đó có nhiều lý giải khác nhau, như:

  • Sử gia Phạm Văn Sơn: Vì người Tàu căm giận nên đặt tên là Triệu Ẩu (Ẩu có nghĩa là mụ) để tỏ ý khinh mạn (tr. 205).
  • Nhóm tác giả sách Lịch sử Việt Nam (trước thế kỷ 10, quyển 1, tập 1): Sách sử Trung Quốc gọi bà là Triệu Ẩu với nghĩa xấu (người vú em) (tr. 109).
  • Một số người lại giải thích "ẩu" nghĩa là con mụ họ Triệu, là bà già, hoặc là "nữ tù trưởng Triệu".

Hình tượng vú dài

Sách Giao Chỉ chí chép: :Trong núi ở quận Cửu Chân có người con gái họ Triệu, vú dài ba thước, không lấy chồng, họp đảng cướp bóc các quận, huyện, thường mặc áo ngắn màu vàng, chân đi giày mũi cong, ngồi đầu voi mà chiến đấu, sau chết làm thần.

Sách Thái Bình ngự lãm, phần nói về vú

Triệu Ẩu (趙嫗) là một nữ thủ lĩnh thổ phỉ được ghi chép trong Giao Châu ký (交州記) của Lưu Tân Kỳ (劉欣期). Bà là người huyện Quân An 軍安, quận Cửu Chân (nay thuộc miền Trung Việt Nam). Theo ghi chép, bà có ngoại hình kỳ dị với bộ ngực dài đến vài thước, suốt đời không lấy chồng.

Triệu Ẩu sau này vào rừng sâu, tập hợp thổ phỉ, dần trở thành thủ lĩnh và tấn công cả quận lỵ. Khi ra trận, bà thường mặc áo gấm vàng, đi guốc cao, và mỗi khi lui quân đều dựng màn trướng, cùng nhiều thiếu niên thân cận vui chơi, có lúc đến vài chục người hầu hạ bên cạnh.

Cuối cùng, Thứ sử Giao Châu là Lục Dận (陸胤), người Ngô Quận, đã đem quân dẹp yên cuộc nổi loạn và tiêu diệt bà.

Sách Những trang sử vẻ vang giải thích: Phụ nữ khổng lồ, vú dài... là huyền thoại về bà Mẹ-Đất (terre-Mère, Déesse-Mère). Sau hình tượng đó được khoác cho bất kỳ một phụ nữ hiệt kiệt nào (tr. 129). Các tác giả sách Lịch sử Việt Nam (tập I) cũng đều cho rằng huyền thoại về một người phụ nữ có "vú dài ba thước" vốn rất phổ biến ở phương Nam, từ Hợp Phố đến Cửu Chân. Như truyện "Tẩy thị phu nhân", "Tiểu quốc phu nhân" đều nói họ là những phụ nữ cao to và có vú dài đôi ba thước... Có thể, vì bà Triệu cũng là một người phụ nữ kiệt xuất, nên dân gian đã dùng hình tượng này khoác lên cho bà (tr. 345).

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Bà Triệu** (chữ Hán: 趙婆, còn gọi là **Triệu Trinh Nương**, **Triệu Thị Trinh** hay **Triệu Quốc Trinh**, sinh ngày 08 tháng 11 năm 226 – 04 tháng 04 năm 248) là một thủ lĩnh
**Phố Bà Triệu** của Hà Nội chạy từ ngã tư Hàng Khay - Tràng Thi, Lê Thái Tổ - Bà Triệu tới đường Đại Cồ Việt. ## Vị trí - Đặc điểm trái|nhỏ Đường Bà
Khuôn viên di tích lịch sử đền Bà Triệu nằm trong khu vực rừng bảo vệ cảnh quan đền Bà Triệu **Khu rừng bảo vệ cảnh quan Đền Bà Triệu** là một trong những khu
Khuôn viên Đền Bà Triệu nhìn từ trên cao phía sau **Đền Bà Triệu** là nơi thờ tự vị nữ anh hùng dân tộc Việt tên là **Triệu Thị Trinh**, người đã có công đánh
**Bà Triệu** là một phường cũ thuộc thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. ## Địa lý Phường Bà Triệu có vị trí địa lý: *Phía đông giáp đường Hoàng Văn Thụ, phường Quang Trung
Công Ty TNHH Một Thành Viên Bà Triệu là một trong những doanh nghiệp hàng đầu tại tỉnh An Giang trong lĩnh vực cung cấp vật liệu xây dựng và trang trí nội thất. Với
**Triệu** (Phồn thể: 趙國, Giản thể: 赵国) là một quốc gia chư hầu có chủ quyền trong thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Triệu là nước có vai trò đáng kể trong giai
**Triều đại trong lịch sử Trung Quốc**, hay **triều đại Trung Quốc**, ý chỉ các chế độ quân chủ thế tập cai trị Trung Quốc trong phần lớn chiều dài lịch sử nước này. Kể
**Triệu Tài Vinh** là một chính trị gia người Việt Nam. Ông hiện là Phó Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương. Ông từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV
**Lịch sử Ba Lan giữa hai cuộc Thế chiến** bao gồm giai đoạn từ tái lập quốc gia độc lập Ba Lan năm 1918, tới Cuộc xâm lược Ba Lan từ phía tây bởi Đức
**Triệu Thị Chơi** (9 tháng 3 năm 1946 – 25 tháng 8 năm 2021) là một nhà giáo ưu tú, nghệ nhân người Việt Nam. Bà nổi tiếng với các giáo trình dạy nữ công
**Hai Bà Trưng** (? – 5 tháng 3 năm 43) là tên chỉ chung hai chị em Trưng Trắc (徵側) và Trưng Nhị (徵貳), hai người phụ nữ được đánh giá là anh hùng dân
**Lưu Hòa** () (?-310), tên tự **Huyền Thái** (玄泰), là hoàng đế thứ hai của nhà Hán Triệu trong lịch sử Trung Quốc. Ông chỉ trị vì trong bảy ngày vào năm 310. Lưu Hòa
**Hai Bà Trưng** là một quận trung tâm của thành phố Hà Nội, Việt Nam. ## Địa lý Quận Hai Bà Trưng nằm ở trung tâm thành phố Hà Nội, có vị trí địa lý:
Nếu người đàn bà sinh ra chỉ để làm bạn với bếp núc, thì cái câu Giặc đến nhà đàn bà phải đánh chẳng là vô nghĩa lắm Không, giang san đôi gánh nặng, trách
Bão táp mưa sa cũng không cản được Băng Hưu Trí. Họ theo đuổi một lý tưởng lớn lao hòng phụng sự công bằng xã hội. Nhưng lý tưởng này cần tiền, rất nhiều tiền.
thumb|[[Nhà thờ Thánh Florian|Thánh đường Công giáo Rôma Thánh Florian ở Warszawa. Đại đa số những Người Ba Lan là tín đồ Kitô giáo.]] Ba Lan là một trong những quốc gia sùng đạo ở
MÔ TẢ SẢN PHẨM Tuyển sỉ, ctv tơ cao cấp, tóc bao đẹp bao luôn ạh, uốn duỗi nhiệt thoải mái nha 32 bà triệu - tp kon tum Khách hàng đặt hag qua hoá
MÔ TẢ SẢN PHẨM Tuyển sỉ, ctv tơ cao cấp, tóc bao đẹp bao luôn ạh, uốn duỗi nhiệt thoải mái nha 32 bà triệu - tp kon tum Khách hàng đặt hag qua gthoá
MÔ TẢ SẢN PHẨM Tuyển sỉ, ctv tơ cao cấp, tóc bao đẹp bao luôn ạh, uốn duỗi nhiệt thoải mái nha 32 bà triệu - tp kon tum Khách hàng đặt hag qua gthoá
MÔ TẢ SẢN PHẨM Tuyển sỉ, ctv tơ cao cấp, tóc bao đẹp bao luôn ạh, uốn duỗi nhiệt thoải mái nha 32 bà triệu - tp kon tum Khách hàng đặt hag qua hoá
MÔ TẢ SẢN PHẨM Tuyển sỉ, ctv tơ cao cấp, tóc bao đẹp bao luôn ạh, uốn duỗi nhiệt thoải mái nha 32 bà triệu - tp kon tum Khách hàng đặt hag qua gthoá
**Nam Bắc triều** (, 420-589) là một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ năm 420 khi Lưu Dụ soán Đông Tấn mà lập nên Lưu Tống, kéo dài đến năm 589
thumb|Nhạc công chơi đàn tỳ bà trong một buổi hoà nhạc ở Quảng Châu. **Đàn tỳ bà** (chữ Hán: 琵琶; bính âm: pípá, romaji: biwa, tiếng Hàn: bipa) là một nhạc cụ dây gảy của
**Triều Tiên Trung Tông** (chữ Hán: 朝鮮中宗; Hangul: 조선중종; 16 tháng 4, 1488 – 29 tháng 11, 1544) là vị Quốc vương thứ 11 của nhà Triều Tiên. Trị vì từ năm 1506 đến năm
**Ba nhà chia Tấn** (chữ Hán: 三家分晋 _Tam gia phân Tấn_) là kết quả cuối cùng của cuộc đấu tranh quyền lực trong nội bộ nước Tấn – bá chủ chư hầu thời Xuân Thu
liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp tin:2018_inter-Korean_summit_01.jpg|nhỏ|Tổng thống Hàn Quốc [[Moon Jae-in (phải) và Chủ tịch Triều Tiên Kim Jong-un (trái), tháng 4/2018.]] **Quan hệ Nam-Bắc Triều Tiên**, **Quan hệ Nam-Bắc Hàn** hay **Quan hệ Liên Triều** (Quan hệ Đại
**Vương thứ Mười Tám của Ai Cập cổ đại** hay **Vương triều thứ 18** (bắt đầu năm 1543 TCN - kết thúc 1292 TCN) là một vương triều pharaon nổi tiếng của Ai Cập cổ
**Chiến tranh Nhật Bản – Triều Tiên**, còn gọi là **Chiến tranh Triều - Nhật** (hangul: 조일전쟁, hanja: 朝日戰爭, _Joil jeonjaeng_) hay **Chiến dịch Văn Lộc - Khánh Trường** (kanji: 文禄・慶長の役, hiragana: ぶんろく・けいちょうのえき, _Bunroku・Keichō no
**Triệu Vân** (chữ Hán: 趙雲, bính âm: Zhào Yún; (169- 229), tự Tử Long,là danh tướng thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là công thần
**Triều Konbaung** (tiếng Myanmar: ကုန်းဘောင်ခေတ; Hán-Việt: **Cống Bản** 貢榜), còn được gọi là **Đệ tam Đế chế Miến Điện** và trước đây được gọi là **vương triều Alompra**, hoặc **vương triều Alaungpaya**, là triều đại
**Triều Tiên Cao Tông** (Hangul: 조선 고종; Hanja: 朝鮮高宗; RR: Gojong; MR: Kojong, 1852 - 1919) là vị vua thứ 26 và cũng là vị vua đầu tiên của nhà Triều Tiên xưng danh hiệu
**Triều Tiên Thế Tông** (, Hanja: 朝鮮世宗, sinh ngày 15 tháng 5 năm 1397 – mất ngày 8 tháng 4 năm 1450) là vị quốc vương thứ tư của nhà Triều Tiên, Miếu hiệu Thế
**Đào thoát khỏi Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** là hiện tượng những người mang quốc tịch CHDCND Triều Tiên vượt biên khỏi quốc gia này để sang một quốc gia khác, thường
**Quý nhân Triệu thị** (Hanja: 貴人趙氏, Hangul: 귀비조씨; 1615 - 24 tháng 01, 1652), cũng gọi là **Quý nhân Triệu thị** hoặc **Phế quý nhân Triệu thị**, là một hậu cung tần ngự và Nội
right|thumb|Diễu hành nhạc truyền thống ở Seoul. **Nhạc truyền thống Triều Tiên** bao gồm nhạc dân tộc, thanh nhạc, tôn giáo và phong cách âm nhạc nghi lễ của người Triều Tiên. Nhạc Triều Tiên,
**Maria Karolina Zofia Felicja Leszczyńska của Ba Lan** (; 23 tháng 6 năm 1703 – 24 tháng 6 năm 1768), còn được gọi là **Marie Leczinska** (), là Vương hậu Pháp sau khi kết
Triều lên (nước lớn) và triều xuống (nước ròng) tại [[vịnh Fundy.]] **Thủy triều** là hiện tượng nước biển, nước sông... lên xuống trong một chu kỳ thời gian phụ thuộc biến chuyển thiên văn.
**Ba Lan**, quốc hiệu là **Cộng hòa Ba Lan**, là một quốc gia có chủ quyền ở Trung Âu, tiếp giáp với Đức, Slovakia, Cộng hòa Séc, Ukraina, Belarus, Litva, Nga và biển Baltic; diện
**Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** (), gọi ngắn là **Triều Tiên** (, MR: Chosŏn) hay **Bắc Triều Tiên** (, MR: Puk-chosŏn) là một quốc gia ở Đông Á, tạo thành nửa phía
**Nhà Triều Tiên** (; tiếng Hàn trung đại: 됴ᇢ〯션〮 **Dyǒw syéon** hoặc 됴ᇢ〯션〯 **Dyǒw syěon**) hay còn gọi là **Triều Tiên Lý Thị** (), Bắc Triều Tiên gọi là **Triều Tiên Phong kiến Vương triều**
**Ấu Triệu** (? - 1910) tên thật **Lê Thị Đàn**, là một liệt nữ cách mạng trong Duy Tân hội và Phong trào Đông du ở Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp **Lê
**Người Ba Tư** là một dân tộc thuộc nhóm người Iran, những người nói tiếng Ba Tư hiện đại và có liên quan chặt chẽ về ngôn ngữ lẫn sắc tộc với người Iran địa
**Triệu Phong** là một huyện ven biển thuộc tỉnh Quảng Trị, Việt Nam. ## Địa lý ### Vị trí địa lý Huyện nằm về phía Đông Nam của tỉnh và trãi ngang như một tấm
:_Bài này về lịch sử của Triều Tiên cho tới cuộc phân chia Triều Tiên vào ở cuối thập niên 1940. Xem thêm Lịch sử Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Lịch
**Triều Tiên Tuyên Tổ** (chữ Hán: 朝鮮宣祖; Hangul: 조선 선조; 26 tháng 11, 1552 - 16 tháng 3 năm 1608), là vị quốc vương thứ 14 của nhà Triều Tiên. Ông trị vì từ năm
**Thịnh vượng chung Ba Lan và Litva** (, ) hay **Liên bang Ba Lan – Litva** hay **Thịnh vượng chung Ba Lan – Litva** là một trong những quốc gia rộng lớn và đông dân
**Triều Tiên Nhân Tổ** (chữ Hán: 朝鮮仁祖; Hangul: 조선 인조, 7 tháng 12 năm 1595 - 17 tháng 6 năm 1649), là vị quốc vương thứ 16 của nhà Triều Tiên. Ông ở ngôi từ
**Danh sách dưới đây bao gồm các quân chủ** của các triều đại chính thức đã từng cai trị trên mảnh đất thuộc về Iran ngày nay. Lịch sử Iran, ban đầu, trong suốt một
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh