✨Bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh

Bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh

Bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh (zh. 般若波羅蜜多經, sa. prajñāpāramitāsūtra), cũng được gọi là Ma-ha-bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh, Huệ đáo bỉ ngạn kinh , "Kinh với trí huệ đưa người qua bờ bên kia", là một bộ kinh bao gồm khoảng 40 bài kinh Đại thừa được gọi chung dưới tên này với nội dung, mục đích hướng dẫn hành giả đạt được trí Bát-nhã (sa. prajñā), thành tựu Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Bộ kinh này là một phần quan trọng của bộ kinh Phương đẳng (sa. vaipulya-sūtra), được ghi có lẽ từ thế kỉ thứ nhất TCN nguyên đến khoảng thế kỉ thứ 5. Ngày nay, phần lớn kinh này chỉ còn trong dạng chữ Hán hoặc chữ Tây Tạng, không mấy còn trong dạng Phạn ngữ.

Trong bộ kinh này thì hai bài Kim cương bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh (sa. vajracchedikāprajñāpāramitā-sūtra) và Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh (sa. prajñāpāramitā-hṛdaya-sūtra) là nổi tiếng nhất, đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, kể cả Anh, Pháp và Đức ngữ. Luận sư quan trọng nhất của kinh Bát-nhã là Long Thụ. Bộ kinh này có tính giáo khoa rất cao, tương tự như các bộ kinh văn hệ Pali. Phần lớn các bài kinh là những lời khai thị cho Tu-bồ-đề, được Phật thuyết giảng trên đỉnh Linh Thứu (sa. gṛdhrakūṭa).

Phần cổ nhất của kinh này là Bát-nhã bát thiên tụng (Bát thiên tụng bát-nhã) (sa. aṣṭasāhasrikā) – cũng được gọi là Tiểu phẩm bát-nhã – một bộ kinh gồm 8000 câu văn Phật giảng cho nhiều đệ tử cùng nghe. Đây cũng là cơ sở cho tất cả bộ kinh Bát-nhã khác, mỗi bộ gồm từ 300-100.000 câu kệ với vô số bài luận và phiên dịch. Bản dịch chữ Hán đầu tiên ra đời khoảng năm 179.

Các bộ kinh hệ Bát-nhã hàm dung hai điểm mới trong lịch sử Phật giáo, đó là hình tượng lý tưởng của một vị Bồ Tát và trí huệ được dạy là trí huệ tính Không và sự nhận thức là chư pháp bất sinh. Edward Conze, nhà nghiên cứu kinh Bát-nhã đã tóm tắt nội dung của bộ kinh này như sau: :Hàng nghìn câu của những bài kinh Bát-nhã có thể được tóm tắt trong hai câu: :#Hành giả nên tu tập trở thành một Bồ Tát (hoặc một vị Phật tương lai), như vậy là một người không hài lòng với những gì khác hơn là Trí huệ toàn vẹn (nhất thiết trí), đạt được bằng Bát-nhã vì lợi ích của tất cả chúng sinh. :#Không có một pháp như một Bồ Tát, hoặc một Nhất thiết trí, hoặc một sự "tồn tại", hoặc một Bát-nhã hoặc sự chứng đắc nào cả. Chấp nhận hai sự thật đối nghịch nhau như thế có nghĩa là toàn hảo (sa. pāramitā).

Những bước phát triển quan trọng khác của bộ kinh này là khái niệm Phương tiện thiện xảo (sa. upāyakauśalya, sự khôn khéo trong lúc áp dụng phương pháp) và sự hồi hướng công đức (sa. pariṇāmanā).

Những bộ kinh Bát-nhã còn nguyên văn Phạn ngữ:

Adyardhaśatikā-prajñāpāramitā: Bát-nhã lý thú phần;

Aṣṭasāhasrikā-prajñāpāramitā.: Bát thiên tụng bát-nhã hay Tiểu phẩm bát-nhã;

Prajñāpāramitā-hṛdaya: Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh;

Mañjuśrīparivarta-prajñāpāramitā = Saptaśatikā-prajñāpāramitā: Văn-thù-sư-lợi sở thuyết bát-nhã-ba-la-mật kinh, gọi ngắn là Văn-thù bát-nhã kinh;

Pañcaviṃśatisāhasrikā-prajñāpāramitā: Nhị vạn ngũ thiên bát-nhã tụng hoặc Đại phẩm bát-nhã kinh hoặc Phóng quang bát-nhã;

Śatasāhasrikā-prajñāpāramitā: Đại bát-nhã sơ phần;

Suvikrāntavikrāmīparipṛcchā-prajñāpāramitā = Sārdhadvisāhasrikā-p.: Thắng Thiên vương bát-nhã-ba-la-mật kinh;

Vajracchedikā-prajñāpāramitā = Triśatikā-prajñāpāramitā: Kim cương bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh.

👁️ 101 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
_ **Bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh** _ (zh. 般若波羅蜜多經, sa. _prajñāpāramitāsūtra_), cũng được gọi là _ **Ma-ha-bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh**_, _ **Huệ đáo bỉ ngạn kinh** _, "Kinh với trí huệ đưa người qua bờ bên kia", là một bộ
**[[Bồ Tát Bát-nhã-ba-la-mật-đa** (Java, Indonesia)]] Một bản của kinh **Bát-nhã-ba-la-mật-đa** bằng tiếng Phạn **Bát-nhã-ba-la-mật-đa** (zh. 般若波羅蜜多, sa. _prajñāpāramitā_) có nghĩa là **sự toàn hảo** (_pāramitā_) **của Bát-nhã** (_prajñā_). Cũng được gọi ngắn là **Bát-nhã-ba-la-mật**. Truyền
KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT   Tên gọi “Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật” nghĩa là: Bài kinh thâu tóm yếu nghĩa tinh túy cốt lõi của bộ Đại tạng
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật (Tái Bản 2013) Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật thường gọi tắt là kinh Kim Cang, là một trong  những kinh điển quan trọng của
Sách - Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật - Anan Books   Kinh Kim Cang là một trong các bộ kinh quan trọng của Phật giáo nói chung, của Phật giáo Đại thừa nói
Kinh Kim Cang - Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh  (âm - nghĩa) Kinh Kim Cang là một trong các bộ kinh quan trọng của Phật giáo nói chung, của Phật giáo Đại thừa
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật (Tái Bản 2013) Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mậtthường gọi tắt là kinh Kim Cang, là một trong những kinh điển quan trọng của Phật
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, thường gọi tắt là Kinh Kim Cang, là một trong những kinh điển quan trọng của  Đại thừa, và đặc biệt quen thuộc với đông đảo Phật tử
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, thường gọi tắt là Kinh Kim Cang, là một trong những kinh điển quan trọng của Phật giáo Đại thừa, và đặc biệt quen thuộc với đông
Combo Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật (Bộ 3 Tập) Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Đức Phật ở trong núi Kỳ Xà Quật tại thành Vương Xá cùng với đại Tỳ
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, thường gọi tắt là Kinh Kim Cang, là một trong những kinh điển quan trọng của Phật giáo Đại thừa, và đặc biệt quen thuộc với đông
  Kinh Kim Cang - Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh Kinh Kim Cang là một trong các bộ kinh quan trọng của Phật giáo nói chung, của Phật giáo Đại thừa nói
MỤC LỤC: NGHI THỨC CÔNG PHU KHUYA NIỆM HƯƠNG LỄ BÁI TÁN PHẬT QUÁN TƯỞNG CHÚ LĂNG NGHIÊM CHÚ ĐẠI BI THẬP CHÚ MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH SÁM QUY
thumb|Bản thảo Phạn văn có minh họa của _Tiểu phẩm bát-nhã kinh_ được tìm thấy ở [[Nepal, niên đại khoảng năm 1511.]] **Tiểu phẩm bát-nhã kinh** (chữ Hán: 小品般若经, phiên âm tiếng Phạn: _Aṣṭasāhasrikā Prajñāpāramitā
Bát nhã bàn nhược ba la mật đa tâm kinh (phiên latinh từ Phạn ngữ : Prajñā Pāramitā Hridaya Sūtra, Prajnaparamitahridaya Sutra; Anh ngữ: Heart of Perfect Wisdom Sutra, tiếng Hoa: 般若波羅蜜多心經; âm Hán Việt:
Nhà xuất bản Tôn giáo Nhà phát hành: Chính Thông Dịch giả: HT. Thích Trí Tịnh Năm xuất bản: 2020 Khổ sách: 15,5 x 23 cm Hình thức: Bìa da nâu cứng Số trang: 1500
nhỏ|287x287Ppx|Quyển kinh A-di-đà bằng [[tiếng Nhật]] **Kinh A-di-đà** (zh. 阿彌陀經, en. Shorter Sukhāvatīvyūha Sūtra) hay **Kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm** hoặc **Kinh** **Xưng Tán
Kim Cương Kinh – Phương Tiện Trí Tuệ Vô Thượng Nhận Thức Kinh Phật Vĩ Đại Nhất Kim cương kinh tên đầy đủ là Kim cương Bát nhã Ba la mật kinh. Trong một lượng
phải|nhỏ|364x364px|Bản Tâm kinh (thể [[văn ngôn) của Triệu Mạnh Phủ, một nhà thư pháp nổi tiếng đời nhà Tống]]
**Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh** (phiên latinh từ Phạn ngữ: _ Maha Prajñā Pāramitā Hridaya Sūtra_,
**Kinh điển Phật giáo** có số lượng cực kỳ lớn, thậm chí xưa lấy 84.000 để ước chừng tượng trưng về số lượng pháp uẩn. Kinh văn Phật giáo truyền miệng hoặc được viết ở
**Cưu-ma-la-thập** (chữ Nho: 鳩摩羅什; tiếng Phạn: **Kumārajīva**; dịch nghĩa là **Đồng Thọ**; sinh năm 344, mất năm 413) là một dịch giả Phật học nổi tiếng, chuyên dịch kinh sách từ văn hệ tiếng Phạn
_ **Kim cương bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh** _ (zh. 金剛般若波羅密多經, sa. _vajracchedikā-prajñāpāramitā-sūtra_), là một bộ kinh quan trọng thuộc hệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh, được lưu truyền rộng rãi vùng Đông Á. Kinh còn mang những tên ngắn khác
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó, để
nhỏ|Bồ Tát Văn Thù **Bát-nhã** (, , chữ Hán: 般若) là thuật ngữ Phật giáo, hàm nghĩa Trí tuệ, Tuệ, Nhận thức. Bát-nhã là một khái niệm trung tâm của Phật giáo Đại thừa, có
**Đại tạng kinh** (, _Dàzàngjīng_; , _Daejanggyeong_; , _Daizōkyō_), còn được gọi tắt là **Tạng kinh** (藏經) hay **Nhất thiết kinh** (一切經), là danh xưng dùng để chỉ các tổng tập Kinh điển Phật giáo
**Đại Phật đỉnh thủ-lăng-nghiêm kinh** (sa. _Śūraṃgama-samādhi-sūtra_; zh. 大佛頂首楞嚴經 Đại Phật đỉnh thủ-lăng-nghiêm kinh), hoặc **Lăng-nghiêm kinh** (楞嚴經), hay còn được gọi là **Trung Ấn Độ Na-lan-đà Đại Đạo tràng Kinh** (中印度那爛陀大道場經), đã được tất
phải|Bộ [[tượng La hán bằng đá trên đỉnh núi Cấm (An Giang)]] **A-la-hán** (tiếng Phạn: _arhat, arhant_; tiếng Pali: _arahat, arahant_; tiếng Tạng: _dgra com pa_; tiếng Trung: 阿羅漢|阿羅漢) trong dân gian thường gọi là
Kinh Niệm Phật Ba La Mật [] Lúc bấy giờ, trưởng-giả Diệu-nguyệt ở trước đức Thế-tôn, đọc bài kệ khen ngợi Phật rồi, thành khẩn thưa hỏi như thế nầy: Kính bạch đức Thế-tôn Toàn-giác,
Kinh Niệm Phật Ba La Mật [] Lúc bấy giờ, trưởng-giả Diệu-nguyệt ở trước đức Thế-tôn, đọc bài kệ khen ngợi Phật rồi, thành khẩn thưa hỏi như thế nầy: Kính bạch đức Thế-tôn Toàn-giác,
Chất liệu nhẫn: được sản xuất bằng chất liệu Titan cao cấp đem lại độ bền tối đa. Thiết kế: độc đáo với 2 vòng, Vòng trong dính sát tay như nhẫn thông thường, vòng
Trang đầu của bộ _Đại thừa nhập Lăng-già kinh_, bản dịch của [[Thật-xoa-nan-đà]] **Nhập Lăng-già kinh** (, _rù lèngqié jīng_; ; ) là một bộ kinh Đại thừa, đặc biệt nhấn mạnh đến tính giác
Đoạn Trừ Phiền Não - Sức Mạnh Từ Kinh Kim Cương Kinh Kim cương là một bộ kinh nổi tiếng trong kho tàng kinh điển Phật giáo Đại thừa. Trong bản Phạn ngữ và Tạng
PHẨM TỰ THỨ NHỨT Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ đức Phật ở trong núi Kỳ Xà Quật tại thành Vương Xá cùng với đại Tỳ Kheo Tăng trên năm ngàn người, đều là
PHẨM TỰ THỨ NHỨT Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ đức Phật ở trong núi Kỳ Xà Quật tại thành Vương Xá cùng với đại Tỳ Kheo Tăng trên năm ngàn người, đều là
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Đức Phật ở trong núi Kỳ Xà Quật tại thành Vương Xá cùng với đại Tỳ Kheo Tăng trên năm ngàn người, đều là những bậc A La
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Đức Phật ở trong núi Kỳ Xà Quật tại thành Vương Xá cùng với đại Tỳ Kheo Tăng trên năm ngàn người, đều là những bậc A La
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Đức Phật ở trong núi Kỳ Xà Quật tại thành Vương Xá cùng với đại Tỳ Kheo Tăng trên năm ngàn người, đều là những bậc A La
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Đức Phật ở trong núi Kỳ Xà Quật tại thành Vương Xá cùng với đại Tỳ Kheo Tăng trên năm ngàn người, đều là những bậc A La
Kinh Kim cang là một trong những bản kinh quan trọng và sớm nhất trong kinh điển Phật giáo Đại thừa. Ở đây, chúng ta sẽ trình bày ý nghĩa của đề kinh Kim cang
Kinh Nhật Tụng (Bìa Da)   Kinh thuộc về Hiển giáo, dịch nghĩa rõ ràng. Chú thuộc mật giáo, phần nhiều để nguyên văn chữ Phạn, gọi là bí mật thần chú, mỗi thần chú đều có sự hiệu nghiệm khác nhau.   MỤC LỤC   NGHI THỨC CÔNG PHU KHUYA NIỆM HƯƠNG LỄ BÁI TÁN PHẬT QUÁN TƯỞNG CHÚ LĂNG NGHIÊM CHÚ ĐẠI BI THẬP CHÚ MA HA BÁT NHàBA LA MẬT ĐA TÂM KINH SÁM QUY MẠNG HỒI HƯỚNG TAM QUY Y ------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------ Công ty phát hành: Công ty Cổ phần Văn hóa Hương Trang Tác Giả: Thích Minh Thời Nhà Xuất bản: Tôn Giáo Số Trang: 528 Năm Xuất Bản: 2016 Kích Thước: 11.5 x 15.5 cm Bìa: Da
Kinh Nhật Tụng (Bìa Da)   Kinh thuộc về Hiển giáo, dịch nghĩa rõ ràng. Chú thuộc mật giáo, phần nhiều để nguyên văn chữ Phạn, gọi là bí mật thần chú, mỗi thần chú
**Huyền Trang** (chữ Hán: 玄奘; bính âm: _Xuán Zàng_; khoảng 602–664), hay **Huyền Tráng**, tục danh **Trần Huy** (陳禕), cũng thường được gọi là **Đường Tam Tạng** (唐三藏) hay **Đường Tăng** (唐僧), là một cao
Sách Tây Vực Ký. Pháp sư Huyền Trang soạn, Hòa Thượng Thích Như Điển và Nguyễn Minh Tiến dịch Việt ngữ. Hội Đồng Hoằng Pháp xuất bản và phát hành toàn cầu. NXB Đà Nẵng xuất
**Thế Thân** (zh. _shìqīn_ 世親, ja. _seshin_, sa. _vasubandhu_, bo. _dbyig gnyen_ དབྱིག་གཉེན་), ~316-396, cũng được dịch là **Thiên Thân** (zh. 天親), gọi theo Hán âm là **Bà-tu-bàn-đầu** (zh. 婆修盤頭), **Bà-tẩu-bàn-đậu** (zh. 婆藪槃豆), là một
KINH KIM CANG GIẢNG GIẢI LỜI ĐẦU SÁCHTrí tuệ Bát-nhã thấy đúng lý Trung đạo, không mắc kẹt ở hai bên có và không v.v… Vì biết rõ vạn vật đều do nhân duyên sanh,
KINH KIM CANG GIẢNG GIẢI LỜI ĐẦU SÁCHTrí tuệ Bát-nhã thấy đúng lý Trung đạo, không mắc kẹt ở hai bên có và không v.v… Vì biết rõ vạn vật đều do nhân duyên sanh,
KINH KIM CANG GIẢNG GIẢI LỜI ĐẦU SÁCHTrí tuệ Bát-nhã thấy đúng lý Trung đạo, không mắc kẹt ở hai bên có và không v.v… Vì biết rõ vạn vật đều do nhân duyên sanh,
**Eberhart** (**Edward**) **Julius Dietrich Conze**, 1904-1979, là một triết gia và một nhà Phật học lỗi lạc người Anh (gốc Đức). Ông đã phiên dịch và sắp xếp bộ Bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh theo hệ thống và
Bhagavad Gita luôn được đọc và nghiền ngẫm bởi các nhà tư tưởng và những người tu luyện, bởi tính minh triết và thâm sâu được hun đúc qua nhiều thế kỷ ở Ấn Độ -
Bhagavad Gita luôn được đọc và nghiền ngẫm bởi các nhà tư tưởng và những người tu luyện, bởi tính minh triết và thâm sâu được hun đúc qua nhiều thế kỷ ở Ấn Độ