✨Trận Hàn Lăng

Trận Hàn Lăng

Trận Hàn Lăng (chữ Hán: 韩陵之战, Hàn Lăng chi chiến) là trận đánh diễn ra vào thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc.

Từ năm 531 đến năm 533, hai thế lực Cao Hoan và họ Nhĩ Chu (chữ Hán: 尔朱氏, Nhĩ Chu thị) tiến hành cuộc chiến tranh nhằm tranh giành quyền khống chế triều đình Bắc Ngụy. Năm 531, đôi bên lấy khu vực núi Hàn Lăng , phụ cận Nghiệp Thành làm chiến trường. Kết quả Cao Hoan giành được toàn thắng, chủ soái của họ Nhĩ Chu là Nhĩ Chu Triệu chạy về Tấn Dương, không lâu sau phải treo cổ tự sát.

Bối cảnh

Cuối thời Bắc Ngụy, các tập đoàn thống trị tranh đấu kịch liệt. Năm 530, Bắc Ngụy Hiếu Trang Đế không chấp nhận sự khống chế của Nhĩ Chu Vinh, dẫn dụ Nhĩ Chu Vinh vào cung rồi sát hại.

Tháng 10, cháu của Nhĩ Chu Vinh là Nhĩ Chu Triệu, đang làm thứ sử Phần Châu, lập thái thú Thái Nguyên, Trường Quảng Vương Nguyên Diệp làm vua, tự phong mình làm Đại tướng quân. Tháng 12, Nhĩ Chu Triệu hưng binh đánh vào Lạc Dương, thắt cổ Bắc Ngụy Hiếu Trang Đế. Họ Nhĩ Chu lại một lần nữa thao túng triều chính.

Tấn Châu thứ sử Cao Hoan phụng mệnh mang theo hơn 10 vạn lưu dân từ 6 trấn đã khởi nghĩa thất bại bị xua đến 2 châu Tịnh, Tứ, đi qua khu vực Thái Hành, phía đông Thường Sơn tìm lương thực, thừa cơ thoát khỏi họ Nhĩ Chu, rồi liên hợp các đại tộc ở Hà Bắc, gấp rút chuẩn bị tiến hành thảo phạt họ Nhĩ Chu.

Tháng 2 năm 531, họ Nhĩ Chu đổi lập Nguyên Cung làm vua, đổi niên hiệu là Phổ Thái năm đầu. Tháng 6, Cao Hoan đến Tín Đô khởi binh, công khai phản đối họ Nhĩ Chu. Tháng 10, Cao Hoan ủng hộ Bột Hải thái thú Nguyên Lãng làm vua. Nguyên Lãng phong Cao Hoan làm thị trung, thừa tướng, đô đốc trung ngoại chư quân sự, đại hành đài.

Các tướng thuộc phe cánh họ Nhĩ Chu chia đường đánh Cao Hoan. Nhĩ Chu Trọng Viễn, Nhĩ Chu Độ Luật cùng Phiếu kị đại tướng quân Hộc Tư Xuân, xa kị đại tướng quân Hạ Bạt Thắng, Giả Hiển Trí đóng quân ở Dương Bình. Nhĩ Chu Triệu lĩnh binh ra khỏi Tỉnh Hình quan đến Quảng A, hô hào rằng có 10 vạn quân.

Cao Hoan thấy đại quân họ Nhĩ Chu áp cảnh, liền bày ra kế phản gián, tung tin khắp nơi, khiến cho các tướng thuộc phe cánh họ Nhĩ Chu nghi ngờ lẫn nhau, quanh co không tiến. Từ Châu thứ sử Nhĩ Chu Trọng Viễn và Nhĩ Chu Độ Luật dẫn binh chạy về phía nam. Cao Hoan thừa cơ tấn công Quảng A, đánh bại quân của Nhĩ Chu Triệu, bắt sống hơn 5000 người; tháng 11, thừa thắng đánh Nghiệp. Tương Châu thứ sử Lưu Đản đóng cửa thành cố thủ.

Diễn biến

Tháng 2 năm 532, quân của Cao Hoan đào địa đạo, dựng cột chống giữ, đào đến dưới Nghiệp Thành, đốt cột để phá thành, đánh được Nghiệp, bắt Lưu Đản. Tháng 3, Nguyên Lãng đưa bách quan vào Nghiệp Thành.

Trong tháng ấy, các tướng thuộc phe cánh họ Nhĩ Chu đáp ứng lời kêu gọi của Nhĩ Chu Thế Long, tạm thời quay lại hòa hảo với nhau, hợp sức đối phó Cao Hoan. Tháng 3 nhuận, các cánh quân của Nhĩ Chu Thiên Quang từ Trường An, Nhĩ Chu Triệu từ Tấn Dương, Nhĩ Chu Độ Luật từ Lạc Dương, Nhĩ Chu Trọng Viễn từ Đông Quận xuất phát, hội sư ở phía nam Nghiệp Thành, hô hào rằng có 20 vạn quân, bày trận ở 2 bên bờ Hoàn Thủy.

Cao Hoan phái Phong Long Chi giữ Nghiệp Thành, tự mình lĩnh binh đóng ở đường lớn ở tây bắc Nghiệp Thành; đại đô đốc Cao Ngao Tào đưa bộ khúc 3000 người, đều là đồng hương, đi theo.

Ngày 26, Nhĩ Chu Triệu đưa 3000 khinh kị nhân đêm tối đánh cửa tây Nghiệp Thành, không thắng phải lui về. Khi ấy Cao Hoan kị binh chưa đến 2000, bộ binh không đầy 3 vạn, tự biết ta ít địch nhiều, nên vào ngày 28 cho bày viên trận tại núi Hàn Lăng, rồi buộc bò, lừa lại với nhau, ngăn trở đường về, khiến cho bộ hạ của mình quyết tâm tử chiến.

Cao Hoan tự lĩnh trung quân, em họ là Cao Nhạc lĩnh hữu quân, Cao Ngao Tào lĩnh tả quân, đón đánh quân của họ Nhĩ Chu. Ban đầu, trung quân của Cao Hoan gặp bất lợi, Nhĩ Chu Triệu thừa cơ đánh mạnh. Trong lúc nguy cấp, Cao Nhạc lập tức lĩnh 500 kị binh xung phong đón đánh bên phải; Cao Ngao Tào đưa khoảng ngàn người đón đánh bên trái; bộ tướng của Cao Hoan là Hộc Luật Kim đưa quân quấy rối phía sau. Quân của Cao Hoan liên kết vây đánh, khiến cho quân của Nhĩ Chu Triệu đại bại.

Hạ Bạt Thắng và Từ Châu thứ sử Đỗ Đức ở trong trận đầu hàng. Nhĩ Chu Triệu đưa tàn binh trốn về Tấn Dương, Nhĩ Chu Trọng Viễn trốn về Đông Quận, về sau đầu hàng Nam triều Lương.

Hậu quả

Cao Hoan thừa thế tiến vào Lạc Dương, phế truất Bắc Ngụy Tiết Mẫn Đế, lập một người chắt khác của Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế là Nguyên Tu làm Bắc Ngụy Hiếu Vũ Đế. Bắc Ngụy Hiếu Vũ Đế sau khi lên ngôi, lập tức phong Cao Hoan làm Đại thừa tướng, Thiên Trụ đại tướng quân, Thái sư, được thế tập chức Định Châu thứ sử. Đại quyền quân sự - chính trị của vương triều Bắc Ngụy thực chất đã rơi vào tay Cao Hoan.

Tháng 4, sau khi Hộc Tư Xuân thua chạy về Lạc Dương, soái quân bản bộ làm phản họ Nhĩ Chu, giết Nhĩ Chu Thế Long và Nhĩ Chu Ngạn Bá cùng đồng đảng của họ, bắt Nhĩ Chu Thiên Quang, Nhĩ Chu Độ Luật dâng cho Cao Hoan.

Tháng 7, Cao Hoan đích thân chỉ huy 10 vạn đại quân, chia làm 3 đường tiến đánh Tấn Dương. Nhĩ Chu Triệu sợ hãi chạy đến khu vực Bắc Tú Dung Xuyên, phái Nhĩ Chu Hiển Thọ trấn thủ Trường An. Vũ Văn Thái dùng mưu phá được Trường An, bắt được Nhĩ Chu Hiển Thọ ở Hoa Âm, đem giết đi. Nhĩ Chu Triệu lại chạy về Tú Dung quận.

Cao Hoan đến Tịnh Châu, xây dựng Đại Thừa tướng phủ, biến Tịnh Châu trở thành vùng đất căn bản cho bá nghiệp của mình. Tiếp theo, ông lựa chọn chiến thuật làm địch mỏi mệt, nhiều lần bắn tin muốn tiến đánh khu vực Tú Dung, nhưng đều án binh bất động, khiến cho Nhĩ Chu Triệu ở Tú Dung ứng phó khổ sở, binh sĩ mệt mỏi không chịu nổi mà buông lỏng đề phòng.

Tháng 1 năm 533, vào lúc Nhĩ Chu Triệu đang ở trong tiệc, Cao Hoan phái Đậu Thái lĩnh tinh binh đi trước, hành quân với tốc độ 1 ngày 1 đêm đi được 150 dặm, tập kích Tú Dung; còn Cao Hoan đưa đại quân theo sau. Nhĩ Chu Triệu không kịp trở tay, đại bại ở Tú Vinh thành. Nhĩ Chu Triệu chỉ kịp đưa vài kị binh chạy đến Xích Hồng lĩnh, giết chết con ngựa trắng của mình, rồi treo cổ tự sát. Đến đây thì thế lực của họ Nhĩ Chu hoàn toàn bị tiêu diệt.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận Hàn Lăng** (chữ Hán: 韩陵之战, Hàn Lăng chi chiến) là trận đánh diễn ra vào thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Từ năm 531 đến năm 533, hai thế lực Cao
**Trận Di Lăng** (chữ Hán: 夷陵之戰 _Di Lăng chi chiến_) hay còn gọi là **trận Khiêu Đình** (猇亭之戰 _Khiêu Đình chi chiến_) hoặc **trận Hào Đình**, là trận chiến giữa nước Thục Hán và nước
**Trận Mã Lăng** (chữ Hán: 馬陵之戰, Hán Việt: _Mã Lăng chi chiến_) là cuộc chiến tranh diễn ra vào giữa thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc, có sự tham gia của hai nước
**Trận Hán Trung 217-219** là trận chiến tranh giành quyền kiểm soát khu vực Đông Xuyên thời Tam Quốc giữa hai thế lực Ngụy vương Tào Tháo và Lưu Bị, không lâu trước khi hai
**Chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang** là một loạt trận đánh diễn ra từ ngày 18 tháng 9 năm 1427 đến cuối tháng 10 năm 1427 giữa nghĩa quân Lam Sơn người Việt do
**Trận Hán Trung** diễn ra năm 215 là trận chiến tranh giành quyền kiểm soát khu vực Đông Xuyên thời Tam Quốc giữa hai quân phiệt Tào Tháo và Trương Lỗ. Kết quả Tào Tháo
**Trận Giang Lăng** (chữ Hán: 江陵之戰 _Giang Lăng chi chiến_) là trận đánh thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc giữa các phe quân phiệt: liên minh Tôn Quyền – Lưu Bị giao tranh
**Trận Yển Lăng** (chữ Hán:鄢陵之战, Hán Việt: _Yển Lăng chi chiến_) là trận chiến tranh giành ngôi bá chủ ở Trung Nguyên giữa hai nước Tấn và Sở vào giữa thời Xuân Thu. ## Nguyên
**Trận Đại Lăng Hà** (chữ Hán: 大凌河之战 _Đại Lăng Hà chi chiến_) là cuộc chiến giữa nhà Hậu Kim và nhà Minh đầu thế kỷ 17 trong lịch sử Trung Quốc. Nhà Hậu Kim tấn
**Quý Hán** (季漢; 221–263), thường gọi là **Thục Hán** (蜀漢), quốc hiệu chính thức là **Hán** (漢), còn bị gọi theo nghĩa miệt thị là **Thục** (蜀), là một trong ba quốc gia trong thời
**Trần Bình** (, ? - 178 TCN), nguyên quán ở làng Hội Dũ, huyện Hương Vũ, là nhà quân sự, chính trị thời chiến tranh Hán-Sở và nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc,
**Trần Nguyên Hãn** (chữ Hán: 陳元扞, 1390–1429) là nhà quân sự Đại Việt thời Trần - Lê sơ. Ông là người thuộc dòng dõi nhà Trần, nổi bật với việc tham gia khởi nghĩa Lam
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Trần Tuyên Đế** (chữ Hán: 陳宣帝, 530–582), tên húy là **Trần Húc** (), hay **Trần Đàm Húc** (陳曇頊), tên tự **Thiệu Thế** (紹世), tiểu tự **Sư Lợi** (師利), là một hoàng đế của triều Trần
**Hậu Hán Thư** () là một trong những tác phẩm lịch sử chính thức của Trung Quốc do Phạm Diệp biên soạn vào thế kỷ thứ 5, sử dụng một số cuốn sách sử và
**_Đông Quán Hán ký_** (chữ Hán: 东观汉记), người đời Hán gọi là _Đông Quán ký_, là bộ sách theo thể kỷ truyện ghi lại lịch sử đời Đông Hán, từ thời Hán Quang Vũ Đế
**Lý Lăng** (chữ Hán: 李陵, ? – 74 TCN), tự **Thiếu Khanh**, người Thành Kỷ, Lũng Tây , tướng lãnh nhà Tây Hán. Ông chỉ huy 5000 bộ binh áp sát Thiền Vu đình của
**Trần Thúc Bảo** (, 553–604, trị vì 582–589), thường được biết đến trong sử sách là **Trần Hậu Chúa** (陳後主), thụy hiệu **Trường Thành Dương công** (長城煬公), tên tự **Nguyên Tú** (元秀), tiểu tự **Hoàng
**Trần Nghệ Tông** (chữ Hán: 陳藝宗) (20 tháng 12 năm 1321 – 6 tháng 1 năm 1395), tên húy là **Cung Định Vương Trần Phủ** (陳暊) hoặc **Trần Thúc Minh** (陳叔明), xưng hiệu **Nghệ Hoàng**
**Trận Nhai Đình** (chữ Hán: 街亭之戰, _Nhai Đình chi chiến_) là một trận chiến giữa hai nước Tào Ngụy và Thục Hán diễn ra vào năm 228. Đây là một phần trong Chiến tranh Thục-Ngụy
**Trần Khát Chân** (chữ Hán: 陳渴真; 1370–1399) là một tướng lĩnh Đại Việt cuối thời Trần. Ông nổi bật với việc chỉ huy quân đội Việt chống lại các đợt tấn công của Chiêm Thành,
**Hùng Đàm Lãng** (chữ Hán: 熊昙朗, ? - ?) người Nam Xương, Dự Chương, nhân vật quân sự cuối nhà Lương đầu nhà Trần. ## Cuộc đời ### Dối trá khôn lường Đời đời là
**Làng Đông Sơn** là một địa danh trở nên nổi tiếng vào giữa thập niên 1920 khi những di chỉ khảo cổ của nền văn hóa Đông Sơn lần đầu tiên được phát hiện tại
**Trận Tỉnh Hình** (chữ Hán: _井陘之戰_, _Tỉnh Hình chi chiến_), còn được biết đến là **trận Hàn Tín phá Triệu**, là một trận đánh diễn ra vào năm 204 TCN tại Trung Quốc thời cổ
**Trận Đồng Quan** (chữ Hán: 潼关之战, _Đồng Quan chi chiến_), thường gọi là **trận Tiểu Quan** (小关之战, _Tiểu Quan chi chiến_) là trận đánh diễn ra vào tháng 1 năm 537, có tính quyết định
**Nhà Trần** () (557-589), đôi khi gọi là **Nam triều Trần** (南朝陳), là triều đại thứ tư và cuối cùng trong số các triều đại thuộc Nam triều thời kỳ Nam-Bắc triều ở Trung Quốc,
**_Quân đội nhà Thục Hán_** phản ánh việc tổ chức quân đội của nhà Quý Hán trong khoảng 42 năm tồn tại chính thức trong thời đại Tam quốc của lịch sử Trung Hoa. Hoạt
**Trần Tuyên Hoa** (chữ Hán: 陳宣華, 577 - 605), hay **Tuyên Hoa phu nhân** (宣華夫人), nguyên là công chúa Nam Trần, em gái của Trần Hậu Chúa Trần Thúc Bảo - vị hoàng đế cuối
nhỏ|phải|Lăng Thành Cát Tư Hãn **Lăng Thành Cát Tư Hãn** () là một công trình kiến trúc ở Ejin Horo, Ngạc Nhĩ Đa Tư, Nội Mông, Trung Quốc. Trên thực tế, lăng tẩm này không
**Trần Bắc Hà** (19 tháng 8 năm 1956 - 18 tháng 7 năm 2019) từng là Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) (2008-2016) và Tổng
**Hàn Quỹ** (chữ Hán: 韩轨, ? - ?), tự **Bách Niên**, người huyện Địch Na, quận Thái An , tướng lãnh nhà Đông Ngụy, nhà Bắc Tề. ## Cuộc đời và sự nghiệp Quỹ từ
**Ninh Cường** (chữ Hán phồn thể:寧強縣, chữ Hán giản thể: 宁强县, âm Hán Việt: _Ninh Cường huyện_) là một huyện thuộc địa cấp thị Hán Trung, tỉnh Thiểm Tây, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
**Danh sách các trận chiến** này được liệt kê mang **tính địa lý, theo từng quốc gia với lãnh thổ hiện tại**. ## Áo * Trận đồng Marchfeld (**Trận Dürnkrut và Jedenspeigen**) - 1278 *
**Hán Quang Vũ Đế** (chữ Hán: 漢光武帝; 15 tháng 1, 5 TCN – 29 tháng 3, 57), hay còn gọi **Hán Thế Tổ** (漢世祖), húy **Lưu Tú** (劉秀), biểu tự **Văn Thúc** (文叔), là vị
**Hán Vũ Đế** (chữ Hán: 漢武帝; 31 tháng 7, 156 TCN - 29 tháng 3, 87 TCN), tên thật **Lưu Triệt** (劉徹), biểu tự **Thông** (通), là vị hoàng đế thứ bảy của nhà Hán
## Lịch sử Tây Hán ### Cao Đế khai quốc Ba tháng đầu tiên sau cái chết của Tần Thủy Hoàng tại Sa Khâu, các cuộc nổi dậy của nông dân, tù nhân, binh sĩ
**Nhà Hán** là hoàng triều thứ hai trong lịch sử Trung Quốc, do thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Lưu Bang thành lập và được cai trị bởi gia tộc họ Lưu. Tiếp nối nhà
**Hán Cao Tổ** (chữ Hán: 漢高祖; 256 TCN – 1 tháng 6 năm 195 TCN), húy **Lưu Bang** (劉邦), biểu tự **Quý** (季), là vị hoàng đế khai quốc của triều đại nhà Hán trong
Thắng cảnh [[Núi Non Nước|Dục Thúy Sơn - Núi thơ ở thành phố Ninh Bình, tên gọi do Trương Hán Siêu đặt]] **Trương Hán Siêu** (1274 – 1354, chữ Hán: 張漢超, tên tự là _Thăng
**Hàn Tín** (; 230 TCN – 196 TCN), thường gọi theo tước hiệu là **Hoài Âm hầu** (淮陰候), là một danh tướng của nhà Hán được người đời sau ca ngợi là Binh Tiên với
**Trần Thiêm Bình** (添平, ? – 1406) hoặc **Trần Thiên Bình** (陳天平) ## Cầu viện nhà Minh Đến năm 1400, nhân sự kiện Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần-Đại Việt, lập ra
**Trận Tương Dương – Phàn Thành** là trận chiến thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc giữa phe Lưu Bị (người sáng lập nước Thục Hán) và Tào Tháo (người sáng lập nước Tào
**Trận Xích Bích** () là một trận đánh lớn cuối cùng thời Đông Hán có tính chất quyết định đến cục diện thời Tam Quốc. Trận đánh diễn ra vào mùa đông năm Kiến An
**Thang Trấn Nghiệp** (chữ Hán: 湯鎮業, tên tiếng Anh: Kent Tong Chun Yip, sinh ngày 29 tháng 9 năm 1958) là nam diễn viên nổi tiếng Hồng Kông, một trong "Ngũ hổ tướng" 5 diễn
**Chiến tranh Hán – Hung Nô** (漢匈戰爭 - Hán-Hung chiến tranh,漢匈百年戰爭 - Hán-Hung bách niên chiến tranh) là tên được dùng để chỉ hàng loạt các trận đánh giữa nhà Hán và các bộ lạc
**Trần Thang** (chữ Hán: 陳湯; ? – 6 TCN), tên tự là **Tử Công**, người Hà Khâu Sơn Dương, tướng lĩnh thời Tây Hán. ## Tiểu sử ### Thuở hàn vi Trần Thang thuở nhỏ
Chiến trường Quảng Trị năm 1972 **Mặt trận Trị Thiên Huế năm 1972** là một trong các chiến trường chính của Chiến tranh Việt Nam năm 1972. Kết thúc năm 1972, với các diễn biến
**Trần Dư** (陳餘; ?-204 TCN) là tướng nước Triệu thời Hán Sở trong lịch sử Trung Quốc, xuất thân từ Đại Lương (nước Nguỵ). ## Kết nghĩa với Trương Nhĩ ### Thuở hàn vi Trần
**Chiến tranh Hán-Sở** (漢楚爭雄 _Hán Sở tranh hùng_, 楚漢戰爭 _Sở Hán chiến tranh_, 楚漢相爭 _Sở Hán tương tranh_ hay 楚漢春秋 _Sở Hán Xuân Thu_, 206–202 TCN) là thời kỳ sau thời đại nhà Tần ở
**Lục trấn khởi nghĩa** (chữ Hán: 六镇起义) còn gọi là **loạn Lục trấn** (六镇之亂, Lục trấn chi loạn) là một chuỗi những cuộc bạo động bùng nổ vào đời Nam Bắc triều, được gây ra