✨Lý Lăng

Lý Lăng

Lý Lăng (chữ Hán: 李陵, ? – 74 TCN), tự Thiếu Khanh, người Thành Kỷ, Lũng Tây , tướng lãnh nhà Tây Hán. Ông chỉ huy 5000 bộ binh áp sát Thiền Vu đình của Hung Nô, sau đó đơn độc chống lại 8 vạn kỵ binh của địch, tác chiến dũng cảm, gây ra thương vong nặng nề cho kẻ địch, nhưng không còn binh khí, không có cứu viện, cuối cùng thất bại nên phải đầu hàng.

Thân thế

Tổ tiên của Lăng là Lý Tín – tướng nước Tần cuối thời Chiến Quốc. Lý Tín được xem là thủy tổ của sĩ tộc họ Lý ở Lũng Tây, về sau hoàng thất nhà Đường cũng nhận là hậu duệ của Lý Tín.

Ông nội là danh tướng Lý Quảng nhà Tây Hán. Lý Quảng là người nổi tiếng nhất trong họ.

Cha là Lý Đương Hộ – con trai trưởng của Lý Quảng. Đương Hộ mất sớm, khi ấy Lăng còn trong bụng mẹ (nên gọi là di phúc tử).

Khởi nghiệp

Thiếu thời Lăng được làm Thị trung Kiến Chương giám . Lăng giỏi cưỡi ngựa bắn cung, yêu sĩ tốt, khiêm nhường với sĩ đại phu, nên rất có danh vọng. Hán Vũ đế cho rằng Lăng có phong thái của Lý Quảng, sai ông đem 800 kỵ binh, thâm nhập đất Hung Nô hơn 2000 dặm, vượt qua Cư Duyên xem xét địa hình, không gặp địch nên quay về. Sau đó Lăng được bái làm Kỵ đô úy, đem 5000 người dũng cảm tập luyện ở Tửu Tuyền, Trương Dịch để phòng bị Hung Nô. Vài năm sau, Vũ đế khiến Nhị sư tướng quân Lý Quảng Lợi tấn công Đại Uyển, sai Lăng đem binh của 5 hiệu theo sau. Lăng đến biên giới, gặp lúc Lý Quảng Lợi lui quân; Vũ đế ban thư của Lăng, khiến ông lưu lại binh sĩ, đem 500 khinh kỵ ra Đôn Hoàng, đến Diêm Thủy , đón Quảng Lợi trở về, rồi ở lại đồn trú Trương Dịch.. Vũ đế triệu Lăng, muốn sai ông vận chuyển lương thảo cho Lý Quảng Lợi. Lăng được triệu kiến ở Vũ Đài , khấu đầu tự xin rằng: “Thần vốn nắm quân đồn trú biên thùy, đều là dũng sĩ Kinh Sở, kiếm khách kỳ tài, sức bắt được cọp, bắn đâu trúng đấy, nguyện tự đảm đương một cánh, đến phía nam núi Lan Càn để chia binh lực của Thiền vu, không cần ở cùng cánh quân với Nhị sư tướng quân.” Vũ đế nói: “Mày xấu hổ vì làm bộ hạ à! Ta phát quân đã nhiều, không còn ngựa để cấp cho mày nữa đâu!” Lăng đáp: “Không cần ngựa, thần nguyện lấy ít đánh nhiều, đem bộ binh 5000 người đạp bằng Thiền Vu đình .” Vũ đế hài lòng mà đồng ý, nhân đó giáng chiếu cho Cường nỗ đô úy Lộ Bác Đức đem binh đón tiếp quân của Lăng ở giữa đường. Bác Đức vốn là Phục ba tướng quân, cũng xấu hổ vì làm hậu đội của Lăng, tâu rằng: “Đương mùa thu, ngựa của Hung Nô béo tốt, chưa thể cùng họ giao chiến, thần nguyện giữ Lăng đến mùa xuân, cùng ông ta lấy kỵ binh của Tửu Tuyền, Trương Dịch đều có 5000 người, chia ra đánh hai núi Đông – Tây Tuấn Kê , có thể bắt được giặc.” Lời tâu dâng lên, Vũ đế giận, ngờ rằng Lăng hối hận, không muốn ra trận, nên xúi giục Bác Đức dâng lời tâu này, bèn giáng chiếu cho Bác Đức rằng: “Ta muốn cho thêm Lý Lăng kỵ binh, thì hắn nói ‘muốn lấy ít đánh nhiều’. Nay giặc xâm nhập Tây Hà, mày đưa binh đi gấp Tây Hà , chặn đường Câu Doanh .” Rồi giáng chiếu cho Lăng rằng: “Đã hẹn tháng 9 xuất phát, ra Già Lỗ chướng ở phía nam núi Đông Tuấn Kê, quanh quẩn để quan sát địch, nếu không thấy gì, theo đường cũ của Trác Dã hầu Triệu Phá Nô về thành Thụ Hàng để nghỉ ngơi, rồi sai dịch kỵ sĩ báo cáo. Mày với Bác Đức nói như vậy là sao? Hãy trả lời cho rõ ràng.” Vì thế Lăng đem 5000 bộ tốt ra Cư Duyên, đi về phía bắc 30 ngày, đến núi Tuấn Kê thì dừng lại để dựng doanh trại, vẽ lại địa hình của những sông núi đã đi qua, sai kỵ binh dưới quyền là Trần Bộ Nhạc đem về để báo cáo. Bộ Nhạc được triệu kiến, thuật lại Lăng chỉ huy đắc lực ra sao, tướng sĩ dốc sức ra sao, Vũ đế rất hài lòng, bái Bộ Nhạc làm Lang.

Huyết chiến Hung Nô

Lăng đến núi Tuấn Kê, cùng Thư Đê Hầu thiền vu đối đầu trực diện, thiền vu phái khoảng 3 vạn kỵ binh vây quân của ông. Quân Hán ở giữa 2 tòa núi Tuấn Kê, kết xe lớn làm doanh. Lăng đưa binh sĩ ra ngoài doanh bày trận, hàng trước đặt kích, thuẫn, hàng sau đặt cung, nỏ, truyền lệnh: “Nghe tiếng trống thì thả (dây cung), nghe tiếng chiêng thì dừng.” Quân Hung Nô thấy quân Hán ít thì xông đến trước doanh, Lăng xua quân xông ra, ngàn nỏ cùng bắn, nghe tiếng dây rung thì có người ngã lăn ra. Quân Hung Nô chạy lên núi, quân Hán truy kích, giết vài ngàn người. Thiền vu cả sợ, triệu Tả - Hữu Hiền vương đem hơn 8 vạn kỵ binh tấn công quân Hán. Lăng vừa đánh vừa lui, đi về phía nam vài ngày thì vào trong sơn cốc. Liên tiếp chiến đấu khiến binh sĩ Hán chịu nhiều thương vong, ai bị 3 vết thương thì được chở bằng xe kéo, ai bị 2 vết thương thì kéo xe, ai bị 1 vết thương thì tiếp tục chiến đấu. Bấy giờ nữ quyến của tội nhân ở Quan Đông bị đày đến vùng biên, gả cho sĩ tốt, phần lớn giấu trong xe. Lăng thấy sĩ khí suy giảm, lấy cớ trong quân có đàn bà nên mới như vậy, đem ra giết cả đi . Hôm sau lại giao chiến, quân Hán chém hơn 3000 thủ cấp của địch. Lăng đưa binh về phía đông nam, men theo đường Long Thành cũ , chừng 4, 5 ngày, đi vào bãi lau sậy của một cái chằm lớn, người Hung Nô nương theo chiều gió nổi lửa, Lăng cũng lệnh cho trong quân nổi lửa để tự cứu Nhan Sư Cổ chú giải: “Sớm tự thiêu cỏ cây bên mình, khiến lửa của giặc không bén kịp.”. Quân Hán tiếp tục đi về phía nam, ở dưới một tòa núi. Thiền vu ở mặt nam trèo lên núi, sai con trai đem kỵ binh đánh Lăng. Bộ binh Hán ở trong rừng cây, mai phục giết chết vài ngàn kẻ địch, nhân đó phát liên nỗ nhằm vào thiền vu, thiền vu xuống núi chạy trốn. Tù binh Hung Nô bị bắt vào ngày hôm ấy kể rằng: “Thiền vu nói: ‘Đây tinh binh của Hán, đánh mà không thể hạ, ngày đêm dẫn ta về phía nam gần biên giới, phải chăng là có phục binh?’ Các đương hộ, quân trưởng đều nói: ‘Thiền vu tự đem mấy vạn kỵ binh đánh mấy ngàn người Hán mà không thể diệt, ngày sau làm sao tiếp tục sai phái các tộc khác, càng khiến cho Hán xem thường Hung Nô. Hãy tiếp tục chiến đấu trong sơn cốc, còn chừng bốn, năm mười dặm sẽ gặp đất bằng, không thể phá thì về.’” , trốn sang đầu hàng Hung Nô, nói thật rằng: “Quân của Lăng không có hậu viện, mũi tên đã hết, chỉ còn Hiệu của tướng quân và Thành An hầu, đều có 800 người làm hàng trước, lấy vàng và trắng làm cờ, nên lấy kỵ binh tinh nhuệ bắn vào họ thì lập tức phá được.” (Thành An hầu có tên là Hàn Diên Niên, người quận Dĩnh Xuyên. Cha của Diên Niên là Tế Nam tướng Hàn Thiên Thu, tử trận khi đánh Nam Việt, nên Vũ đế phong Duyên Niên làm hầu, nay làm hiệu úy dưới quyền của Lăng.) Thiền vu được tin thì cả mừng, sai tất cả kỵ binh tấn công quân Hán, hô lớn rằng: “Lý Lăng, Hàn Diên Niên mau đầu hàng.” Quân Hung Nô chẹn đường đánh rát quân Hán; quân Hung Nô ở trên núi, trong khi quân Hán ở dưới sơn cốc. Quân Hung Nô 4 mặt cùng bắn, tên bay như mưa; quân Hán đi về phía nam, còn cách núi Đê Hãn một ngày đường thì hết sạch tên, trước sau đã dùng đến 50 vạn mũi tên. Quân Hán bỏ xe mà đi, còn hơn 3000 người, đành bẻ thanh gỗ của xe làm vũ khí, chỉ các viên trưởng quan mới có lưỡi đao dài chừng 1 thước, tiến vào khe hẹp của sơn cốc. Quân Hung Nô chẹn phía sau, lựa chỗ hiểm yếu lấy đá lấp đường. Quân Hán chết nhiều, không thể đi tiếp. Lúc hoàng hôn, Lăng đổi áo ngắn cộc tay, một mình ra khỏi doanh, ngăn bộ hạ rằng: “Đừng theo ta, trượng phu một mình đi bắt thiền vu.” Hồi lâu Lăng quay về, nói: “Binh bại rồi, chết đi thôi!” Tướng lãnh dưới quyền nói: “Tướng quân uy chấn Hung Nô, dẫu trời khiến cho việc không thành, nhưng ngày sau tìm được lối thoát để quay về, như Trác Dã hầu (tức Triệu Phá Nô) bị giặc bắt được, sau này trốn về, được thiên tử đãi ngộ theo lễ tân khách, huống hồ là trường hợp của tướng quân.” Lăng nói: “Anh đừng nói nữa! Ta không chết thì chẳng phải là tráng sĩ!” Vì thế quân Hán chặt hết tinh kỳ, đem đồ quý giá chôn xuống đất; Lăng than rằng: “Nếu còn vài mươi mũi tên, thì đủ để thoát thân rồi. Nay không còn binh khí để tiếp tục chiến đấu, trời sáng đành bó tay chịu trói mà thôi! Chẳng bằng như chim thú tan chạy, ai chạy thoát thì trở về báo cáo với thiên tử.” Lăng lệnh cho quân sĩ mỗi người đem theo 2 thăng gạo rang, một khối băng, ước hẹn gặp lại ở Già Lỗ chướng. Nửa đêm, Lăng muốn đánh trống khích lệ sĩ khí, nhưng trống không kêu. Lăng và Hàn Diên Niên lên ngựa, tráng sĩ đi theo có hơn 10 người. Vài ngàn kỵ binh Hung Nô đuổi theo, Diên Niên bị giết; Lăng nói: “Không còn mặt mũi gặp lại bệ hạ.” Rồi đầu hàng. Quân sĩ của Lăng phân tán mà chạy, thoát về biên thùy chỉ hơn 400 người.

Căn cứ nghiên cứu của nhà khảo cổ học người Liên Xô là Sergei Vladimirovich Kiselev (1905 – 1962), Lăng ở đất phong của mình – thượng du sông Enisei, nam bộ Siberia – đã kiến lập nước Kiên Côn (Jiānkūn), đặt đô thành ở vị trí ngày nay là Abakan, Cộng hòa Khakassia, LB Nga.

Chung thân tha hương

Tháng 3 ÂL năm Chinh Hòa thứ 3 (90 TCN), tướng Hán là bọn Lý Quảng Lợi chia 3 đường tấn công Hung Nô, người Hung Nô gói ghém nhu yếu rút lui. Ngự sử đại phu Thương Khâu Thành đem 2 vạn binh ra Tây Hà, theo đường tắt truy kích, không kịp nên quay về. Lăng theo đại tướng của Hung Nô (không rõ là ai) đem hơn 3 vạn kỵ binh đuổi theo, giao chiến 9 ngày, đến sông Bồ Nô , quân Hung Nô thất bại nên lui về.; đến năm sau Lăng đầu hàng, được thiền vu trọng đãi, nhưng chưa dám tìm gặp Vũ. Vũ chịu lưu đày hơn 10 năm, thiền vu mới sai Lăng đi Bắc Hải thuyết phục Vũ. Lăng bày tiệc ca vũ, hết lời khuyên Vũ khuất phục, nhưng Vũ cương quyết từ chối. Uống rượu vài ngày, Lăng nhắc lại đề nghị ấy, Vũ thà chết không theo, ông bùi ngùi than rằng: “Ôi chao, nghĩa sĩ đấy! Tội của Lăng và Vệ Luật thấu lên đến trời rồi.” Rồi chảy nước mắt thấm đẫm vạt áo, từ biệt Vũ mà về.

Lăng hổ thẹn với Vũ, không tự đến tìm Vũ nữa, mà sai vợ tặng cho Vũ vài mươi đầu bò, cừu. Đến khi nhận được tin tình báo ở Vân Trung, rằng quan lại nhà Hán đang để tang, ngờ là Hán Vũ đế giá băng (87 TCN), Lăng mới đi Bắc Hải thông báo cho Vũ biết. thậm chí trịnh trọng gọi là Tô – Lý thể; nhưng cũng có quan điểm cho rằng người đời sau thác danh hai người Tô – Lý sáng tác ra những bài thơ này. Trong Đôn Hoàng di thư (敦煌遗书), người ta tìm thấy hai bài Lý Lăng biện vănTô Vũ Lý Lăng chấp biệt từ, không rõ tác giả, càng khẳng định giả thuyết thứ 2.

Sử cũ chỉ xác nhận tác phẩm duy nhất của Lý Lăng là bài ca theo thể Cổ phong vào lúc từ biệt Tô Vũ, được đời sau gọi là Biệt ca (別歌).

Hậu duệ

Sử cũ không nói rõ Lăng có bao nhiêu con cái, chỉ nhắc đến 1 người con trai của ông. Năm Ngũ Phượng thứ 2 (56 TCN) thời Hán Tuyên đế, Hung Nô liên tiếp phát sinh nội loạn, con trai của Lý Lăng muốn lập Ô Tạ đô úy, mưu đồ bại lộ, bị thiền vu Hô Hàn Da giết chết.

Trong giai đoạn dung hợp dân tộc từ cuối thời Nam Bắc triều đến Tùy – Đường, cuộc hôn nhân dị chủng của Lăng trở thành cái cớ cho vài trường hợp dân tộc thiểu số ở bắc Trung Quốc và xa hơn nữa tự nhận là hậu duệ của ông:

  • Anh em Lý Hiền, Lý Viễn, Lý Mục, là tướng lãnh, khai quốc công thần nhà Tây Ngụy, Bắc Chu và Tùy, vốn là người Tiên Ti, tự nhận là hậu duệ của Lý Lăng, cho biết tổ tiên nhiều đời sanh hoạt ở phương bắc, sau đó theo bộ lạc Thác Bạt Tiên Ti dời về nam.
  • Bộ tộc Hiệt Kiết Tư sở hữu vùng đất của nước Kiên Côn xưa, từng nhiều lần hiệu lực cho nhà Đường, tham gia đánh phá người Hồi Cốt. Người Hiệt Kiết Tư phần nhiều cao lớn, tóc đỏ, mặt trăng mắt xanh, cho rằng tóc đen là điềm chẳng lành và mắt đen là miêu duệ của Lăng.
  • Ngoài ra, người Nam triều Tề và Nam triều Lương thông qua 2 bộ sử Tống thư và Nam Tề thư, nối nhau quy kết hoàng thất Bắc triều Ngụy là hậu duệ của Lăng, thậm chí Nam Tề thư còn cho biết: người vợ Hung Nô của ông có tên (danh) là Thác Bạt, mà Hung Nô có tục lấy tên mẹ làm họ (tính). Nhưng hoàng thất Thác Bạt/Nguyên thị cương quyết bác bỏ, thông qua việc khẳng định tổ tiên của mình là con trai nhỏ của Xương Ý, được phong ở phương bắc, nhân trong nước có núi Đại Tiên Ti, nên lấy tên núi làm hiệu.
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lý Lăng** (chữ Hán: 李陵, ? – 74 TCN), tự **Thiếu Khanh**, người Thành Kỷ, Lũng Tây , tướng lãnh nhà Tây Hán. Ông chỉ huy 5000 bộ binh áp sát Thiền Vu đình của
Vào thời nhà Hán đời vua Hán Vũ Đế (汉武帝) (156 TCN- 87 TCN) liên tục có xung đột với người Hung Nô ở mạn Bắc. Năm 111 TCN, Hán Vũ Đế quyết định 18
**Lý Lăng Dung** (chữ Hán: 李陵容, 351 - 400), thường được gọi **Hiếu Vũ Văn thái hậu** (**孝武文太后**) là phi tần của Tấn Giản Văn Đế Tư Mã Dục (vua thứ 12) và mẹ ruột
**Thanh Tây lăng** (; ) là một quần thể lăng mộ triều đại nhà Thanh nằm cách về phía tây nam Bắc Kinh, thuộc Huyện Dịch, Hà Bắc. Đây có khu lăng tẩm kết hợp
**Làng nghề** là một đơn vị hành chính cổ xưa mà cũng có nghĩa là một nơi quần cư đông người, sinh hoạt có tổ chức, có kỷ cương tập quán riêng theo nghĩa rộng.
**Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh**, còn gọi là **Lăng Hồ Chủ tịch**, **Lăng Bác**, là nơi gìn giữ thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lăng được chính thức khởi công ngày 2 tháng
nhỏ|Ngôi làng cổ [[Hollókő, tỉnh Nógrád, Hungary (Di sản thế giới)]] nhỏ|Làng Bogolyubovo ở Vladimir oblast, [[Nga|nước Nga.]] nhỏ|Kippel - Một ngôi làng ở thung lũng Lötschental, [[Thụy Sĩ]] nhỏ|Làng Hybe ở [[Slovakia với dãy
**Làng Đông Sơn** là một địa danh trở nên nổi tiếng vào giữa thập niên 1920 khi những di chỉ khảo cổ của nền văn hóa Đông Sơn lần đầu tiên được phát hiện tại
Bình hoa gốm Phù Lãng hiện đại **Làng gốm Phù Lãng** là một làng nghề cổ truyền chuyên sản xuất gốm thuộc vùng Kinh Bắc. ## Địa lý Làng gốm Phù Lãng thuộc xã Phù
**Làng Lâm Xuân** (ngày trước thuộc đất Địa Lý, Minh Linh, nay thuộc xã Cửa Việt, tỉnh Quảng Trị, cũ: Xã Gio Mai huyện Gio Linh tỉnh Quảng Trị) là một làng cổ ở Quảng
**Làng Thanh Lương** được hình thành vào khoảng từ cuối thế kỷ XIV và đến đầu thế kỷ XV. Đầu tiên Làng được đặt tên là làng Thanh Kệ, cho đến khi chúa Nguyễn về
**Làng mây tre đan Chính Mỹ** là làng nghề cổ truyền có cách đây trên 200 năm, nay thuộc xã Quang Trung, thành phố Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Sản phẩm của làng nghề
là đơn vị hành chính địa phương của Nhật Bản. Nó là một đơn vị hành chính công cùng với các cấp khác như , , và . Về mặt địa lý, làng nằm trong
**Lý Quốc Sư** (chữ Hán: 李國師 15 tháng 10 năm 1065 –19 tháng 11 năm 1141) là tên gọi theo quốc tính họ Vua do nhà Lý ban cho và ghép với chức danh pháp
**Thanh Đông lăng** (; ) là một quần thể lăng mộ hoàng gia của triều đại nhà Thanh nằm ở Tuân Hóa, Đường Sơn, tỉnh Hà Bắc, cách về phía đông bắc thủ đô Bắc
**Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Lý** phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Lý của Việt Nam với triều đại nhà Tống của Trung Quốc xung quanh vấn đề
[[Caspar David Friedrich, _Kẻ lãng du trên biển sương mù,_ 38.58 × 29.13 inches, 1818, tranh sơn dầu, Kunsthalle Hamburg]] [[Eugène Delacroix, _Nữ thần Tự do dẫn dắt nhân dân_ 1830]] Théodore Géricault, _[[Chiếc bè
**Cao Câu Ly** (; tiếng Hàn trung đại: 고ᇢ롕〮 Gowoyeliᴇ), (năm thành lập theo truyền thống là năm 37 trước Công nguyên, có lẽ thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên – 668) là một
liên_kết=link=Special:FilePath/Tượng_anh_hùng_làng_Giá,Lý_Phục_Man_tướng_công_ở_Quán_giá_Yên_Sở.jpg|nhỏ|253x253px|Tượng Lý Phục Man tướng công, tại đền Quán Giá, Yên Sở, Hoài Đức, Hà nội. **Lý Phục Man** (李服蠻, ? - 547), không rõ họ tên thật. Ông là một danh tướng thời Lý
**Lý Tử Xuân** (Hangul: 이자춘; 1315 – 1360) là một quan lại của Nhà Nguyên (sau đó ông chuyển sang phục vụ cho Cao Ly) và cha của Lý Thành Quế, người thành lập nhà
nhỏ|389x389px|Đình Ngọc Mạch thờ Hoàng Tử Lý Nhã Lang **Nhã Lang Vương** tên thật Lý Nhã Lang là hoàng tử của hậu Lý Nam Đế Lý Phật Tử. Vì là con trai thứ 8 của
Trong cơ học lượng tử, **lý thuyết nhiễu loạn** là một tập hợp các sơ đồ gần đúng liên quan trực tiếp đến nhiễu loạn toán học để mô tả một hệ lượng tử phức
**Nhà Tiền Lý** (chữ Nôm: 茹前李, chữ Hán: 前李朝, Hán Việt: _Tiền Lý triều_, 544 – 602) là một triều đại trong lịch sử Việt Nam, gắn liền với quốc hiệu Vạn Xuân. Nhà Tiền
**Vụ án cưỡng chế đất đai tại Tiên Lãng** là vụ án về tranh chấp đất đai giữa ông Đoàn Văn Vươn ở Cống Rộc, Vinh Quang cùng gia đình và Ủy ban nhân dân
**Quan chế nhà Lý** là định chế cấp bậc phẩm hàm quan lại phong kiến dưới thời nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. ## Khái quát Những ghi chép trong sử sách không hoàn
nhỏ|[[Máy ly tâm phòng thí nghiệm]] **Ly tâm** (tiếng Anh: **Centrifugation**) là quá trình cơ học liên quan đến sử dụng lực ly tâm để phân tách các hạt khỏi dung dịch theo kích thước,
Hình vẽ đoàn tùy tùng, trên tranh tường trong mộ [[Lý Hiền (Nhà Đường)|Lý Hiền, niên đại 706; mỗi hình có chiều cao xấp xỉ .]] **Càn lăng** () là một công trình kiến trúc
**Làng** (chữ Nôm: 廊) là một đơn vị cư trú và một hình thức tổ chức xã hội quan trọng của nông thôn ở Việt Nam. Suốt nhiều thế kỷ, làng là đơn vị tụ
Dãy núi Cai Kinh phía tây và cánh đồng Chi Lăng **Chi Lăng** (支棱) là một cửa ải nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Nơi đây vốn là một thung lũng có sông Thương
**Trường Đại học Văn Lang** (English:**_Van Lang University**,_ Latin: _Universitas Vanlangensis_), thường được gọi tắt là **VLU** là một trường đại học tư thục đa ngành ở Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Thành
Đình Dương Đanh, Dương Xá là nơi thờ sứ quân Lý Khuê **Lý Khuê** (chữ Hán: 李奎; ? - 968), hiệu **Lý Lãng công** (李郞公) là một thủ lĩnh thời loạn 12 sứ quân trong
**Quản lý thời gian** là quá trình kế hoạch và thực hành việc kiểm soát một cách có ý thức một đơn vị thời gian dùng trong một hoặc một chuỗi các hoạt động cụ
**Lý Quang Địa** (; 29 tháng 9 năm 1642 – 26 tháng 6 năm 1718) là một nhà chính trị, nhà lý học trứ danh thời kỳ đầu nhà Thanh. Mặc dù Lý Quang Địa
**Phù Lưu** (phiên âm từ chữ "blầu" trong tiếng Việt cổ) là ngôi làng cổ ở phường Đông Ngàn, thành phố Từ Sơn, Bắc Ninh. Làng còn có tên gọi là **làng Giầu** (_Trầu_) hay
**Láng** là một làng cổ nằm bên sông Tô Lịch đoạn từ ô Cầu Giấy đến Ngã Tư Sở thành phố Hà Nội. Làng Láng là tên nôm của xã Yên Lãng thuộc huyện Vĩnh
**Lý Triện** (李篆, ?-1427) là công thần khai quốc nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam, người làng Bái Đô, huyện Lôi Dương,Thanh Hoá, Việt Nam. Ông tham gia nghĩa quân Lam Sơn dưới
**Lý Chấn Phiên**, thường được biết đến với nghệ danh **Lý Tiểu Long** (tiếng Trung: 李小龍, tiếng Anh: _Bruce Lee,_ 27 tháng 11 năm 1940 – 20 tháng 7 năm 1973), là một cố võ
**Lý Quảng** (chữ Hán: 李廣, phiên âm Wade–Giles: _Li Kuang_, bính âm: _Li Guang_, ? - 119 TCN), còn có biệt danh là Phi tướng quân (飛將軍), là một võ tướng dưới thời nhà Hán
là một bộ phim điện ảnh hoạt hình Nhật Bản thuộc thể loại lãng mạn – khoa học viễn tưởng – chính kịch ra mắt vào năm 2022, dựa trên cuốn light novel cùng tên
**Hách Xá Lý** (; Pinyin: Hesheli; Manchu: _Hešeri_), là một họ người Mãn thuộc Kiến Châu Nữ Chân. Nguồn gốc họ này xuất phát từ bộ tộc Hách Xá Lý với địa bàn sinh sống
**Quân đội nhà Lý** là tổ chức quân đội của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, từ đầu thế kỷ 11 đến đầu thế kỷ 13. Hoạt động quân sự nhà Lý diễn ra
**Nhà Lý** (chữ Nôm: 茹李, chữ Hán: 李朝, Hán Việt: _Lý triều_), đôi khi gọi là nhà **Hậu Lý** (để phân biệt với triều đại Tiền Lý do Lý Bí thành lập) là một triều
**Tư Lăng** (chữ Hán: 思陵) là nơi an táng Minh Tư Tông (hay **Sùng Trinh**) – Hoàng đế thứ 17 và cuối cùng của nhà Minh cùng hai người vợ ông là Chu Hoàng hậu
**Lý Nhân Tông** (chữ Hán: 李仁宗 22 tháng 2 năm 1066 – 15 tháng 1 năm 1128) là vị hoàng đế thứ tư của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì Đại
**Lý Bạch** (chữ Hán: 李白; 701 - 762), tự **Thái Bạch** (太白), hiệu **Thanh Liên cư sĩ** (青蓮居士), là một trong những nhà thơ theo chủ nghĩa lãng mạn nổi tiếng nhất thời Thịnh Đường
**Lê Lăng** (chữ Hán: 黎凌; ? - 1462) là tướng nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. Ông là một trong những tướng lĩnh chủ chốt trong cuộc chính biến Thiên Hưng, phế Lê
**Cao Ly** (), tên đầy đủ là **Vương quốc Cao Ly**, là một vương quốc có chủ quyền ở bán đảo Triều Tiên được thành lập vào năm 918 bởi vua Thái Tổ sau khi
**Cây gạo làng Diên Uẩn** (hay làng Dương Lôi, Tân Hồng, Từ Sơn, Bắc Ninh) được xem là sinh vật gắn liền với một số sự kiện lịch sử Việt Nam thế kỷ 10, thế
**Lăng Can** là thị trấn huyện lỵ của huyện Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang, Việt Nam. ## Địa lý Thị trấn Lăng Can nằm ở trung tâm huyện Lâm Bình, có vị trí địa lý:
**Lo lắng về cái chết** gây ra bởi những suy nghĩ đối với cái chết. Một nguồn xác định sự lo lắng về cái chết như là một "cảm giác sợ hãi, sợ hãi khủng