✨Lý Lăng
Lý Lăng (chữ Hán: 李陵, ? – 74 TCN), tự Thiếu Khanh, người Thành Kỷ, Lũng Tây , tướng lãnh nhà Tây Hán. Ông chỉ huy 5000 bộ binh áp sát Thiền Vu đình của Hung Nô, sau đó đơn độc chống lại 8 vạn kỵ binh của địch, tác chiến dũng cảm, gây ra thương vong nặng nề cho kẻ địch, nhưng không còn binh khí, không có cứu viện, cuối cùng thất bại nên phải đầu hàng.
Thân thế
Tổ tiên của Lăng là Lý Tín – tướng nước Tần cuối thời Chiến Quốc. Lý Tín được xem là thủy tổ của sĩ tộc họ Lý ở Lũng Tây, về sau hoàng thất nhà Đường cũng nhận là hậu duệ của Lý Tín.
Ông nội là danh tướng Lý Quảng nhà Tây Hán. Lý Quảng là người nổi tiếng nhất trong họ.
Cha là Lý Đương Hộ – con trai trưởng của Lý Quảng. Đương Hộ mất sớm, khi ấy Lăng còn trong bụng mẹ (nên gọi là di phúc tử).
Khởi nghiệp
Thiếu thời Lăng được làm Thị trung Kiến Chương giám . Lăng giỏi cưỡi ngựa bắn cung, yêu sĩ tốt, khiêm nhường với sĩ đại phu, nên rất có danh vọng. Hán Vũ đế cho rằng Lăng có phong thái của Lý Quảng, sai ông đem 800 kỵ binh, thâm nhập đất Hung Nô hơn 2000 dặm, vượt qua Cư Duyên xem xét địa hình, không gặp địch nên quay về. Sau đó Lăng được bái làm Kỵ đô úy, đem 5000 người dũng cảm tập luyện ở Tửu Tuyền, Trương Dịch để phòng bị Hung Nô. Vài năm sau, Vũ đế khiến Nhị sư tướng quân Lý Quảng Lợi tấn công Đại Uyển, sai Lăng đem binh của 5 hiệu theo sau. Lăng đến biên giới, gặp lúc Lý Quảng Lợi lui quân; Vũ đế ban thư của Lăng, khiến ông lưu lại binh sĩ, đem 500 khinh kỵ ra Đôn Hoàng, đến Diêm Thủy , đón Quảng Lợi trở về, rồi ở lại đồn trú Trương Dịch.. Vũ đế triệu Lăng, muốn sai ông vận chuyển lương thảo cho Lý Quảng Lợi. Lăng được triệu kiến ở Vũ Đài , khấu đầu tự xin rằng: “Thần vốn nắm quân đồn trú biên thùy, đều là dũng sĩ Kinh Sở, kiếm khách kỳ tài, sức bắt được cọp, bắn đâu trúng đấy, nguyện tự đảm đương một cánh, đến phía nam núi Lan Càn để chia binh lực của Thiền vu, không cần ở cùng cánh quân với Nhị sư tướng quân.” Vũ đế nói: “Mày xấu hổ vì làm bộ hạ à! Ta phát quân đã nhiều, không còn ngựa để cấp cho mày nữa đâu!” Lăng đáp: “Không cần ngựa, thần nguyện lấy ít đánh nhiều, đem bộ binh 5000 người đạp bằng Thiền Vu đình .” Vũ đế hài lòng mà đồng ý, nhân đó giáng chiếu cho Cường nỗ đô úy Lộ Bác Đức đem binh đón tiếp quân của Lăng ở giữa đường. Bác Đức vốn là Phục ba tướng quân, cũng xấu hổ vì làm hậu đội của Lăng, tâu rằng: “Đương mùa thu, ngựa của Hung Nô béo tốt, chưa thể cùng họ giao chiến, thần nguyện giữ Lăng đến mùa xuân, cùng ông ta lấy kỵ binh của Tửu Tuyền, Trương Dịch đều có 5000 người, chia ra đánh hai núi Đông – Tây Tuấn Kê , có thể bắt được giặc.” Lời tâu dâng lên, Vũ đế giận, ngờ rằng Lăng hối hận, không muốn ra trận, nên xúi giục Bác Đức dâng lời tâu này, bèn giáng chiếu cho Bác Đức rằng: “Ta muốn cho thêm Lý Lăng kỵ binh, thì hắn nói ‘muốn lấy ít đánh nhiều’. Nay giặc xâm nhập Tây Hà, mày đưa binh đi gấp Tây Hà , chặn đường Câu Doanh .” Rồi giáng chiếu cho Lăng rằng: “Đã hẹn tháng 9 xuất phát, ra Già Lỗ chướng ở phía nam núi Đông Tuấn Kê, quanh quẩn để quan sát địch, nếu không thấy gì, theo đường cũ của Trác Dã hầu Triệu Phá Nô về thành Thụ Hàng để nghỉ ngơi, rồi sai dịch kỵ sĩ báo cáo. Mày với Bác Đức nói như vậy là sao? Hãy trả lời cho rõ ràng.” Vì thế Lăng đem 5000 bộ tốt ra Cư Duyên, đi về phía bắc 30 ngày, đến núi Tuấn Kê thì dừng lại để dựng doanh trại, vẽ lại địa hình của những sông núi đã đi qua, sai kỵ binh dưới quyền là Trần Bộ Nhạc đem về để báo cáo. Bộ Nhạc được triệu kiến, thuật lại Lăng chỉ huy đắc lực ra sao, tướng sĩ dốc sức ra sao, Vũ đế rất hài lòng, bái Bộ Nhạc làm Lang.
Huyết chiến Hung Nô
Lăng đến núi Tuấn Kê, cùng Thư Đê Hầu thiền vu đối đầu trực diện, thiền vu phái khoảng 3 vạn kỵ binh vây quân của ông. Quân Hán ở giữa 2 tòa núi Tuấn Kê, kết xe lớn làm doanh. Lăng đưa binh sĩ ra ngoài doanh bày trận, hàng trước đặt kích, thuẫn, hàng sau đặt cung, nỏ, truyền lệnh: “Nghe tiếng trống thì thả (dây cung), nghe tiếng chiêng thì dừng.” Quân Hung Nô thấy quân Hán ít thì xông đến trước doanh, Lăng xua quân xông ra, ngàn nỏ cùng bắn, nghe tiếng dây rung thì có người ngã lăn ra. Quân Hung Nô chạy lên núi, quân Hán truy kích, giết vài ngàn người. Thiền vu cả sợ, triệu Tả - Hữu Hiền vương đem hơn 8 vạn kỵ binh tấn công quân Hán. Lăng vừa đánh vừa lui, đi về phía nam vài ngày thì vào trong sơn cốc. Liên tiếp chiến đấu khiến binh sĩ Hán chịu nhiều thương vong, ai bị 3 vết thương thì được chở bằng xe kéo, ai bị 2 vết thương thì kéo xe, ai bị 1 vết thương thì tiếp tục chiến đấu. Bấy giờ nữ quyến của tội nhân ở Quan Đông bị đày đến vùng biên, gả cho sĩ tốt, phần lớn giấu trong xe. Lăng thấy sĩ khí suy giảm, lấy cớ trong quân có đàn bà nên mới như vậy, đem ra giết cả đi . Hôm sau lại giao chiến, quân Hán chém hơn 3000 thủ cấp của địch. Lăng đưa binh về phía đông nam, men theo đường Long Thành cũ , chừng 4, 5 ngày, đi vào bãi lau sậy của một cái chằm lớn, người Hung Nô nương theo chiều gió nổi lửa, Lăng cũng lệnh cho trong quân nổi lửa để tự cứu Nhan Sư Cổ chú giải: “Sớm tự thiêu cỏ cây bên mình, khiến lửa của giặc không bén kịp.”. Quân Hán tiếp tục đi về phía nam, ở dưới một tòa núi. Thiền vu ở mặt nam trèo lên núi, sai con trai đem kỵ binh đánh Lăng. Bộ binh Hán ở trong rừng cây, mai phục giết chết vài ngàn kẻ địch, nhân đó phát liên nỗ nhằm vào thiền vu, thiền vu xuống núi chạy trốn. Tù binh Hung Nô bị bắt vào ngày hôm ấy kể rằng: “Thiền vu nói: ‘Đây tinh binh của Hán, đánh mà không thể hạ, ngày đêm dẫn ta về phía nam gần biên giới, phải chăng là có phục binh?’ Các đương hộ, quân trưởng đều nói: ‘Thiền vu tự đem mấy vạn kỵ binh đánh mấy ngàn người Hán mà không thể diệt, ngày sau làm sao tiếp tục sai phái các tộc khác, càng khiến cho Hán xem thường Hung Nô. Hãy tiếp tục chiến đấu trong sơn cốc, còn chừng bốn, năm mười dặm sẽ gặp đất bằng, không thể phá thì về.’” , trốn sang đầu hàng Hung Nô, nói thật rằng: “Quân của Lăng không có hậu viện, mũi tên đã hết, chỉ còn Hiệu của tướng quân và Thành An hầu, đều có 800 người làm hàng trước, lấy vàng và trắng làm cờ, nên lấy kỵ binh tinh nhuệ bắn vào họ thì lập tức phá được.” (Thành An hầu có tên là Hàn Diên Niên, người quận Dĩnh Xuyên. Cha của Diên Niên là Tế Nam tướng Hàn Thiên Thu, tử trận khi đánh Nam Việt, nên Vũ đế phong Duyên Niên làm hầu, nay làm hiệu úy dưới quyền của Lăng.) Thiền vu được tin thì cả mừng, sai tất cả kỵ binh tấn công quân Hán, hô lớn rằng: “Lý Lăng, Hàn Diên Niên mau đầu hàng.” Quân Hung Nô chẹn đường đánh rát quân Hán; quân Hung Nô ở trên núi, trong khi quân Hán ở dưới sơn cốc. Quân Hung Nô 4 mặt cùng bắn, tên bay như mưa; quân Hán đi về phía nam, còn cách núi Đê Hãn một ngày đường thì hết sạch tên, trước sau đã dùng đến 50 vạn mũi tên. Quân Hán bỏ xe mà đi, còn hơn 3000 người, đành bẻ thanh gỗ của xe làm vũ khí, chỉ các viên trưởng quan mới có lưỡi đao dài chừng 1 thước, tiến vào khe hẹp của sơn cốc. Quân Hung Nô chẹn phía sau, lựa chỗ hiểm yếu lấy đá lấp đường. Quân Hán chết nhiều, không thể đi tiếp. Lúc hoàng hôn, Lăng đổi áo ngắn cộc tay, một mình ra khỏi doanh, ngăn bộ hạ rằng: “Đừng theo ta, trượng phu một mình đi bắt thiền vu.” Hồi lâu Lăng quay về, nói: “Binh bại rồi, chết đi thôi!” Tướng lãnh dưới quyền nói: “Tướng quân uy chấn Hung Nô, dẫu trời khiến cho việc không thành, nhưng ngày sau tìm được lối thoát để quay về, như Trác Dã hầu (tức Triệu Phá Nô) bị giặc bắt được, sau này trốn về, được thiên tử đãi ngộ theo lễ tân khách, huống hồ là trường hợp của tướng quân.” Lăng nói: “Anh đừng nói nữa! Ta không chết thì chẳng phải là tráng sĩ!” Vì thế quân Hán chặt hết tinh kỳ, đem đồ quý giá chôn xuống đất; Lăng than rằng: “Nếu còn vài mươi mũi tên, thì đủ để thoát thân rồi. Nay không còn binh khí để tiếp tục chiến đấu, trời sáng đành bó tay chịu trói mà thôi! Chẳng bằng như chim thú tan chạy, ai chạy thoát thì trở về báo cáo với thiên tử.” Lăng lệnh cho quân sĩ mỗi người đem theo 2 thăng gạo rang, một khối băng, ước hẹn gặp lại ở Già Lỗ chướng. Nửa đêm, Lăng muốn đánh trống khích lệ sĩ khí, nhưng trống không kêu. Lăng và Hàn Diên Niên lên ngựa, tráng sĩ đi theo có hơn 10 người. Vài ngàn kỵ binh Hung Nô đuổi theo, Diên Niên bị giết; Lăng nói: “Không còn mặt mũi gặp lại bệ hạ.” Rồi đầu hàng. Quân sĩ của Lăng phân tán mà chạy, thoát về biên thùy chỉ hơn 400 người.
Căn cứ nghiên cứu của nhà khảo cổ học người Liên Xô là Sergei Vladimirovich Kiselev (1905 – 1962), Lăng ở đất phong của mình – thượng du sông Enisei, nam bộ Siberia – đã kiến lập nước Kiên Côn (Jiānkūn), đặt đô thành ở vị trí ngày nay là Abakan, Cộng hòa Khakassia, LB Nga.
Chung thân tha hương
Tháng 3 ÂL năm Chinh Hòa thứ 3 (90 TCN), tướng Hán là bọn Lý Quảng Lợi chia 3 đường tấn công Hung Nô, người Hung Nô gói ghém nhu yếu rút lui. Ngự sử đại phu Thương Khâu Thành đem 2 vạn binh ra Tây Hà, theo đường tắt truy kích, không kịp nên quay về. Lăng theo đại tướng của Hung Nô (không rõ là ai) đem hơn 3 vạn kỵ binh đuổi theo, giao chiến 9 ngày, đến sông Bồ Nô , quân Hung Nô thất bại nên lui về.; đến năm sau Lăng đầu hàng, được thiền vu trọng đãi, nhưng chưa dám tìm gặp Vũ. Vũ chịu lưu đày hơn 10 năm, thiền vu mới sai Lăng đi Bắc Hải thuyết phục Vũ. Lăng bày tiệc ca vũ, hết lời khuyên Vũ khuất phục, nhưng Vũ cương quyết từ chối. Uống rượu vài ngày, Lăng nhắc lại đề nghị ấy, Vũ thà chết không theo, ông bùi ngùi than rằng: “Ôi chao, nghĩa sĩ đấy! Tội của Lăng và Vệ Luật thấu lên đến trời rồi.” Rồi chảy nước mắt thấm đẫm vạt áo, từ biệt Vũ mà về.
Lăng hổ thẹn với Vũ, không tự đến tìm Vũ nữa, mà sai vợ tặng cho Vũ vài mươi đầu bò, cừu. Đến khi nhận được tin tình báo ở Vân Trung, rằng quan lại nhà Hán đang để tang, ngờ là Hán Vũ đế giá băng (87 TCN), Lăng mới đi Bắc Hải thông báo cho Vũ biết. thậm chí trịnh trọng gọi là Tô – Lý thể; nhưng cũng có quan điểm cho rằng người đời sau thác danh hai người Tô – Lý sáng tác ra những bài thơ này. Trong Đôn Hoàng di thư (敦煌遗书), người ta tìm thấy hai bài Lý Lăng biện văn và Tô Vũ Lý Lăng chấp biệt từ, không rõ tác giả, càng khẳng định giả thuyết thứ 2.
Sử cũ chỉ xác nhận tác phẩm duy nhất của Lý Lăng là bài ca theo thể Cổ phong vào lúc từ biệt Tô Vũ, được đời sau gọi là Biệt ca (別歌).
Hậu duệ
Sử cũ không nói rõ Lăng có bao nhiêu con cái, chỉ nhắc đến 1 người con trai của ông. Năm Ngũ Phượng thứ 2 (56 TCN) thời Hán Tuyên đế, Hung Nô liên tiếp phát sinh nội loạn, con trai của Lý Lăng muốn lập Ô Tạ đô úy, mưu đồ bại lộ, bị thiền vu Hô Hàn Da giết chết.
Trong giai đoạn dung hợp dân tộc từ cuối thời Nam Bắc triều đến Tùy – Đường, cuộc hôn nhân dị chủng của Lăng trở thành cái cớ cho vài trường hợp dân tộc thiểu số ở bắc Trung Quốc và xa hơn nữa tự nhận là hậu duệ của ông:
- Anh em Lý Hiền, Lý Viễn, Lý Mục, là tướng lãnh, khai quốc công thần nhà Tây Ngụy, Bắc Chu và Tùy, vốn là người Tiên Ti, tự nhận là hậu duệ của Lý Lăng, cho biết tổ tiên nhiều đời sanh hoạt ở phương bắc, sau đó theo bộ lạc Thác Bạt Tiên Ti dời về nam.
- Bộ tộc Hiệt Kiết Tư sở hữu vùng đất của nước Kiên Côn xưa, từng nhiều lần hiệu lực cho nhà Đường, tham gia đánh phá người Hồi Cốt. Người Hiệt Kiết Tư phần nhiều cao lớn, tóc đỏ, mặt trăng mắt xanh, cho rằng tóc đen là điềm chẳng lành và mắt đen là miêu duệ của Lăng.
- Ngoài ra, người Nam triều Tề và Nam triều Lương thông qua 2 bộ sử Tống thư và Nam Tề thư, nối nhau quy kết hoàng thất Bắc triều Ngụy là hậu duệ của Lăng, thậm chí Nam Tề thư còn cho biết: người vợ Hung Nô của ông có tên (danh) là Thác Bạt, mà Hung Nô có tục lấy tên mẹ làm họ (tính). Nhưng hoàng thất Thác Bạt/Nguyên thị cương quyết bác bỏ, thông qua việc khẳng định tổ tiên của mình là con trai nhỏ của Xương Ý, được phong ở phương bắc, nhân trong nước có núi Đại Tiên Ti, nên lấy tên núi làm hiệu.