✨Lý Khuê

Lý Khuê

Đình Dương Đanh, Dương Xá là nơi thờ sứ quân Lý Khuê Lý Khuê (chữ Hán: 李奎; ? - 968), hiệu Lý Lãng công (李郞公) là một thủ lĩnh thời loạn 12 sứ quân trong lịch sử Việt Nam thế kỷ 10. Ông vốn là một hào trưởng, nhân thời loạn lập ấp và cai quản vùng Siêu Loại (giáp ranh Bắc Ninh - Hưng Yên), phía nam sông Đuống ngày nay. Năm 968, ông bị tướng Lưu Cơ của Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư đánh dẹp, chấm dứt tình trạng cát cứ để lập ra nhà nước Đại Cồ Việt trong lịch sử.

Sứ quân vùng Siêu Loại

Theo thần tích các đình Yên Bình, đình Dương Đanh ở xã Dương Xá, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, Lý Khuê vốn là người làng Đại Trạch thuộc tổng Đình Tổ (nay thuộc xã Đình Tổ, thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Lý Khuê là một bậc hào trưởng, văn võ kiêm toàn, đức độ, được nhân dân trong vùng mến mộ, tin tưởng.

Sau khi Dương Tam Kha cướp ngôi nhà Ngô, các nơi không chịu thuần phục, các thủ lĩnh nổi lên cát cứ một vùng và đem quân đánh chiếm lẫn nhau, sử gọi là loạn 12 sứ quân. Năm 965, Ngô Xương Văn đi đánh thôn Đường và thôn Nguyễn bị phục binh bắn nỏ chết. Trong giai đoạn này, Lý Khuê đóng quân ở Siêu Loại (Thuận Thành), chiếm giữ vùng đất phía Nam sông Đuống của tỉnh Bắc Ninh (gồm các huyện Thuận Thành, Lương Tài, Gia Bình; một phần các huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên); một phần huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội ngày nay

Căn cứ vào thần tích và di vật còn ở Siêu Loại, Lý Khuê từng cho sửa lại thành Luy Lâu làm đại bản doanh. Nhưng thực chất chỉ là cái bẫy cho đối phương. Sự thật, ông đã bí mật cho đại quân kéo về ấp Cồi, nay thuộc làng Thư Đôi, xã Nguyệt Đức, huyện Thuận Thành xây dựng căn cứ chính. Tại đây, Lý Khuê đã cho xây dựng ấp thành căn cứ quân sự: Đào ao toàn bộ xung quanh ấp, đắp lũy cao, rồi trồng tre gai thật dầy. Cả ấp chỉ để hai cổng ra vào. Riêng cổng ở Ngõ Dưới hướng lên phía bắc, ông cho xây dựng rất kiên cố. Bên ngoài cổng cho đắp một cái bãi hình mũi mác chĩa ra đường cái, gọi là Bãi Mác. Cạnh đấy, ông còn cho xây một đồn canh có hình thù rất kỳ dị và độc đáo: Đồn nửa chìm nửa nổi, phần nổi có hình như một cái bụng người nên gọi là Đồn Bụng. Riêng Đồn Bụng sau này đã bị quân Minh tàn phá nên đổi tên gọi là Vườn Bụng ở giữa ngõ Ngoài và ngõ Giữa. Còn bên trong cho đắp những gò đống để khi bí thế thì rút quân vào đấy. Chỗ này gọi là Tầm Bùi. Ông còn cho đào một cái ao khá lớn, xung quanh cũng trồng tre gai dày đặc, dưới ao cũng thả rau muống, rau ngổ cho lên cao tốt. Ở giữa ao cho đắp một cái gò khá rộng để họp bộ chỉ huy. Chỗ này gọi là Vườn Phủ.

Những ghi chép cho thấy, địa bàn hoạt động của sứ quân Lý Khuê nằm ở bờ nam sông Đuống thuộc tỉnh Bắc Ninh và một phần nhỏ ở Gia Lâm, Hà Nội ngày nay. Ông không xâm chiếm lãnh địa của các sứ quân khác mà hành động theo kế "Tọa sơn quan hổ đấu", tức là ngồi trên núi xem hổ đánh nhau chứ chưa thực sự nổi dậy, tranh hùng và mở rộng lãnh thổ.

Theo thần tích ở một số xã thuộc Thuận Thành, Bắc Ninh thì Lý Khuê đánh nhau với lực lượng của Đinh Bộ Lĩnh bị thua và mất ở làng Dương Xá (nay thuộc xã Dương Xá, Gia Lâm, Hà Nội).

Thần tích đền thờ Lưu Cơ ở làng Đại Từ, xã Đại Đồng, tỉnh Hưng Yên cho biết nơi đây cũng thuộc đất Siêu Loại cũ và là địa điểm tướng Lưu Cơ của Đinh Tiên Hoàng đóng quân để đánh dẹp sứ quân Lý Khuê.

Đền thờ

Sứ quân Lý Khuê được thờ ở đình Yên Bình, thôn Yên Bình và đình Dương Đanh thôn Dương Đanh là hai thôn liền nhau thuộc xã Dương Xá, Gia Lâm, Hà Nội. Theo thần tích, Lãng Khuê công (Lý Lãng Công) là một trong 12 sứ quân chia cắt đất nước cuối thế kỷ X. Sứ quân này chiếm cứ vùng Siêu Loại, bị Đinh Bộ Lĩnh đánh tan và tử trận tại Dương Đanh ngày 30 tháng 4 năm Mậu Thìn (968) nên được dân thôn thờ.

Tại đình Yên Bình, Lý Khuê đã được sắc phong là Ngô Thông Thượng Đẳng phúc thần. Dân làng Yên Bình đã tôn Lý Lãng Công làm thành hoàng làng sau khi ông mất và thờ ở đình làng. Bên cạnh đình, cách một cái ao rộng là đền thờ Đức Thánh Bà Phu Nhân của Lý Lãng Công tạo thành một tổng thể hài hoà trong quần thể kiến trúc đình - đền – chùa Yên Bình. Lai lịch của Đức Thánh Bà cũng không có tài liệu nào nhắc đến, chỉ biết bà là người ở thôn Yên Bình, nổi tiếng tài sắc hiền thục. Dân làng Yên Bình lập đền thờ Bà, nhưng cũng chính là thờ Mẫu – những thần linh của cư dân nông nghiệp cầu cho mưa thuận gió hòa.

Xét trên lợi ích quốc gia, việc cát cứ của các sứ quân Lý Khuê đi ngược lại nguyện vọng thống nhất của dân tộc. Nhưng có thể thấy trong bối cảnh đất nước rơi vào tình trạng vô chủ, việc ông cùng các vị hào trưởng khác có thế lực quân sự mạnh, thiết lập chính quyền, duy trì trật tự tại địa phương để nhân dân có thể sống yên bình trong vùng đất của họ là điều cần thiết và thuận lòng dân, dù việc này không có tính toàn cục và chỉ diễn ra trong một thời đoạn ngắn, điều đó lý giải vì sao các sứ quân vẫn được nhân dân trong vùng chiếm đóng lập đền thờ.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Đình Dương Đanh, Dương Xá là nơi thờ sứ quân Lý Khuê **Lý Khuê** (chữ Hán: 李奎; ? - 968), hiệu **Lý Lãng công** (李郞公) là một thủ lĩnh thời loạn 12 sứ quân trong
**Yi Gyubo** (hay **Lee Gyu-bo**, ), tự là Xuân Khanh (春卿), hiệu là Bạch Vân (白雲), là một nhà văn người Cao Ly. Ông cùng với Choe Chiwon (người thời Tân La) và Yi Jehyeon
Thái sư **Lý Đạo Thành** (chữ Hán: 李道成, ? - 1081) là quan Tể tướng, đại thần phụ chính dưới hai triều vua nhà Lý là Lý Thánh Tông và Lý Nhân Tông. ## Tiểu
**Lý Chiêu Hoàng** (chữ Hán: 李昭皇; 1218 - 1278), **Chiêu Hoàng Đế** (昭皇帝) hay **Chiêu Thánh Hoàng hậu** (昭聖皇后) là Nữ Hoàng của Đại Việt, cũng là Hoàng Đế cuối cùng của triều đại nhà
**Lý** (李) là một họ của người Đông Á. Họ này tồn tại ở các nước Trung Quốc ("Li/Lee"), Hàn Quốc ("Lee", "I", "Yi" hoặc "Rhee") và Bắc Triều Tiên ("Ri" ), Đài Loan ("Lee"),
**Cao Ly Cảnh Tông** (Hangul: 고려 경종, chữ Hán: 高麗 景宗; 9 tháng 11 năm 955 – 13 tháng 8 năm 981, trị vì 975 – 981) là quốc vương thứ năm của vương triều
**Lý Bạch** (chữ Hán: 李白; 701 - 762), tự **Thái Bạch** (太白), hiệu **Thanh Liên cư sĩ** (青蓮居士), là một trong những nhà thơ theo chủ nghĩa lãng mạn nổi tiếng nhất thời Thịnh Đường
**Cao Ly Thành Tông** (Hangul: 고려 성종, chữ Hán: 高麗 成宗; 15 tháng 1 năm 961 – 29 tháng 11 năm 997; trị vì 981 – 997) là vị quốc vương thứ sáu của vương
**Lý Khác** (chữ Hán: 李恪; 619 - 10 tháng 3, 653), thông gọi **Ngô vương Khác** (吴王恪), biểu tự **Khư** (厶), là một thân vương và tướng lĩnh thời nhà Đường. Ông là hoàng tử
**Lý Tử Xuân** (Hangul: 이자춘; 1315 – 1360) là một quan lại của Nhà Nguyên (sau đó ông chuyển sang phục vụ cho Cao Ly) và cha của Lý Thành Quế, người thành lập nhà
**Cao Ly Tĩnh Tông** (Hangeul: 고려 정종, chữ Hán: 高麗 靖宗; 31 tháng 8 năm 1018 – 24 tháng 6 năm 1046, trị vì 1034 – 1046) là vua thứ 10 của vương triều Cao
**Văn hóa Lý–Trần** (hoặc ở mức độ cao hơn nữa là **Văn minh Lý–Trần**, hoặc được khái quát hóa lên là **Thời đại Lý–Trần**) là một khái niệm mang tính tổng hợp dùng để chỉ
_Cheonsan Daeryeopdo_, "Thiên Sơn đại liệp đồ" do Cung Mẫn Vương họa. **Cao Ly Cung Mẫn Vương** (Hangul: 고려 공민왕; chữ Hán: 高麗 恭愍王; 23 tháng 5 năm 1330 – 27 tháng 10 năm 1374,
**Cao Ly Trung Huệ Vương** (Hangul: 고려 충혜왕; chữ Hán: 高麗 忠惠王; 22 tháng 2 năm 1315 – 30 tháng 1 năm 1344, trị vì 2 lần: 1330 – 1332 và 1340 – 1343) là
**Cao Ly Trung Tuyên Vương** (Hangul: 고려 충선왕; chữ Hán: 高麗 忠宣王; 20 tháng 10 năm 1275 – 23 tháng 6 năm 1325, trị vì 2 lần: năm 1298 và 1308 – 1313) là quốc
**Cao Ly Trung Túc Vương** (Hangul: 고려 충숙왕; chữ Hán: 高麗 忠肅王; 30 tháng 7 năm 1294 – 3 tháng 5 năm 1339, trị vì 1313 – 1330 và 1332 – 1339), là vua thứ
**Yi Je-hyeon** () là một vị quan, nhà thơ, học giả, họa sĩ người Triều Tiên sống vào giai đoạn cuối triều Cao Ly. Ông cùng với Thôi Trí Viễn và Lý Khuê Báo là
**Giuse Maria Trịnh Như Khuê** (11 tháng 12 năm 1898 – 27 tháng 11 năm 1978) là một hồng y thuộc Giáo hội Công giáo Rôma và là hồng y tiên khởi của Việt Nam. Khẩu
phải|Tượng thờ Doãn Khuê ở đình xã Nghĩa Thành huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định. **Doãn Khuê** (chữ Hán: 尹奎; 1813-1878) là quan Nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông từng giữ các chức
**Lan Khuê** (tên đầy đủ **Trần Ngọc Lan Khuê**, sinh ngày 4 tháng 1 năm 1992) là hoa khôi áo dài, người mẫu và giám khảo người Việt Nam, từng đoạt giải á quân Asian
**Vi Khuê** (chữ Hán: 韋珪, 597 - 665), biểu tự **Trạch** (泽), thông gọi **Vi Quý phi** (韋貴妃) hay **Kỷ Quốc thái phi** (紀國太妃), là một phi tần của Đường Thái Tông Lý Thế Dân.
**Đỗ Tích Khuê** (chữ Hán: 杜錫珪; 12 tháng 11 năm 1875 - 28 tháng 12 năm 1933), tự **Thận Chưng** (慎丞), **Thận Thần** (慎臣), hiệu **Thạch Chung** (石鍾) là một sĩ quan Hải quân cuối
**Hoàng Khuê** (chữ Hán: 黄奎, bính âm: Huang Kui; ??-211) là một nhân vật hư cấu trong tiểu thuyết lịch sử Tam Quốc diễn nghĩa của nhà văn La Quán Trung, trong tiểu thuyết này,
**Khuê Phong Tông Mật** (zh: 圭峰宗密, guīfēng zōngmì, ja: keihō shū-mitsu, 780-841), Thiền sư Trung Quốc thuộc phái Hà Trạch Thần Hội và cũng là tổ sư đời thứ năm của Hoa Nghiêm Tông. Trong
[[Đền Vực Vông ở cố đô Hoa Lư còn lưu giữ 17 sắc phong về Bùi Văn Khuê]] **Bùi Văn Khuê** (chữ Hán: 裴文奎, 1546 - 1600) là tướng nhà Mạc và nhà Lê trung
**_Khuê ai lục_** (_Ghi nỗi đau buồn về chuyện phòng khuê_) là một sáng tác văn học của nhà sử học, nhà văn, nhà thơ Việt Nam Ngô Thì Sĩ. ## Giới thiệu sơ lược
**Chu Hữu Khuê** (, 888?- 27 tháng 3 năm 913 tiết độ sứ. Vào những năm Quang Khải (885-888) thời Đường Hy Tông, Chu Toàn Trung xuất quân, đi qua Bạc châu triệu mẹ của
**Thụy Khuê** là một tuyến đường dài khoảng 3,3 km nằm trên hai phường Thụy Khuê và Bưởi, quận Tây Hồ, Hà Nội. Con đường bắt đầu từ phố Quán Thánh đến đường Lạc Long Quân.
**Khuê phụ thán** là một thi phẩm nổi tiếng của Thượng Tân Thị, sáng tác vào tháng 3 năm 1919 tại Cầu Kè (nay là huyện Cầu Kè), tỉnh Trà Vinh, Việt Nam. ## Giới
Giáo sư **Nguyễn Khuê** (23 tháng 9 năm 1935 –) là một nhà sư phạm, nhà thơ, nhà dịch thuật, nhà Trung Quốc học, nhà nghiên cứu văn hóa có nhiều đóng góp có giá
Du lịch Vườn dừa ÚT KHUÊ là nơi có không gian rộng rãi với nhiều cây xanh mát mẻ rất phù hợp với những chuyến đổi gió cuối tuần dành cho gia đình hoặc cơ
Du lịch Vườn dừa ÚT KHUÊ là nơi có không gian rộng rãi với nhiều cây xanh mát mẻ rất phù hợp với những chuyến đổi gió cuối tuần dành cho gia đình hoặc cơ
**Lý Tự Nguyên** (李嗣源, sau đổi thành **Lý Đản** (李亶)) (10 tháng 10 năm 867), còn được gọi theo miếu hiệu là **Hậu Đường Minh Tông** ( 后唐明宗), là hoàng đế thứ hai của nhà
thumb|Bản đồ sao Khuê Tú **Sao Khuê** hay **Khuê Tú** (tiếng Hán: 奎宿, bính âm: Kuí Xiù) hoặc **Khuê Mộc Lang** (奎木狼) là một trong hai mươi tám chòm sao Trung Quốc cổ đại. Nghĩa
**Phó Khuê** (tiếng Trung giản thể: 傅奎, bính âm Hán ngữ: _Fù Kuí_, sinh tháng 9 năm 1962, người Hán) là chính trị gia nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông hiện là Phó
**Dương Khuê** (楊珪, 1839-1902), tự: **Giới Nhu**, hiệu **Vân Trì**; là quan nhà Nguyễn, và là nhà thơ Việt Nam ở thế kỷ 19. ## Thân thế và sự nghiệp **Dương Khuê** là người ở
**Đặng Thị Khuê** (sinh năm 1946) là một nữ họa sĩ người Việt Nam. Bà được biết tới là nữ họa sĩ có nhiều đóng góp trong nghệ thuật sắp đặt tại Việt Nam. Bà
**Văn Đức Khuê** (文德奎, 1807-1864), trước tên là **Giai**, sau đổi là **Khuê**; là danh thần triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử **Văn Đức Khuê** sinh năm Đinh Mão (1807) tại
**Đoàn Khuê** (1923 – 1999), bí danh **Võ Tiến Trình**, là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, cấp bậc Đại tướng. Ông nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành
**Hậu Đường Trang Tông** (), tên húy là **Lý Tồn Úc** (), tiểu danh **Á Tử** (亞子), là một nhân vật chính trị và quân sự trong thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc trong lịch
**Phó Tổng lý Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa** (中华人民共和国国务院副总理) hay còn được gọi là **Phó Thủ tướng Quốc vụ viện** là chức vụ quan trọng cấu thành Quốc Vụ viện, Quốc
**Khuê oán** (閨怨) là một trong số bài thơ hay của Vương Xương Linh (? - khoảng 756), một trong những tác giả lớn thời Thịnh Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Tác giả
**Ly tao** (chữ Hán: ) là một bài thơ nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc thuộc thể loại _phú_ do chính trị gia, thi nhân nước Sở là Khuất Nguyên sáng tác vào thế
**Lý Kiến Thành** (chữ Hán: 李建成, 589 – 2 tháng 7, năm 626), biểu tự **Tỳ Sa Môn** (毗沙門), là một Thái tử nhà Đường. Ông là con trưởng của hoàng đế khai quốc Đường
**Lý Quí Khánh** (sinh ngày 17 tháng 12 năm 1990) là một nhà thiết kế, nhà tạo mẫu người Việt Nam, nổi tiếng với phong cách thiết kế độc đáo có cá tính, đặc biệt
Quẻ **Hỏa Trạch Khuê**, đồ hình ||:|:| còn gọi là quẻ **Khuê** 睽 (kui2), là quẻ thứ 38 trong Kinh Dịch. *Nội quái là ☱ (||: 兌 dui4) Đoài hay Đầm (澤). *Ngoại quái là
**Lý Viện** (chữ Hán: 李瑗, 586 – 626), tự **Đức Khuê**, người huyện Địch Đạo, quận Lũng Tây , hoàng thân nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Ông cụ là Thái
Mọi chi tiết quý khách vui lòng liên hệ: 0911.102.882 - 0928.102.882 Website: Ykhoahueloi.comĐịa chỉ:Hà Nội: Ngách 17 - Ngõ 38 - Đ. Phương Mai - P. Phương Mai - Q. Đống ĐaĐà Nẵng: Đ.
Mọi chi tiết quý khách vui lòng liên hệ: 0911.102.882 - 0928.102.882 Website: Ykhoahueloi.comĐịa chỉ:Hà Nội: Ngách 17 - Ngõ 38 - Đ. Phương Mai - P. Phương Mai - Q. Đống ĐaĐà Nẵng: Đ.
SHOP CAM KẾT 1. Sản phẩm giống hình ảnh cung cấp2. Hàng Chất Lượng Cao Nói Không Vớihàng giả,hàng nhái,hàng kém chất lượng3. Giá cả cạnh tranh4. Nhận hàng – thanh toán tại nhà5. Shop