✨Nguyễn Khuê

Nguyễn Khuê

Giáo sư Nguyễn Khuê (23 tháng 9 năm 1935 –) là một nhà sư phạm, nhà thơ, nhà dịch thuật, nhà Trung Quốc học, nhà nghiên cứu văn hóa có nhiều đóng góp có giá trị cho văn học Hán Nôm và văn học Quốc ngữ thời kỳ sơ khai của Nam bộ tại Việt Nam. Ông từng là Trưởng bộ môn Hán Nôm khoa Ngữ văn và Báo chí (nay là khoa Văn học và Ngôn ngữ) Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia TP. Hồ chí Minh. Các công trình khảo cứu và dịch thuật của ông, tiêu biểu như Nguyễn Trãi toàn tập tân biên, Tùy Dượng đế diễm sử, Chân dung Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân Am thi tập, Khổng Tử - chân dung, học thuyết và môn sinh, Luận lý học Phật giáo, Văn học Hán Nôm ở Gia Định - Sài Gòn, khai thác và lưu giữ các di sản văn hóa - lịch sử của tiền nhân, góp phần không nhỏ vào việc xây dựng kho tàng cổ học Việt Nam. Bên cạnh đó, ông còn xuất bản 3 tập thơ có giá trị về nhân sinh quan, cảm thức đời người, và Phật học: Hương trời xa bay (1998), Cõi trăm năm (2002), Trăm năm là cuộc lãng du (2005).

Tiểu sử

Thời niên thiếu và trường học

Giáo sư Nguyễn Khuê sinh ngày 23 tháng 9 năm 1935 tại làng Dương Nỗ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông nội ông là một nhà Nho, nên từ năm 8 tuổi, Giáo sư đã phải học chữ Hán. Mỗi kỳ nghỉ hè, ông nội đưa ông sang làng bên là Phù Yên để học với một người bạn là cụ Tú vốn đỗ Tú tài kỳ thi hương cuối cùng của nhà Nguyễn. Ban đầu ông học chữ Hán vì bắt buộc, về sau thì say mê và cuối cùng nó thấm sâu vào máu thịt một cách tự nhiên.

Thuở nhỏ, ông học trung học ở trường Quốc học Huế. Năm 1966, ông tốt nghiệp Cử nhân giáo khoa Việt Hán, Trường Đại học Văn Khoa, Sài Gòn. Khi vừa tốt nghiệp Cử nhân, ông được một trường đại học ở Đài Loan cấp học bổng để theo học Thạc sĩ văn học Trung Quốc, nhưng vì hoàn cảnh gia đình lúc bấy giờ ông không thể đi Đài Loan lâu ngày được. Năm 1969, ông nhận bằng Cao học Văn chương Việt Hán (nay gọi là Thạc sĩ) và sau đó ông được mời làm giảng viên dạy môn Hán Văn tại trường Đại học Văn Khoa Sài Gòn. Năm 1973, ông học xong năm thứ nhất Tiến sĩ chuyên khoa Hán văn ở Đại học Văn Khoa Sài Gòn, chuẩn bị bảo vệ luận án tiến sĩ năm 1975, nhưng rồi dở dang vì sự kiện mùa xuân năm ấy. Chính luận án này về sau ông xuất bản thành công trình nghiên cứu Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân Am thi tập năm 1991.

Sự nghiệp giáo dục

Trước năm 1969, ông từng làm giáo viên các trường trung học tại Sài Gòn như trường Trung học Quốc gia Nghĩa tử, trường Nữ sinh Trung học Trưng Vương. Từ năm 1969 đến 30 tháng 4 năm 1975, ông là Giảng sư trường Đại học Văn khoa Sài Gòn và là Giảng sư thỉnh giảng trường Đại học Văn khoa Cần Thơ, viện Đại học Vạn Hạnh Sài Gòn. Từ 30 tháng 4 năm 1975 đến ngày về hưu, ông là giảng viên bộ môn Hán Nôm khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh và Trưởng bộ môn Hán Nôm khoa Ngữ văn và Báo chí (nay là khoa Văn học và Ngôn ngữ) trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia TP. Hồ chí Minh. Ông nghỉ hưu năm 1997, hiện đang sống và tiếp tục công việc nghiên cứu tại Thành phố Hồ Chí Minh. Khi nhận định về phong cách sáng tác của Nguyễn Khuê, tác giả Hoàng Độ (thuộc Tu viện Quảng Đức) có nhận xét:

[...] dẫu đã có thơ đăng trên các báo trong Nam ngoài Bắc từ thuở thiếu thời, thơ với Nguyễn Khuê có lẽ như một "nghiệp dĩ" của đời ông [...] Ông làm thơ như để tự họa tâm thức của mình, mà tâm thức thì làm sao vẽ được [...] Người ta từng biết Nguyễn Khuê là một nhà giáo mẫu mực, người đã một đời gắn bó với bục giảng và viên phấn trắng trước bao thế hệ; một nhà biên khảo với nhiều tác phẩm đóng góp chung vào nền quốc học từ những năm 1970 đến nay. Với hai tập thơ đã xuất bản, người ta lại biết thêm một "chân dung vô hình" của ông: "Trên tường đêm thấy bóng mình/ Mừng vui...bóng cũng là hình đó thôi/.../Sầu vạn cổ lạnh thiên thu/Hình đơn bóng lẻ bên nhau tự tình/Bóng là tri kỷ của hình." (Thấy Bóng Mình, tr.44)

Sự nghiệp nghiên cứu

Nghiên cứu Hán Nôm

PGS-TS Đoàn Lê Giang đã nhận định trong bài Nhà giáo, học giả, nhà thơ Nguyễn Khuê:

''Nghiên cứu Hán Nôm là lĩnh vực ông dồn nhiều công sức và có nhiều đóng góp quan trọng. Phong cách nghiên cứu của ông là nghiêm cẩn, khoa học và trọng tư liệu. Các vấn đề mà ông trình bày bao giờ cũng tường tận, ngọn ngành, rõ ràng, khúc chiết. Những nghiên cứu và biên dịch của ông về Khổng tử, Phật giáo, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Tương An Quận vương, Hồ Biểu Chánh,... là những đóng góp quan trọng của ông với học thuật nước nhà, sẽ tồn tại mãi với thời gian.

Nguyễn Khuê còn có công lớn phát hiện, phục hồi địa vị cho nhà thơ Tương An Quận vương (trong bộ ba Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương, Tương An Quận vương). Từ năm 1970, qua công trình nghiên cứu, dịch thuật, biên khảo công phu Tâm trạng Tương An Quận vương qua thi ca của ông, tác giả Nguyễn Khuê đã vén bức màn phủ bụi thời gian để soi rọi, trả lại cho nền văn học nước nhà chân dung, cuộc đời và sự nghiệp của một nhà thơ tiêu biểu của triều Nguyễn. Năm 2005, công trình có giá trị này về Tương An đã được Nhà xuất bản Văn Nghệ tái bản.

Trong suốt sự nghiệp nhà giáo của mình, Nguyễn Khuê đã nghiên cứu để giảng dạy những môn học thuộc phạm trù Trung Quốc học: nghiên cứu tiếng Hán cổ (cổ đại Hán Ngữ), văn học, triết học, sử học, văn hóa Trung Quốc và Phật giáo Trung Quốc.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Giáo sư **Nguyễn Khuê** (23 tháng 9 năm 1935 –) là một nhà sư phạm, nhà thơ, nhà dịch thuật, nhà Trung Quốc học, nhà nghiên cứu văn hóa có nhiều đóng góp có giá
:_Để tránh nhầm lẫn với một hoàng tử con vua Minh Mạng có cùng tên gọi, xem Nguyễn Phúc Miên Bảo (sinh 1835)._ **Nguyễn Phúc Miên Bảo** (về sau đọc trại thành **Bửu**) (chữ Hán:
**Phêrô Nguyễn Soạn** (15 tháng 12 năm 1936 – 8 tháng 7 năm 2024) là một giám mục Công giáo tại Việt Nam, thuộc Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm nhận vai trò
**Lê Văn Phú** (?-1854), hiệu: **Lễ Trai**; là một danh thần trải bốn triều vua là Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử **Lê Văn
**Nguyễn Bá Huân** (1853-1915) tự **Ôn Thanh**, hiệu **Mộ Chân sơn nhân**, sau lấy tên hiệu nữa là **Ái Cúc ẩn sĩ**; là một danh sĩ thời nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ##
**Nguyễn Phúc Hồng Bảo** (chữ Hán: 阮福洪保, 1825 - 1854), còn hay gọi **An Phong công** (安豐公), là con trưởng của Nguyễn Hiến Tổ Thiệu Trị hoàng đế, vị Hoàng đế thứ ba của triều
**Nguyễn Ngọc** (1812 - 1847), hiệu là **Bảo Trai**, tự là **Kiên Kim**, thụy là **Văn Ý** là một người Nghệ An đậu song nguyên hoàng giáp. Nguyễn Ngọc là người làng Cổ Bái xã
phải|Tượng thờ Doãn Khuê ở đình xã Nghĩa Thành huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định. **Doãn Khuê** (chữ Hán: 尹奎; 1813-1878) là quan Nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông từng giữ các chức
nhỏ|phải|Tượng Chưởng Trung Quân Nguyễn Văn Thành được tôn trí thờ sau 1868 tại một ngôi miếu cận Đại Nội Huế**Nguyễn Văn Thành** (chữ Hán: 阮文誠; 1758–1817) thiếu thời đã theo cha chinh chiến, về
**Dương Khuê** (楊珪, 1839-1902), tự: **Giới Nhu**, hiệu **Vân Trì**; là quan nhà Nguyễn, và là nhà thơ Việt Nam ở thế kỷ 19. ## Thân thế và sự nghiệp **Dương Khuê** là người ở
**Nguyễn Phúc Ngọc Khuê** (chữ Hán: 阮福玉珪; 1807 – 1827), phong hiệu **Mỹ Khê Công chúa** (美溪公主), là một công chúa con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử
**Nguyễn Quyện** (chữ Hán: 阮倦; 1511-1593) là danh tướng trụ cột của nhà Mạc thời Nam Bắc triều trong lịch sử Việt Nam, tước Văn Phái hầu sau được phong làm Thường quận công, Chưởng
**Văn Đức Khuê** (文德奎, 1807-1864), trước tên là **Giai**, sau đổi là **Khuê**; là danh thần triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử **Văn Đức Khuê** sinh năm Đinh Mão (1807) tại
**Nguyễn Phúc Khuê Gia** (chữ Hán: 阮福珪珈; 12 tháng 8 năm 1813 – 28 tháng 4 năm 1865), trước có tên là **Chương Gia** (璋珈), phong hiệu **An Phú Công chúa** (安富公主), là một công
**Nguyên sử** (tiếng Trung: 元史, bính âm: Yuán Shǐ) là một tác phẩm do Tống Liêm (1310-1381) và một số quan lại khác phụng mệnh Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương biên soạn năm 1370.
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 2** là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại Việt diễn ra trên lãnh thổ Đại Việt từ cuối tháng 1 đến cuối tháng 5 năm
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 3** (theo cách gọi khác ở Việt Nam là **Kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 3**) là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại
Sơ đồ vị trí [[12 sứ quân]] Đình Ném Đoài ở Khắc Niệm, Bắc Ninh **Nguyễn Thủ Tiệp** (; 908 - 967) hiệu _Nguyễn Lệnh công_ (阮令公) hoặc _Vũ Ninh vương_ (武宁王), là một thủ
**Nguyễn Như Khuê** (mất tháng 5 năm 1997) là một nhà nghiên cứu toán học cao cấp người Việt Nam. Ông có học vị tiến sĩ và học hàm phó giáo sư Liên ngành xây
**Jayaatu Khan Nguyên Văn Tông** (1304 - 1332), tên thật là **Borjigin Töbtemür** (tiếng Mông Cổ: Заяат хаан, Jayaγatu qaγan; chữ Hán:元文宗; phiên âm Hán Việt: **Bột Nhi Chỉ Cân Đồ Thiếp Mục Nhi**) là
thumb|Mỹ Lương Công chúa, húy là [[Nguyễn Phúc Tốn Tùy|Tốn Tùy - chị gái Vua Thành Thái, và hai nữ hầu.]] **Hậu cung nhà Nguyễn** là quy định và trật tự của hậu cung dưới
nhỏ|phải|Bửu tỷ của vua Gia Long **Bửu tỷ triều Nguyễn** hay **bảo tỷ triều Nguyễn** là loại ấn tín của Hoàng đế, tượng trưng cho Đế quyền của các vị vua triều Nguyễn. Bửu tỷ
**Nguyễn Thực** (阮實, 1554-1637), tự Phác Phủ (朴甫), đỗ Đình nguyên Tiến sĩ khoa Ất Mùi năm 1595, niên hiệu Quang Hưng dưới thời vua Thế Tông hoàng đế Lê Duy Đàm của nhà Lê
**Nguyễn Thiên Tích** (chữ Hán: 阮天錫; 1400 - 1470) là nhà ngoại giao, danh thần nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp Nguyễn Thiên Tích có tên tự là **Huyền Khuê**
**Lăng Nguyễn Đình Chiểu** là nơi an táng và thờ nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, cùng với vợ ông là bà Lê Thị Điền và con gái là nữ sĩ Sương Nguyệt Anh. Khu di
**Nguyễn Phúc Lệ Nhàn** (chữ Hán: 阮福麗嫻; 1836 – 1882), phong hiệu **Quy Chính Công chúa** (歸正公主), là một công chúa con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử
**Nguyễn Phúc Nhã Viện** (chữ Hán: 阮福雅媛; 1832 – 1875), phong hiệu **Hoài Chính Công chúa** (懷正公主), là một công chúa con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
**Nguyễn Bỉnh Khiêm** (chữ Hán: 阮秉謙; 13 tháng 5 năm 1491 – 28 tháng 11 năm 1585), tên huý là **Văn Đạt** (文達), tự là **Hanh Phủ** (亨甫), hiệu là **Bạch Vân am cư sĩ**
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
**Nguyễn Thái Học** (chữ Hán: 阮太學; 30/12/1902 – 17/6/1930) là nhà cách mạng Việt Nam chủ trương dùng vũ lực lật đổ chính quyền thực dân Pháp, giành độc lập cho Việt Nam. Ông là
**Nguyễn Tường Tam** (chữ Hán: hay ; 1906 - 7 tháng 7 năm 1963) là một nhà văn, nhà báo với bút danh **Nhất Linh** (), **Tam Linh**, **Bảo Sơn**, **Lãng du**, **Tân Việt**, **Đông
**Nguyễn Quang Bích** (chữ Hán: 阮光碧, 1832 – 1890), còn có tên là **Ngô Quang Bích**, tự **Hàm Huy**, hiệu **Ngư Phong**; là quan nhà Nguyễn, nhà thơ và là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa
**Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến** (chữ Hán: 阮勸), tên thật là **Nguyễn Thắng** (阮勝), hiệu là _Quế Sơn_, tự _Miễu Chi_, sinh ngày 15 tháng 2 năm 1835, tại quê ngoại làng Văn Khế,
Đình Đông Phù, Thanh Trì là nơi thờ sứ quân Nguyễn Siêu **Nguyễn Siêu** (chữ Hán: 阮超; 924 - 967) hiệu _Nguyễn Hữu Công_ (阮右公) là một sứ quân nổi dậy thời loạn 12 sứ
**Philipphê Nguyễn Kim Điền** (13 tháng 3 năm 1921 – 8 tháng 6 năm 1988) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Giám mục chính tòa Tiên khởi Giáo phận
**Nguyễn Hữu Hùng** (26 tháng 7 năm 1970 - 13 tháng 10 năm 2020) là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, cấp bậc Thiếu tướng. Tại thời điểm gặp nạn, ông giữ
**Nguyễn Văn Nhơn** () hay **Nguyễn Văn Nhân**, tục gọi là **Quan lớn Sen** (1753-1822), là một danh tướng của chúa Nguyễn Phúc Ánh (sau này là vua Gia Long) trong lịch sử Việt Nam.
**Nguyễn An** (chữ Hán: 阮安, ?-1453), còn gọi là **A Lưu** (chữ Hán: 阿留), là một kiến trúc sư người Việt đầu thế kỷ 15. Một số nguồn tin cho rằng ông là một trong
**Nguyễn Trọng Trì** (1854-1922), hiệu **Tả Am**; là nhà thơ và là một nghĩa quân trong phong trào Cần Vương ở Bình Định, Việt Nam. ## Thân thế Gần cuối thế kỷ 19 ở Bình
**Nguyễn Tông Quai** (阮宗乖; trước đây có sách viết là **Nguyễn Tông Khuê** 阮宗奎, 1692 – 2 tháng 4 năm 1767),, hiệu **Thư Hiên** (舒翰); là nhà giáo, nhà thơ và là đại quan nhà
**Nguyễn Văn Siêu** (chữ Hán: 阮文超, 1799 - 1872), ban đầu tên là **Định**, sau đổi là **Siêu**, còn gọi là **Án Sát Siêu**, tự: **Tốn Ban**, hiệu: **Phương Đình**, là nhà thơ, nhà nghiên
**Nguyễn Văn Hiếu** (1746 - 1835) là tướng chúa Nguyễn và là quan nhà Nguyễn, Việt Nam. ## Tiểu sử **Nguyễn Văn Hiếu** là người Kiến Hòa, tỉnh Định Tường, về sau đổi thuộc tỉnh
**Giuse Maria Nguyễn Tùng Cương** (1919–1999) là một giám mục của Giáo hội Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Giám mục chính tòa của Giáo phận Hải Phòng, đảm nhận chức vụ
**Nguyễn Phúc Trung** (chữ Hán: 阮福忠), sau gọi là **Tôn Thất Trung**, là một vị tướng dưới thời Trịnh - Nguyễn phân tranh trong lịch sử Việt Nam. Ông nổi tiếng vì vụ bê bối
**Nguyễn Hữu Tiến** (阮有進, 1875-1941), hiệu **Đông Châu** (東洲). là một nhà nghiên cứu cộng tác đắc lực với tạp chí Nam Phong. Quê ở làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Đông (nay
**Phạm Nguyễn Du** (范阮攸, 1739 - 1786), tên thật: **Phạm Vĩ Khiêm**, tự là **Hiếu Đức**, hiệu: **Thạch Động, Dưỡng Hiên**; là nhà sử học, nhà thơ Việt Nam thời Lê trung hưng. ## Tiểu
**Trương Chuyển Nam**, thường được biết đến với nghệ danh **Nguyên Thu** (Hán tự: _元秋_; sinh ngày 19 tháng 4 năm 1950), là một nữ diễn viên kiêm võ sư người Hồng Kông. Bà bắt
**Phêrô Maria Nguyễn Năng** (tên đầy đủ là **Phêrô Maria Nguyễn Văn Năng;** Ông nguyên là giám mục chính tòa của Giáo phận Vinh. Khẩu hiệu Giám mục của ông là "Vâng lời Thầy con
**Phêrô Maria Nguyễn Huy Quang** (1910 – 1985) là một giám mục người Việt Nam của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông nguyên là Giám mục Tiên khởi Giáo phận Hưng Hóa, quản nhiệm giáo