Khuê Phong Tông Mật (zh: 圭峰宗密, guīfēng zōngmì, ja: keihō shū-mitsu, 780-841), Thiền sư Trung Quốc thuộc phái Hà Trạch Thần Hội và cũng là tổ sư đời thứ năm của Hoa Nghiêm Tông. Trong cuộc đời hoằng pháp của mình, ông viết nhiều chuyên luận quan trọng về tình hình Phật giáo đương thời vào đời Đường Trung Hoa, và là một trong những gương mặt kiệt xuất trong lịch sử Phật giáo Á Đông trong tinh thần là một học giả có quan điểm mới lạ với những phân tích rất sáng suốt về sự phát triển của Thiền tông và Hoa Nghiêm tông và các quan điểm về tư tưởng, tôn giáo trong thời của ông. Tư tưởng và các lý luận của ông đã gây ảnh hưởng rất lớn đến đời sau, tác phẩm Hoa Nghiêm Nguyên Nhân Luận của ông là một trong những tác phẩm tiêu chuẩn mà các vị tăng Nhật Bản phải học qua.
Ông là một trong những người tiên phong khởi xướng thuyết Tam Giáo Đồng Nguyên với chủ trương dung hợp cốt tủy và triết lý của 3 tôn giáo lớn nhất ở Trung Quốc là Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo và cũng là người đầu tiên dung hợp giáo lý và đường lối thực hành hài hòa giữa Thiền tông và Giáo môn (đặc biệt nhất là Hoa Nghiêm Tông).
Cuộc đời
Ông họ Hà, quê ở Quảng Châu, tỉnh Tứ Xuyên. Ban đầu ông theo học Nho Giáo và sau đó cảm mến Phật Pháp và xuất gia với Thiền sư Đạo Viên thuộc phái Hà Trạch. Không lâu sau, ông được tiếp xúc với giáo lý của Hoa Nghiêm Tông và ngộ ý chỉ qua Kinh Viên Giác và quyển Pháp Giới Môn của Sơ tổ Tông Hoa Nghiêm là pháp sư Đỗ Thuận rồi quyết định lập trường tu hành của mình.
Năm 799, ông thọ cụ túc giới và sau đó đến năm 808 sư được Thiền sư Đạo Viên chỉ đến yết kiến tu tập với Thiền sư Nam Ấn và sau đó Nam Ấn lại chỉ sư đến học Thiền với Thiền sư Thần Chiếu ở chùa Báo Quốc. Nhờ tham học với 3 vị Thiền sư này nên ông thấu được yếu chỉ của Thiền Tông và phái Hà Trạch.
Đến năm 811, ông đọc Hoa Nghiêm Sớ và cảm ngộ nói rằng: "Các thầy thuật tạo ít có cùng tột chỉ yếu, chưa bộ nào bằng bộ này, bộ này văn chương lưu loát, nghĩa lý rõ ràng. Ta tu Thiền thì gặp Nam tông (đốn ngộ), kinh điển thì gặp Viên Giác. Chỉ một câu nói tâm địa khai thông, trong một quyển kinh nghĩa sáng khắp trời. Nay lại gặp bộ tuyệt bút này biết sạch trong lòng". Và đến yết kiến Thiền sư Thanh Lương Trừng Quán- tổ thứ tư của Hoa Nghiêm tông và nghiên cứu sâu vào giáo lý của Hoa nghiêm tông. Từ đó, ông chuyên tâm sáng tác và thuyết pháp về đường lối Thiền- Giáo của mình và danh đức của ông càng cao và được nhiều người ngưỡng mộ biết đến.
Năm 828, ông đến trụ trì tại Thảo Đường Tự ở núi Chung Nam và viết bộ Viên Giác Kinh Đại Sớ Sao. Vua Đường Văn Tông từng mời ông vào cung thuyết pháp và rất kính mến ông, ban cho ông chiếc áo cà-sa tía (tử y). Cư sĩ Thiền Tông nổi tiếng là Tể tướng Bùi Hưu từng nhiều năm tham học với ông và biên soạn cuốn Bùi Hưu Thập Di Vấn dựa trên những thắc mắc về Phật Pháp của mình và lời giải đáp của Khuê Phong.
Năm 841, ông ngồi kiết- già và an nhiên thị tịch tại Thảo Đường Tự, thọ 62 tuổi, hạ lạp 43 năm. Môn đệ trà tỳ nhục thân được rất nhiều xá lợi, vua sắc phong hiệu là Định Huệ thiền sư.
Tư tưởng
Thiền sư Phong Khuê được đánh giá là một vị luận sư Phật giáo có tính điềm đạm và thận trọng, với nhiều tác phẩm luận giải Kinh điển của mình. Người sáng lập Thiền phái Tào Khê ở Triều Tiên là Thiền sư Trí Nột từng đọc những bài Luận của sư và ngộ đạo, Trí Nột chịu ảnh hưởng rất lớn đối với tu tưởng Thiền Giáo song tu và Kiến Tính Khởi Tu của sư, từ các tác phẩm và sự truyền bá của Trí Nột, tư tưởng của Phong Khuê đã lan rộng và ảnh hưởng tới quan điểm của Thiền tông Triều Tiên sau này, chú trọng đến cả việc nghiên cứu các giáo lý Phật Pháp và thực hành Thiền tông, đặc biệt là quan tâm đến ý nghĩa của sự hoà hợp các quan điểm có khuynh hướng độc đáo trong cả hai tông phái.
Sư nghiên cứu sâu rộng tất cả các bản kinh chủ yếu là bản Hán Tạng trong thời của sư, chuyên tâm về các Kinh luận đề cập đến tư tưởng Hoa Nghiêm Tông, Như Lai Tạng và mối quan hệ với Thiền tông. Sư chịu ảnh hưởng đậm nét tư tưởng Hoa Nghiêm, và nổi bật với công trình phân loại các giáo lý, nghĩa là sư nỗ lực trong đánh giá sự khác biệt trong giáo lý Phật giáo bằng cách phân loại chúng theo mục đích đặc biệt của từng loại giáo lý.
Xem: Ngũ Vị Thiền
Tuy sư hướng những nghiên cứu quan trọng của mình vào những kinh như Hoa Nghiêm, luận Đại thừa khởi tín, kinh Kim Cương, nhưng sư vẫn bắt tay vào những đề tài khác như lập lại mối tương quan của ba pháp môn (Thiền, tịnh, mật) và các phái Thiền khác nhau, mà luận giải của Tông Mật về kinh Viên Giác còn là kiệt tác trong sự nghiệp nghiên cứu của sư.
Phần lớn cuộc đời của sư liên quan đến việc cung cấp cuộc đối thoại giữa Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo. Sư cho rằng cả ba tôn giáo cơ bản đều giống nhau, với những điều dạy về hiếu hạnh, làm lành tránh ác, rèn luyện đạo đức cá nhân, thúc đẩy xã hội hòa bình và phát triển, tuy nhiên chỉ có Phật giáo là chân lý tối thượng nhất, vì nó hướng con người đến sự giác ngộ và giải thoát.
Một tư tưởng cốt lỗi của Phong Khuê đó là Kiến Tính Khởi Tu, sư đã cố gắng hài hòa giữa quan điểm Đốn Ngộ của Thiền Lục Tổ và Tiệm Tu của Thần Tú. Sư cho rằng dù khi đạt Kiến tính và nhận ra bản tính Phật ngay nơi mình nhưng không có nghĩa là người ta đạt Phật quả ngay lập tức. Do đó, Khuê Phong chủ trương Giác ngộ đột ngột, tu tập dần dần. Sự tu tập dần dần sau khi đại ngộ này nhằm diệt trừ hết tất cả các phiền não, tập khí từ vô lượng kiếp và sau đó diệu dụng, trí huệ của Phật tính mới được hiển lộ, trong truyền thống Thiền tông gọi là bảo nhậm công phu. Sư viết:
Biết băng nơi hồ là toàn nước, nhờ ánh mặt trời mới tan ra. Ngộ phàm phu tức là Phật, nhờ pháp lực để huân tu. Băng tan thì nước chảy và mới có công dụng giặt rửa. Vọng hết thì tâm rỗng suồt, mới ứng hiện diệu dụng thần thông sáng suốt.
Tác phẩm
Viên Giác Kinh Đại Sớ Sao,圓覺經大疏鈔
Bùi Hưu Thập Di Vấn, 裴休拾遺問
Khởi Tín Luận Chú Sớ, 起信論注疏
Vu Lan Bồn Kinh Sớ, 盂蘭盆經疏
Hoa Nghiêm Kinh Hạnh Nguyện Phẩm Sớ Sao, 華嚴經行願品疏鈔
Chú Hoa Nghiêm Pháp Giới Quán Môn,注華嚴法界觀門
Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự, 禪源諸詮集都序
Nguyên Nhân Luận, 原人論
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Khuê Phong Tông Mật** (zh: 圭峰宗密, guīfēng zōngmì, ja: keihō shū-mitsu, 780-841), Thiền sư Trung Quốc thuộc phái Hà Trạch Thần Hội và cũng là tổ sư đời thứ năm của Hoa Nghiêm Tông. Trong
**Hà Trạch tông** (zh. _hézé-zōng_ 荷澤宗, ja. _kataku-shū_) là một nhánh của Thiền tông Trung Quốc, bắt nguồn từ Thiền sư Hà Trạch Thần Hội, một môn đệ của Lục tổ Huệ Năng. Ngược với
**Tống Thần Tông** (chữ Hán: 宋神宗, 25 tháng 5, 1048 - 1 tháng 4, 1085), húy **Triệu Húc** (趙頊), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, ông
**Lê Thế Tông** (chữ Hán: 黎世宗 1567 - 12 tháng 10 năm 1599), tên húy là **Lê Duy Đàm** (黎維潭), là vị hoàng đế thứ tư của Hoàng triều Lê - giai đoạn Trung hưng
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Tống Nhân Tông** (chữ Hán: 宋仁宗, 12 tháng 5, 1010 - 30 tháng 4, 1063), tên húy **Triệu Trinh** (趙禎), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Thiền phái Trúc Lâm ** (zh. 竹林禪派) là một tông phái của Thiền tông Việt Nam, hình thành từ thời nhà Trần, do Vua Trần Nhân Tông sáng lập. Trúc Lâm vốn là hiệu của
**Lê Túc Tông** (chữ Hán: 黎肅宗 6 tháng 9 năm 1488 – 12 tháng 1 năm 1505) là vị hoàng đế thứ bảy của Hoàng triều Lê nước Đại Việt. Túc Tông chỉ giữ ngôi
**Kim Ai Tông ** (chữ Hán: 金哀宗, bính âm: **_Jin Aizong_**, 25 tháng 9 năm 1198 - 9 tháng 2 năm 1234), tên Hán là **Hoàn Nhan Thủ Lễ** (完顏守禮) hay **Hoàn Nhan Thủ Tự**
**Lâm Tế tông** (zh. _línjì-zōng/lin-chi tsung_ 臨濟宗, ja. _rinzai-shū_) là một dòng thiền được liệt vào Ngũ gia thất tông—tức là Thiền chính phái—do Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền sáng lập. Đây là tông
**Cao Ly Cảnh Tông** (Hangul: 고려 경종, chữ Hán: 高麗 景宗; 9 tháng 11 năm 955 – 13 tháng 8 năm 981, trị vì 975 – 981) là quốc vương thứ năm của vương triều
**Tống Thái Tông** (chữ Hán: 宋太宗, 20 tháng 11 năm 939 - 8 tháng 5 năm 997), tên húy **Triệu Quýnh** (趙炅), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Tống trong lịch
**Đường Túc Tông** (chữ Hán: 唐肃宗; 21 tháng 2, 711 - 16 tháng 5, 762), tên thật **Lý Hanh** (李亨), là vị Hoàng đế thứ 8, hay thứ 10 của nhà Đường trong lịch sử
**Liêu Thánh Tông** (chữ Hán: 遼聖宗; 972 - 1031), tên thật theo Hán danh là **Long Tự** (隆绪) và tên Khiết Đan là **Văn Thù Nô** (文殊奴), là vị Hoàng đế thứ sáu thuộc dòng
**Nhà Tống** là hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 960 đến năm 1279. Triều đại này được sáng lập bởi Tống Thái Tổ sau khi ông soán ngôi Hoàng đế Hậu Chu rồi
**Hải Phòng** là một trong sáu thành phố trực thuộc trung ương của Việt Nam. Đây là thành phố lớn thứ 3 Việt Nam về quy mô kinh tế, đồng thời là một thành phố
**Hám Sơn** **Đức Thanh** ( zh. 憨山德清 _Hanshan Deqing,_ 1546-1623) là một vị Thiền sư, Đại sư của Thiền Tông và Tịnh Độ tông Trung Quốc. Sư được mệnh danh là một trong 4 vị
## Thời sơ khai # Phật Thích-ca Mâu-ni (sa. _śākyamuni_) Mười đại đệ tử # Xá-lợi-phất (sa. _śāriputra_) # Mục-kiền-liên (sa. _maudgalāyana_) # Ma-ha-ca-diếp (sa. _mahākāśyapa_) # A-nậu-lâu-đà (sa. _aniruddha_) # Tu-bồ-đề (sa. _subhūti_) #
Pháp sư **Thanh Lương Trừng Quán** (清涼澄觀, Shōryō Chōkan, 738-839), vị tổ thứ 4 của Hoa Nghiêm Tông, sống vào thời nhà Đường, có ảnh hưởng rất lớn trong Phật Giáo Nhà Đường, còn được
**Hà Trạch Thần Hội** (zh. _hézé shénhuì_ 荷澤神會, ja. _kataku jin'e_), 668-760 hoặc 670-762, là một Thiền sư Trung Quốc, môn đệ của Lục tổ Huệ Năng. Sư có công lớn trong việc thuyết phục
**Ngũ vị thiền** (五味禪) chỉ năm phương pháp tu thiền do Thiền sư Khuê Phong Tông Mật phân chia ra trong tác phẩm _Thiền nguyên chư thuyên tập đô tự_ (禪源諸詮集都序): #**Phàm phu thiền** (凡夫禪,
**Bùi Hưu** (zh. _péixīu_ 裴休, ja. _haikyū_) là một vị cư sĩ có duyên lớn với cuộc đời hoằng hóa của Thiền sư Hoàng Bá Hi Vận và là người biên tập tác phẩm _Hoàng
**Giuse Maria Trịnh Như Khuê** (11 tháng 12 năm 1898 – 27 tháng 11 năm 1978) là một hồng y thuộc Giáo hội Công giáo Rôma và là hồng y tiên khởi của Việt Nam. Khẩu
phải|Tượng thờ Doãn Khuê ở đình xã Nghĩa Thành huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định. **Doãn Khuê** (chữ Hán: 尹奎; 1813-1878) là quan Nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông từng giữ các chức
**Lê Thánh Tông** (chữ Hán: 黎聖宗 25 tháng 8 năm 1442 – 3 tháng 3 năm 1497), huý **Lê Tư Thành** (黎思誠), là vị Hoàng đế thứ tư trên danh nghĩa và thứ năm trên
**Đường Thái Tông** (chữ Hán: 唐太宗, 28 tháng 1 năm 598 – 10 tháng 7 năm 649), tên thật **Lý Thế Dân** (李世民), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Đường trong
**Vi Khuê** (chữ Hán: 韋珪, 597 - 665), biểu tự **Trạch** (泽), thông gọi **Vi Quý phi** (韋貴妃) hay **Kỷ Quốc thái phi** (紀國太妃), là một phi tần của Đường Thái Tông Lý Thế Dân.
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
[[Đền Vực Vông ở cố đô Hoa Lư còn lưu giữ 17 sắc phong về Bùi Văn Khuê]] **Bùi Văn Khuê** (chữ Hán: 裴文奎, 1546 - 1600) là tướng nhà Mạc và nhà Lê trung
**Đoàn Khuê** (1923 – 1999), bí danh **Võ Tiến Trình**, là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, cấp bậc Đại tướng. Ông nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành
**Tống Triết Tông** (chữ Hán: 宋哲宗, 4 tháng 1, 1077 - 23 tháng 2, 1100), húy **Triệu Hú** (趙煦), là vị Hoàng đế thứ bảy của vương triều Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Tống Anh Tông** (chữ Hán: 宋英宗, 16 tháng 2, 1032 - 25 tháng 1, 1067), thụy hiệu đầy đủ **Thể Càn Ứng Lịch Long Công Thịnh Đức Hiến Văn Túc Vũ Duệ Thánh Tuyên Hiếu
**Đỗ Tích Khuê** (chữ Hán: 杜錫珪; 12 tháng 11 năm 1875 - 28 tháng 12 năm 1933), tự **Thận Chưng** (慎丞), **Thận Thần** (慎臣), hiệu **Thạch Chung** (石鍾) là một sĩ quan Hải quân cuối
**Phạm Trấn** (chữ Hán: 范镇, 1007 – 1088), tự **Cảnh Nhân**, người huyện Hoa Dương, phủ Thành Đô , quan viên, nhà sử học đời Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Về chánh trị,
**Đoan Nam Vương** **Trịnh Tông** (chữ Hán: 鄭棕; 10 tháng 10 năm 1763 - 23 tháng 7 năm 1786), còn có tên khác là **Trịnh Khải** (鄭楷) là vị chúa Trịnh thứ 10 thời Lê
Đình Dương Đanh, Dương Xá là nơi thờ sứ quân Lý Khuê **Lý Khuê** (chữ Hán: 李奎; ? - 968), hiệu **Lý Lãng công** (李郞公) là một thủ lĩnh thời loạn 12 sứ quân trong
**Jayaatu Khan Nguyên Văn Tông** (1304 - 1332), tên thật là **Borjigin Töbtemür** (tiếng Mông Cổ: Заяат хаан, Jayaγatu qaγan; chữ Hán:元文宗; phiên âm Hán Việt: **Bột Nhi Chỉ Cân Đồ Thiếp Mục Nhi**) là
**Bàn Khuê Vĩnh Trác** (盤珪永琢, ja. _bankei yōtaku_ (_eitaku_)), 1622–1693, cũng được gọi là **Bàn Khuê Quốc sư** (zh. 盤珪國師, ja. _bankei kokushi_), là một vị Thiền sư Nhật Bản, thuộc tông Lâm Tế, hệ
**Chu Hữu Khuê** (, 888?- 27 tháng 3 năm 913 tiết độ sứ. Vào những năm Quang Khải (885-888) thời Đường Hy Tông, Chu Toàn Trung xuất quân, đi qua Bạc châu triệu mẹ của
**Nguyễn Phúc Ngọc Khuê** (chữ Hán: 阮福玉珪; 1807 – 1827), phong hiệu **Mỹ Khê Công chúa** (美溪公主), là một công chúa con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử
**Giang Giản Khuê** (chữ Hán: 江簡珪) là hoàng hậu của Lưu Tống Hậu Phế Đế trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Giang Giản Khuê xuất thân quý tộc, người Tế Dương quận, Khảo
**Tống Cao Tông** (chữ Hán: 宋高宗, 12 tháng 6 năm 1107 - 9 tháng 11 năm 1187), tên húy là **Triệu Cấu** (chữ Hán: 趙構), tên tự là **Đức Cơ** (德基), là vị Hoàng đế
**Chương Kính Ngô hoàng hậu** (chữ Hán: 章敬吳皇后; ? - 730), thông xưng **Ngô phu nhân** (吳夫人), là cơ thiếp của Đường Túc Tông Lý Hanh khi ông còn là Thái tử. Bà được biết
**Phạm Minh phi** (chữ Hán: ; 1448 – 1498), không rõ tên thật, là một phi tần của hoàng đế Lê Thánh Tông. ## Tiểu sử Minh phi sinh năm 1448, là người huyện Lương
**Thanh Văn Tông** (chữ Hán: 清文宗; 17 tháng 7 năm 1831 – 22 tháng 8 năm 1861), Tây Tạng tôn vị **Văn Thù Hoàng đế** (文殊皇帝), là vị Hoàng đế thứ 9 của triều đại
Hoa phượng đỏ, biểu tượng của người Hải Phòng Dưới đây là **danh sách những nhân vật tiêu biểu** là những người đã sinh ra tại Hải Phòng, có quê quán (nguyên quán) ở Hải
**Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Hà Nội** là cơ quan chấp hành giữa hai kỳ đại hội do Đại hội đại biểu Mặt trận Tổ quốc thành phố Hà Nội hiệp thương
**Phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm** là một phong trào văn hóa mang xu hướng chính trị của một số văn nghệ sĩ, trí thức sống ở miền Bắc dưới chính quyền Việt Nam
**Triết học phương Đông** hay **triết học** **châu Á** bao gồm các triết học khác nhau bắt nguồn từ Đông và Nam Á bao gồm triết học Trung Quốc, triết học Nhật Bản và triết
**Viên giác kinh** (zh. 圓覺經, _yuánjué-jīng_; ja. _engaku-kyō_, ko. 원각경, _Wongakgyeong;_ en. _The Sutra of Perfect Enlightenment_), tên đầy đủ là **Đại phương quảng viên giác tu-đa-la liễu nghĩa kinh** (sa. _mahāvaipulyapūrṇa-buddhasūtra-prasannārtha-sūtra_), là một bộ