✨Kim Ai Tông

Kim Ai Tông

Kim Ai Tông (chữ Hán: 金哀宗, bính âm: Jin Aizong, 25 tháng 9 năm 1198 - 9 tháng 2 năm 1234), tên Hán là Hoàn Nhan Thủ Lễ (完顏守禮) hay Hoàn Nhan Thủ Tự (完顏守緒), tên Nữ Chân là Ninh Giáp Tốc (寧甲速), là vị hoàng đế thứ 9 của triều đại nhà Kim trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con trai thứ ba của Kim Tuyên Tông Hoàn Nhan Tuân, mẹ là Vương thị, chào đời năm 1198. Khi Tuyên Tông đăng cơ (1213), Thủ Lễ được nhận tước vị Toại vương. Do thái tử Hoàn Nhan Thủ Trung và thái tôn Hoàn Nhan Khanh mất sớm nên vào tháng 1 năm 1216, Hoàn Nhan Thủ Lễ được Tuyên Tông lập làm thái tử, đổi tên là Hoàn Nhan Thủ Tự. Tháng giêng ÂL năm 1224, Tuyên Tông qua đời, Hoàn Nhan Thủ Tự lên nối ngôi, tức là Kim Ai Tông.

Kim Ai Tông là một vị vua có lòng chấn hưng đất nước nhưng tiếc là không gặp thời. Lúc ông lên ngôi, nước Kim đã ở trong tình thế ngặt nghèo: một mặt là quân Mông Cổ liên tục xâm lấn, phần đất phía bắc sông Hoàng Hà gần như đã bị cướp sạch, người Mông đã bắt đầu đưa quân vượt sông tràn vào Trung Nguyên. Mặt khác trên mặt trận phía nam, triều Kim cũng thất bại trong các cuộc chiến tranh với Nam Tống, mất đất đai và khoản tiền triều cống, phía tây lại bị Tây Hạ liên tục quấy nhiễu, nước Kim đã ở trong tình thế sắp diệt vong. Để cứu vãn tình hình, Ai Tông chủ trương khuyến khích, phục hưng nông nghiệp, vỗ về dân chúng, tiến hành cải cách nội bộ, bỏ gian dùng hiền, bên ngoài đình chỉ chiến tranh với triều Tống, thiết lập lại quan hệ hữu hảo với Tây Hạ, bổ nhiệm nhiều tướng giỏi cho mặt trận chống Mông, ban đầu đã có những chuyển biến tốt đẹp, triều Kim dần thu lại không ít đất đai bị mất.

Nhưng mặc dù đã rất cố gắng nhưng Ai Tông cũng không thể cứu vãn một triều đại sắp tàn vong. Năm 1227, Mông Cổ tiêu diệt được Tây Hạ và dồn thêm sức để tận diệt triều Kim. Năm 1232, sau thất bại trong trận Tam Phong Sơn, Ai Tông phải bỏ cả Biện Kinh, ban đầu chạy về phủ Quy Đức, sau cùng lại chạy về Thái châu, vùng đất giáp với nước Tống. Tháng 8 năm 1233, Mông Cổ liên quân với Tống tấn công và chiếm được Đường châu, Ai Tông cố gắng tìm cách giảng hòa và lập liên minh với Tống nhưng không được. Đầu năm 1234, liên quân Mông - Tống tấn công vào Thái châu; Ai Tông trước tình thế nguy ngập đã nhường ngôi cho nguyên soái Hoàn Nhan Thừa Lân để hi vọng duy trì nước Kim. Sau đó liên quân tấn công vào thành, Ai Tông thắt cổ tuẫn quốc. Cùng hôm đó, Mạt Đế Hoàn Nhan Thừa Lân tử trận, nước Kim diệt vong.

Thân thế và cuộc sống ban đầu

Kim Ai Tông chào đời ngày 25 tháng 9 năm 1198 (tức 23 tháng 8 ÂL năm Thừa An thứ ba) đời thúc phụ Kim Chương Tông Hoàn Nhan Cảnh ở Dực để, vì khi đó cha ông là Kim Tuyên Tông còn là Dực vương. Mẹ của ông là Vương thị, người Hán về sau được truy phong Minh Huệ hoàng hậu. Vương thị là con gái người anh của Nhân Thánh hoàng hậu, vợ cả của Tuyên Tông. Vì Nhân Thánh không có con nên nuôi những người con do những người vợ khác của Tuyên Tông sinh ra làm con mình, trong đó có Thủ Lễ.

Giữa những năm Thái Hòa đời Kim Chương Tông (1201 - 1208), Hoàn Nhan Thủ Lễ được phong chức Kim tử Quang lộc đại phu. Bấy giờ trong cung có hai phi tần là Giả thị và Phạm thị đã có mang, Chương Tông có di chiếu nếu sinh con trai thì lập làm thái tử. Vĩnh Tế lo sợ cho ngôi báu của mình, nên cùng Bộc Tán Đoan tính kế. Bộc Tán Đoan giả truyền chiếu chỉ của tiên đế, nói Giả thị sinh vào tháng 11 mà nay đã quá hạn; Phạm thị phải sinh vào tháng giêng mà nay ngự y chẩn đoán không thấy thai, hai người bị ép làm ni cô. Nguyên phi Lý thị vốn có thâm tình với Giả thị biết được sự việc có điều mờ ám nên cũng bị Vĩnh Tế bức chết. Trong ngoài đều hoài nghi, lòng dân không yên. Sau đó lại có chuyện Nguyên Thái Tổ Thiết Mộc Chân dẫn quân xâm lược nước Kim, nước Kim nhanh chóng thất thế trong cuộc giao tranh. Giữa lúc đó trong cung lại có chính biến. Năm 1213 tướng Hồ Sa Hổ giết chết vua Vĩnh Tế, lập Hoàn Nhan Tuân lên ngôi, tức Kim Tuyên Tông. Năm 1214, trước sự tấn công của người Mông, Tuyên Tông quyết định chạy về phía nam sông Hoàng Hà, định đô ở Biện Kinh. Năm 1215, Trung Đô của nước Kim (tức Yên Kinh) bị quân Mông chiếm được, nước Kim ngày một suy yếu, không thể chống đỡ nổi quân Mông.

Tuyên Tông sau khi lên ngôi đã phong chức tước cho các con của mình, trong đó Hoàn Nhan Thủ Lễ nhận chức Bí thư giám, tiến tước Toại vương, sau đó ông được đổi làm Xu mật sứ, nhưng Bộc Tán An Trinh không cứu Đường, Đặng mà tiếp tục vây đánh An Phong quân cùng các châu Trừ, Hào, Quang. Các tướng Tống Vũ Sư Đạo, Trần Hiếu Trung đến cứu nhưng không được. Sau đó An Trinh phân binh từ Quang châu đánh Ma Thành, từ Hào châu xâm Thạch Thích, từ Hu Dị lất Toàn Tiêu, Lai An, Thiên Trường, Lục Hợp. Dân chúng ở Hoài Nam lũ lượt kéo nhau vượt sông Trường Giang bỏ trốn, cả thành Kiến Khang chấn động. Lúc đó, Hoài Đông đề hình Giả Thiệp nắm quyền ở Sở châu, sai Trần Hiếu Trung cứu Từ châu, Hạ Toàn, Thời Thanh cứu Hào châu; Lý Tiên, Cát Bình, Dương Đức Quảng đến Từ Hào; Lý Toàn, Lý Phúc được lệnh chặn đường rút lui của người Kim. Lý Toàn tiến quân Qua Khẩu giao chiến với tướng Kim Ngột Thạch Liệt Nha Ngô Đáp ở Hóa Hồ bi. Quân Kim bị tổn thất 3000 người, mất kim bài, Hoàn Nhan Thủ Tự đành phải rút quân về nước.

Làm hoàng đế

Lên ngôi

Những năm cuối triều đại Tuyên Tông, triều chính nước Kim có một chút khởi sắc so với trước kia, quân Kim tuy vẫn thất thế nhưng đã có thể thu lại được một số đất đai bị cướp mất.

Tháng 12 ÂL năm 1223, Kim Tuyên Tông lâm bệnh. Vào đêm Canh Dần, bệnh tình của Tuyên Tông trở nặng, các cận thần đều không thấy bóng dáng, duy chỉ có Tư Minh phu nhân Trịnh thị của tiền triều (Vệ vương Vĩnh Tế). Tuyên Tông biết mình không sống được nữa, nên nhờ Trịnh thị cấp tốc triệu thái tử đến và cử hành hậu sự. Nói xong thì Tuyên Tông qua đời, hưởng thọ 61 tuổi. Trịnh phu nhân chưa báo việc. Vào giữa đêm đó, hoàng hậu và quý phi Bàng thị đến cung thỉnh an (hai người vẫn chưa biết rằng vua Kim đã chết). Bàng thị tính tình giảo hoạt, cho rằng người con của mình là Anh vương Hoàn Nhan Thủ Thuần tuổi lớn hơn thái tử mà không được lập, đã luôn mang hận trong lòng, nay thấy Tuyên Tông bệnh nặng nên tìm cách phế Thủ Tự, lập Thủ Thuần. Trịnh thị biết việc đó, lo sợ có biến, nên ngăn trở không cho các hậu phi vào gặp long nhan. Sau đó lập tức triệu đại thần, tuyên di chiếu lập hoàng thái tử Thủ Tự làm đế và bắt đầu phát tang. Lúc thái tử vào cung thì đã thấy Thủ Thuần ở đó, ông đoán được rằng Bàng quý phi đã có hành động gì nên quyết định tìm cách đối phó. Sai các quan ở Xu mật viện cùng thân vệ quân đông cung có hơn 3 vạn người đóng ở Đông Hoa môn, đồng thời mệnh bốn người hộ vệ giam giữ Thủ Thuần lại. Sau đó ông cho tuyên di chiếu, tức vị trước cữu tiền, tức là Kim Ai Tông , cải nguyên là Chánh Đại.

Lúc đó quân Mông Cổ đã tiến rất gần kinh đô nước Hạ. Thiết Mộc Chân bỗng lâm bệnh nặng, sai sứ trách cứ và đòi Hạ chủ gửi con tin để giảng hòa, Hạ chủ không theo. Mông chủ tức giận, dù ốm vẫn gượng dậy đốc chiến, người Hạ đại bại. Hạ chủ thế cùng lực kiệt phải dâng đất xin hàng. Triều Hạ từ Cảnh Tông Lý Nguyên Hạo đến Hậu chủ Lý Hiện là hơn 200 năm, cùng với Tống - Kim (trước đó là Liêu) ba nước hình thành thế chân vạc, kềm kẹp lẫn nhau, đến đó thì bị diệt vong. Quân Mông Cổ bắt vô số thiếu nữ và vàng bạc châu báu đem về nước. Nhưng không may Mông chủ Thiết Mộc Chân vốn đã mang bệnh, đến tháng 8 năm này thì bệnh tình trở nặng rồi qua đời ở Lục Bàn Sơn, thọ 66 tuổi, truy miếu hiệu là Thái Tổ. Trước lúc lâm chung Thái Tổ nói với tả, hữu :Tinh binh của Kim ở Đồng Quan, phía nam hùng cứ Liên Sơn, phía bắc nắm giữ Đại Hà, thế rất khó phá. Nhưng có thể mượn đường nước Tống; Tống với Kim vốn là thù địch lâu năm, tất sẽ bằng lòng. Lúc đó đem binh đến Đường Đặng thẳng tiến vào Đại Lương thì Kim nguy cấp. Khi đó Kim tất trưng binh ở Đồng Quan, dù có hơn vạn người nhưng bốn nẻo đã bị ta chiếm mà lòng quân của chúng dao động, không chiến cũng đánh bại được. Lúc đó thì không còn lo nước Kim không mất.. Ai Tông thất kinh, triệu chư tướng vào triều bàn việc phòng thủ, rồi chia quân đóng đồn ở Tương, Đặng: Hoàn Nhan Hợp Đạt và Y Lý Bố Cáp đóng ở Đặng châu, Hoàn Nhan Di, Dương Ốc Diễn, Trần Hòa Thượng dẫn quân hội hợp ở Thuận Dương. Quân Mông Cổ nhanh chóng vượt Hán Giang, quân của Hoàn Nhan Hợp Đạt bị thua trận, nhưng may thay có bộ tướng Bồ Sát Đình Trụ liều chết chống địch nên quân Mông phải rút lui. Ai Tông cử Hoàn Nhan Hợp Đạt, Y Lý Bố Cáp từ Đặng châu đưa quân cứu việc kinh thành, nhưng lại gặp Đà Lôi cùng 3000 quân kị đánh từ phía sau, lại có thêm mưa to tuyết lớn khiến cánh quân Đặng châu không thể tiến nhanh về kinh thành. Đến lúc tuyết tan, Hợp Đạt mới cho quân tiến nhanh hơn. Nhưng khi quân cứu viện vừa đến núi Tam Phong thì quân Mông Cổ từ đâu ùa tới chặn đánh, bao vây quân Kim suốt ba ngày, quân Kim đại bại. Các tướng Kim Dương Ốc Diễn, Phàn Trạch, Trương Huệ tử trận, Hoàn Nhan Hợp Đạt bỏ chạy về Quân châu, sau đó tiến chiếm Biện Kinh. Các thành trì khác của Kim cũng lần lượt hàng Mông.

Nội loạn và nam thiên

Ai Tông bị Bồ Sát Quan Nô cấm cố lấy làm phẫn nộ, liền liên hệ với nội thị Tống Khuê, Phụng ngự nữ Hề Liệt Hoàn Xuất, Ô Cổ Tôn Ái Thực cùng nhau diệt tặc và chuyển đến Thái châu. Lúc đó Thái, Trần, Tức, Dĩnh đẳng châu tiện nghi tổng soái Ô Khố Lý Hạo vận chuyển 400 đấu mì đến Quy Đức cũng khuyên Ai Tông về nam. Tháng 6 ÂL năm đó, Bồ Sát Quan Nô từ Bạch châu về Quy Đức can ngăn không cho Ai Tông về nam, lại nói với bộ chúng :Ai còn bàn chuyện nam thiên thì sẽ chém.

Ai Tông tức giận, cùng bọn Tống Khuê lập mưu vờ triệu tể tướng nghị sự và cử Ôn Xước, Ái Thực mai phục sẵn trong Chiếu Bích đường, khi Quan Nô vào cung thì bị đâm chết tức thì. Ai Tông hạ lệnh vỗ về Trung Hiếu quân của Bồ Sát Quan Nô, để nguyên soái Vương Bích trấn giữ Quy Đức, còn mình lui về Thái châu vào cung để truyền ngôi. Thừa Lân khóc không dám nhận, Ai Tông nói

:Trẫm sở dĩ đem ngôi báu nhường cho khanh là vì vạn bất đắc dĩ. Trẫm thì cơ thể béo đẫy chả ngựa nào chịu nổi, còn khanh tài giỏi thao lược, nếu vạn nhất mà thoát được thì tông miếu giữ được, đó chính là ý của trẫm.

Sáng hôm sau, Hoàn Nhan Thừa Lân lên ngôi, tức là Kim Mạt Đế. Vừa lúc đó quân Tống đánh vào thành nam. Hoàn Nhan Hốt Tà Hổ cùng khoảng 1000 quân ra nghênh chiến, quân lính bị thương vong gần hết. Vua Kim tuyệt vọng liền lui về Lan Hiên tự vẫn. Năm đó Kim ông được 37 tuổi, giữ ngôi 11 năm. Hoàn Nhan Hốt Tà Hổ được tin, nói với tướng sĩ :Chúa thượng đã băng, ta còn chiến đấu vì cái gì nữa. Nhưng ta có chết cũng phải chết rõ ràng không chết trong loạn binh. Nay ta đi theo chủ thượng, các ông hãy tự mà lo liệu lấy.

Nói xong nhảy xuống nước tự tận. Quân sĩ đều đồng thanh :Tướng công tuẫn quốc, chúng tôi lẽ nào còn tham sống

Rồi hơn 500 người cùng nhau tuẫn tiết. Hoàn Nhan Thừa Lân lui về giữ Tử Thành, nghe tin Ai Tông tồ, khóc than một hồi rồi nói :Tiên đế ở ngôi 10 năm, cần kiệm khoan nhân, có chí khôi phục nghiệp cũ, nhưng chí chưa thành mà đã mất, thực là ai oán, nên truy trụy là Ai.

Lễ tôn thụy vừa xong thì liên quân đánh vào, Hoàn Nhan Thừa Lân chết trong loạn quân. Hoàn Nhan Phong Sơn theo di chiếu đã cho hỏa thiêu di hài Kim chủ. Tướng Tống Giang Hải vào cung bắt được tham chính Trương Thiên Cương. Mạnh Củng vào hỏi nơi ở của Ai Tông thì mới biết Ai Tông đã chết. Mạnh Củng cho quân dập lửa và nhìn thấy thi hài khô đét của Kim chủ. Rồi cùng Tháp Sát Nhi đem hài cốt Ai Tông và vàng bạc châu báu của Kim chia làm hai, mỗi bên lấy một, lấy tây bắc Trần Thái làm ranh giới, bắc thuộc Mông, nam thuộc Tống. Nước Kim diệt vong. Tháng 4 ÂL, Trương Thiên Cương cùng phần thi hài Ai Tông bị đưa về Tống. Tri Lâm An phủ Tiết Quỳnh vấn tội Thiên Cương, Thiên Cương tỏ ra bất khuất và hỏi vặn việc triều Tống mất nhị đế khi trước. Quần thần nước Tống ép Thiên Cương viết tờ biểu thú tội, coi Ai Tông như một chủ rợ, Thiên Cương không nghe và ghi và hộp đứng hài cốt bốn chữ cố chủ tuẫn quốc. Thi hài Ai Tông bị đưa vào kho ngục Đại lý tự. Nước Kim từ Thái Tổ A Cốt Đả đến Ai Tông là được gần 120 năm, trải 6 đời, truyền 9 chủ.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Kim Ai Tông ** (chữ Hán: 金哀宗, bính âm: **_Jin Aizong_**, 25 tháng 9 năm 1198 - 9 tháng 2 năm 1234), tên Hán là **Hoàn Nhan Thủ Lễ** (完顏守禮) hay **Hoàn Nhan Thủ Tự**
**Kim Tuyên Tông** (chữ Hán: 金宣宗, 18 tháng 4 năm 1163 - 14 tháng 1 năm 1224), tên thật là **Hoàn Nhan Ngô Đô Bổ** (完顏吾睹補), **Hoàn Nhan Tùng Gia** (完颜從嘉), **Hoàn Nhan Tuân** (完颜珣),
**Kim Thế Tông** (chữ Hán: 金世宗; 1123 – 1189), tên thật là **Hoàn Nhan Ô Lộc**, tên khác là **Hoàn Nhan Ung**, là vị hoàng đế thứ năm của nhà Kim trong lịch sử Trung
**Kim Hi Tông** (chữ Hán: 金熙宗) là một hoàng đế nhà Kim trong lịch sử Trung Hoa. Tên thật của ông là **Hoàn Nhan Đản** hay **Hoàn Nhan Hợp Lạt**. Ông trị vị từ năm
**Ai Tông** (chữ Hán: 哀宗) là miếu hiệu của một số vị quân chủ. ## Danh sách *Đường Ai Tông (có miếu hiệu khác là Cảnh Tông) *Kim Ai Tông (có miếu hiệu khác là
**Tống Lý Tông** (chữ Hán: 宋理宗, 26 tháng 1 năm 1205 - 16 tháng 11 năm 1264), thụy hiệu đầy đủ **Kiến Đạo Bị Đức Đại Công Phục Hưng Liệt Văn Nhân Vũ Thánh Minh
**Mông Cổ chinh phạt nhà Kim** (chữ Hán: 蒙古罰金; phiên âm: _Mông Cổ phạt Kim_), hay **Chiến tranh Mông–Kim** (chữ Hán: 蒙金戰爭; phiên âm: _Mông-Kim chiến tranh_), là cuộc xâm lược toàn diện của người
**Kim Mạt Đế** (chữ Hán: 金末帝; ?-1234), tên thật là **Hoàn Nhan Thừa Lân** (完顏承麟), là hoàng đế thứ 10 và là vị vua cuối cùng của nhà Kim trong lịch sử Trung Quốc. Ông
**Nhà Kim** (, tiếng Nữ Chân: Tập tin:Amba-an Ancu-un.svg 1115-1234) là một triều đại do người Nữ Chân gây dựng trong lịch sử Trung Quốc. Người Nữ Chân nguyên là phiên thuộc của triều Liêu,
**Chiến tranh Kim–Tống (1217–1223)** hay **Kim quân tam đạo công Tống chi chiến** (金军三道攻宋之战) là một loạt những cuộc giao tranh giữa quân đội hai nước Kim và Nam Tống kéo dài trong suốt sáu
**Kim Thái Tông** (_chữ Hán_:金太宗) có thể là những vị quân chủ nhà Kim sau: ## Danh sách #Kim Thái Tông Hoàn Nhan Thịnh, vị Hoàng đế thứ hai của nhà Kim #Kim Thái Tông
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Kim Jong-un** (; sinh ngày 8 tháng 1 năm 1982) là một chính trị gia người Bắc Triều Tiên, Lãnh đạo tối cao Đảng Lao động Triều Tiên và là Chủ tịch Quân ủy Trung
nhỏ|300x300px|Bản đồ miêu tả chiến tranh Kim–Tống **Chiến tranh Kim – Tống** là một loạt các cuộc xung đột giữa nhà Kim (1115–1234) của người Nữ Chân và nhà Tống (960–1279) của người Hán. Năm
**Minh Tư Tông** (chữ Hán: 明思宗; 6 tháng 2 năm 1611 - 25 tháng 4 năm 1644) tức **Sùng Trinh Đế** (崇禎帝), là vị hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà Minh và cũng
**Tống Cao Tông** (chữ Hán: 宋高宗, 12 tháng 6 năm 1107 - 9 tháng 11 năm 1187), tên húy là **Triệu Cấu** (chữ Hán: 趙構), tên tự là **Đức Cơ** (德基), là vị Hoàng đế
**Tống Hiếu Tông** (chữ Hán: 宋孝宗, 27 tháng 11 năm 1127 – 28 tháng 6 năm 1194), tên thật là **Triệu Bá Tông** (趙伯琮), **Triệu Viện** (趙瑗), **Triệu Vĩ** (趙瑋) hay **Triệu Thận** (趙昚), tên
nhỏ|phải|[[John Adams, Phó Tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên]] **Phó Tổng thống Hoa Kỳ** (_Vice President of the United States_) là một người giữ chức vụ công do Hiến pháp Hoa Kỳ tạo ra. Phó
**Tông Trạch** (chữ Hán: 宗泽, 1060 – 1128), tên tự là **Nhữ Lâm**, người Nghĩa Ô, Chiết Giang, nhà chính trị, nhà quân sự kiệt xuất trong cuộc đấu tranh kháng Kim cuối Bắc Tống,
**Từ Văn** (chữ Hán: 徐文, ? – ?), tự Ngạn Vũ, xước hiệu _Từ đại đao_, ban đầu có hộ tịch ở huyện Dịch, phủ Lai Châu , sau đó dời nhà sang huyện Giao
**Nhà Tống** là hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 960 đến năm 1279. Triều đại này được sáng lập bởi Tống Thái Tổ sau khi ông soán ngôi Hoàng đế Hậu Chu rồi
**Tống Ninh Tông** (chữ Hán: 宋寧宗, 18 tháng 11, 1168 - 18 tháng 9, 1224), thụy hiệu đầy đủ là ** Pháp Thiên Bị Đạo Thuần Đức Mậu Công Nhân Văn Triết Vũ Thánh Duệ
**Chiến tranh Kim-Tống (1206-1208)** hay **Khai Hi bắc phạt** là một phần của cuộc chiến chiến tranh Tống - Kim, kéo dài 3 năm từ 1206 đến 1208, do triều Tống phát động, tấn công
**Trương Giác** (chữ Hán: 張覺, ? – 1123) có sách chép là **Trương Giản** (張鐧) hay **Trương Thương** (張倉) , người Nghĩa Phong, Bình Châu , vốn là tiến sĩ nhà Liêu, đầu hàng nhà
**Minh Đạt Hoàng hậu** (chữ Hán: 明達皇后; 1086 - 1113), hay **Tống Huy Tông Lưu Quý phi** (宋徽宗劉貴妃), là một phi tần rất được sủng ái của Tống Huy Tông Triệu Cát. Dưới thời nhà
**Trận Thái Châu** (蔡州之战, Thái Châu chi chiến) là cuộc tấn công của liên quân Mông Cổ – Nam Tống nhằm vào Thái Châu , cứ điểm cuối cùng của nhà Kim, diễn ra từ
**Hoàn Nhan Lâu Thất** (chữ Hán: 完颜娄室) trong chánh sử có ba người, đều là thành viên thị tộc Hoàn Nhan, dân tộc Nữ Chân, tướng lãnh cuối triều Kim, được phân biệt dựa vào
**Ai Cập** ( , , ), tên chính thức là nước **Cộng hòa Ả Rập Ai Cập**, là một quốc gia liên lục địa có phần lớn lãnh thổ nằm tại Bắc Phi, cùng với
**Trương Tuấn** (chữ Hán: 張浚, 1097 – 1164), tên tự là **Đức Viễn**, hiệu là **Tử Nham cư sĩ**, người Miên Trúc, Hán Châu , là Ngụy Trung Hiến công, tể tướng nhà Nam Tống,
**Mẫn Ai Vương** (mất 839, trị vì 838–839) là quốc vương thứ 44 của Tân La. Ông là chắt của Nguyên Thánh Vương, và là con trai của _đại a xan_ Kim Trung Công (_Kim
**_Kim Bình Mai từ thoại_** (金瓶梅詞話), thường được biết đến tới tên gọi **_Kim Bình Mai_** (金瓶梅), là một bộ tiểu thuyết chương hồi được Lan Lăng Tiếu Tiếu Sinh sáng tác vào thời nhà
nhỏ|[[Muhammad Ali của Ai Cập|Muhammad Ali Pasha]] **Lịch sử Ai Cập dưới triều đại Muhammad Ali Pasha** (1805 - 1953) là một thời kỳ cải cách và hiện đại hóa nhanh chóng, khiến Ai Cập
**Đại Kim tự tháp Giza** là Kim tự tháp Ai Cập lớn nhất và là lăng mộ của Vương triều thứ Tư của pha-ra-ông Khufu. Được xây dựng vào đầu thế kỷ 26 trước Công
**Võ Tòng** (chữ Hán: 武松; bính âm: _Wǔ Sōng,_ **Võ Tùng** hay **Vũ Tùng**), ngoại hiệu _Hành giả_, là một nhân vật trong tiểu thuyết _Thủy hử_. Võ Tòng cũng xuất hiện trong _Kim Bình
**Mạnh Củng** (chữ Hán: 孟珙, 1195 - 1246), tự **Phác Ngọc**, nguyên quán Giáng Châu , anh hùng dân tộc Trung Quốc, danh tướng diệt Kim kháng Mông nhà Nam Tống. ## Thời trẻ Mạnh
**Quân Mông Cổ bao vây Khai Phong** từ năm 1232 đến năm 1233, kết quả là chiếm được Biện Kinh của triều Kim. Người Mông Cổ và Kim khi đó đã giao chiến trong gần
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
thumb|[[Tượng Nhân sư lớn và Quần thể kim tự tháp Giza là những biểu tượng nổi bật nhất của nền văn minh Ai Cập cổ đại]] **Ai Cập cổ đại** là một nền văn minh
nhỏ|phải|"Nhà giả kim Renel", bởi Sir William Douglas, 1853 nhỏ|Nhà giả kim, bản khắc đồng năm 1558 của [[Pieter Bruegel il Vecchio]] **Giả kim thuật** (tiếng Anh: Alchemy) còn được gọi là **Luyện kim thuật**
**Tống Nhân Tông** (chữ Hán: 宋仁宗, 12 tháng 5, 1010 - 30 tháng 4, 1063), tên húy **Triệu Trinh** (趙禎), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Hoàn Nhan Di** (chữ Hán: 完顏彝, 1192 – 1232), tự Lương Tá, tên Nữ Chân là **Trần Hòa Thượng** (陈和尚), người Phong Châu , tướng lãnh kháng Mông cuối đời Kim. Vì ông quen dùng
**Trần Trọng Kim** (chữ Hán: 陳仲金; 1883 – 1953) là một học giả, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu sử học, văn học, tôn giáo Việt Nam, bút hiệu **Lệ Thần**, từng làm thủ tướng
**Kim sử** (chữ Hán: 金史) là một bộ sách lịch sử trong 24 bộ sách sử của Trung Quốc (Nhị thập tứ sử), do Thoát Thoát biên soạn năm 1345. Tổng cộng có 135 quyển
**Tống Thái Tổ** (chữ Hán: 宋太祖, 21 tháng 3, 927 - 14 tháng 11, 976), tên thật là **Triệu Khuông Dận** (趙匡胤, đôi khi viết là **Triệu Khuông Dẫn**), tự **Nguyên Lãng** (元朗), là vị
**Trương Tuấn** (chữ Hán: 張俊, 1086 - 1154), tên tự là **Bá Anh** (伯英), nguyên quán ở Thành Kỉ, phủ Phượng Tường, là tướng lĩnh dưới thời Bắc Tống và Nam Tống trong lịch sử
**Đường Thái Tông** (chữ Hán: 唐太宗, 28 tháng 1 năm 598 – 10 tháng 7 năm 649), tên thật **Lý Thế Dân** (李世民), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Đường trong
**Tống Chân Tông** (chữ Hán: 宋真宗, 23 tháng 12 năm 968 - 23 tháng 3 năm 1022), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Trần Đông** (chữ Hán: 陈东, 1086 – 1127), tự Thiếu Dương, người Đan Dương, Trấn Giang , nhân vật yêu nước cuối đời Bắc Tống. Ông là người lãnh đạo phong trào vận động của
**Hiển Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 顯仁皇后, 1080 - 1159), còn gọi là **Vi Hiền phi** (韋賢妃), là một phi tần của Tống Huy Tông Triệu Cát và là sinh mẫu của Tống Cao Tông
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Lepsius-Expedition-Cheops-Pyramide.jpg|nhỏ|300x300px|Các thành viên của đoàn thám hiểm người Phổ đến Ai Cập kỷ niệm ngày sinh của Hoàng đế [[Friedrich Wilhelm IV của Phổ|Frederick William IV trên đỉnh Đại kim tự tháp Giza]] **Danh sách