Bàn Khuê Vĩnh Trác (盤珪永琢, ja. bankei yōtaku (eitaku)), 1622–1693, cũng được gọi là Bàn Khuê Quốc sư (zh. 盤珪國師, ja. bankei kokushi), là một vị Thiền sư Nhật Bản, thuộc tông Lâm Tế, hệ phái Diệu Tâm tự (妙心寺, ja. myōshin-ji). Sư là một trong những Thiền sư danh tiếng nhất trong lịch sử Phật giáo Nhật Bản với tư cách là người đã phổ biến thiền học đến lớp quần chúng.
Cơ duyên
Sư sinh trưởng trong một gia đình theo Nho giáo, sinh sống bằng nghề y học Trung Quốc. Sư mất cha năm lên mười và một năm sau đó, Sư được gửi vào trường học. Một hôm, nhân lúc đọc quyển Đại học (大學, ja. daigaku) – một trong bốn quyển sách chính (Tứ thư) của Nho giáo – đến câu "Đại học làm sáng tỏ minh đức", Sư hỏi thầy: "Minh đức (zh. 明德, ja. meitoku) là gì?" Thầy trả lời: "Minh đức là tính tốt tự nhiên có sẵn của mỗi người". Sư hỏi đi hỏi lại nhiều lần nhưng những câu trả lời của vị thầy này không làm thoả mãn nỗi thắc mắc của Sư. Cuối cùng, Sư tìm học ở các vị Thiền sư để tìm câu giải đáp.
Đến Thiền sư Vân Phủ Toàn Tường (zh. 雲甫全祥, ja. umpō zenjō, 1568-1653), Sư được hướng dẫn vào phương pháp toạ thiền (坐禪, ja. zazen) và có ngộ nhập nơi đây. Vân Phủ khuyên Sư đến các vị Thiền sư khác để trắc nghiệm sự giác ngộ của mình. Sư vâng lời thầy yết kiến nhiều Thiền sư nhưng không ai có thể ấn chứng cho Sư. Nhân nghe danh một vị Thiền sư Trung Quốc là Đạo Giả Siêu Nguyên (zh. dàozhě chāoyuán 道者超元, ja. dōsha chōgen) – một vị Thiền sư hoằng hoá đồng thời với Ẩn Nguyên Long Kì – đang trụ trì tại Sùng Phúc tự (崇福寺, ja. sōfukuji), Sư đến tham học và được vị này ấn khả.
Cơ phong hoằng hoá
Vì thấy rằng rất ít người hiểu được những lời thuyết pháp của mình nên Sư ẩn cư nhiều năm trước khi nhập thế hoằng hoá. Môn đệ của Sư sau này có đến cả ngàn người, xuất xứ từ mọi tầng cấp xã hội. Hầu hết tất cả những bài thuyết pháp của Sư đều xoay quanh hai chữ "Bất sinh" (zh. 不生, sa. anutpāda, ja. fushō), "Tâm bất sinh" những danh từ được Sư giảng nghĩa tường tận. Mặc dù Sư nghiêm cấm các đệ tử ghi chép lại pháp ngữ của mình nhưng các bài thuyết pháp của Sư vẫn còn được lưu lại.
:Một cư sĩ trình: "Con chẳng nghi ngờ rằng trong bản tâm không có vọng niệm; nhưng con không tìm thấy sự gián đoạn giữa hai niệm. Con không thể nào trụ trong cõi bất sinh."
:Sư dạy: "Ngươi ra đời với chẳng cái nào khác ngoài Phật tâm bất sinh. Chỉ từ khi ngươi trưởng thành, nghe và thấy những người khác hành động trong trạng thái vô minh của họ, ngươi cũng dần dần bước theo vào cõi vô minh.... Theo năm tháng, cái vô minh của ngươi đã chiếm đoạt tất cả. Nhưng không một vọng niệm nào đã tự có sẵn. Vọng niệm tự chấm dứt trong tâm đã tự chứng được sự bất sinh..."
:Một vị tăng hỏi: "Con không thể nào khắc phục được những vọng niệm trong tâm. Vậy con nên làm gì?"
:Sư đáp: "Ý nghĩ 'phải khắc phục những vọng niệm' cũng là một vọng niệm. Không một ý nghĩ nào đã có từ đầu. Chỉ vì ngươi khởi tâm phân biệt nên chúng mới xuất hiện."
Năm 1672, Sư được Vương triều mời trụ trì Diệu Tâm tự tại Kinh Đô (ja. kyōto). Nhờ kinh nghiệm giác ngộ thâm sâu và tài thuyết pháp xuất chúng của Sư – đặc biệt là lối thuyết pháp theo ngôn ngữ của người bình dân, dễ hiểu, dễ thâm nhập – nên tông Lâm Tế tại Nhật lại phất lên như một ngọn lửa sau một thời gian chết cứng trong các sắc thái bề ngoài. Về mặt này thì Sư chính là vị dẫn đường cho một vị Thiền sư Nhật xuất chúng sau này là Bạch Ẩn Huệ Hạc (zh. 白隱慧鶴, ja. hakuin ekaku) – sinh sau Sư 61 năm. Mặc dù môn đệ của Sư rất đông nhưng Sư chỉ ấn khả ít người. Ba năm trước khi viên tịch, Sư được Nhật hoàng phong danh hiệu Phật Trí Hoằng Tế Thiền sư (zh. 佛智弘濟禪師, ja. butchi kōsai zenji).
Trước khi quy tịch, các đệ tử thỉnh Sư viết kệ. Sư bảo: "Ta sống 72 năm. 45 năm ta đã giáo hoá chúng. Tất cả những gì ta thuyết trong thời gian này là kệ lưu niệm của ta. Ta sẽ không làm một bài kệ khác nữa chỉ vì tất cả những người khác làm." Nói xong, Sư ngồi kết già thị tịch. Năm 1740, 47 năm sau khi Sư tịch, Nhật hoàng lại phong danh hiệu khác là Đại Pháp Chính Nhãn Quốc sư (大法正眼國師, ja. daihō shōgen kokushi).
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Bàn Khuê Vĩnh Trác** (盤珪永琢, ja. _bankei yōtaku_ (_eitaku_)), 1622–1693, cũng được gọi là **Bàn Khuê Quốc sư** (zh. 盤珪國師, ja. _bankei kokushi_), là một vị Thiền sư Nhật Bản, thuộc tông Lâm Tế, hệ
**Lâm Tế tông** (zh. _línjì-zōng/lin-chi tsung_ 臨濟宗, ja. _rinzai-shū_) là một dòng thiền được liệt vào Ngũ gia thất tông—tức là Thiền chính phái—do Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền sáng lập. Đây là tông
thumb|Biểu tượng thường dùng cho người khuyết tật **Người khuyết tật** là người **khiếm khuyết** về mà vì thế gây ra **suy giảm đáng kể** và **lâu dài** đến khả năng thực hiện các hoạt
**Nhĩ Chu Vinh** (, 493 -530), tên tự là **Thiên Bảo** (天寶), người Bắc Tú Dung, là tướng lĩnh, quyền thần nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Ông là
**Lý Vinh Bảo** (chữ Hán: 李荣保, ; 1674 - 1723) là một đại thần nhà Thanh dưới thời Khang Hi và Ung Chính trong lịch sử Trung Quốc. Ông là phụ thân của Hiếu Hiền
**_Thanh sử cảo_** (清史稿) là bản thảo một bộ tư liệu lịch sử về thời nhà Thanh, bắt đầu từ khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích (hay Thanh Thái Tổ) lập ra nhà Thanh vào năm
**Tống sử** (chữ Hán: 宋史) là một bộ sách lịch sử trong Nhị thập tứ sử của Trung Hoa. Sách này kể lịch sử thời nhà Tống, tức là Bắc Tống và Nam Tống; được
**Kim sử** (chữ Hán: 金史) là một bộ sách lịch sử trong 24 bộ sách sử của Trung Quốc (Nhị thập tứ sử), do Thoát Thoát biên soạn năm 1345. Tổng cộng có 135 quyển
**Anh hùng xạ điêu** là phần mở đầu trong bộ tiểu thuyết võ hiệp Xạ điêu tam bộ khúc của nhà văn Kim Dung. Trong truyện có nhiều nhân vật có tiểu sử riêng. Dưới
Bản bằng [[tre thời Càn Long.]] **_Tôn Tử binh pháp_** hay _Binh pháp Ngô Tôn Tử_ là sách chiến lược chiến thuật chữ Hán do Tôn Vũ soạn thảo vào năm 512 TCN thời Xuân
**Thập Quốc Xuân Thu** () là một sách sử theo thể kỷ truyện do Ngô Nhâm Thần (吳任臣) thời nhà Thanh biên soạn. Bộ sách có tổng cộng 114 quyển Bộ sách hoàn thành vào
**Lã Bố** (chữ Hán: 呂布; bính âm: Lǚ Bù) (? - 7 tháng 2 năm 199), hay còn được gọi là **Lữ Bố** hoặc **Phụng Tiên** (tên tự), là một viên mãnh tướng nổi tiếng
Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa **Thời Tam Quốc** là một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc với nhiều nhân vật trong lịch sử, nó cũng là thời đại tạo nguồn cảm hứng cho
**_Trung nghĩa Thủy hử truyện_** (忠義水滸傳), thường được biết đến tới tên gọi **_Thủy hử truyện_** (水滸傳), là một bộ tiểu thuyết chương hồi được sáng tác thời cuối Nguyên đầu Minh. Tác giả của
**Tào Tháo** (; ; (155– 15 tháng 3 năm 220), biểu tự **Mạnh Đức** (孟德), tiểu tự **A Man** (阿瞞) là nhà chính trị, nhà quân sự và còn là một nhà thơ nổi tiếng
**Hán Hiến Đế** (Giản thể: 汉献帝; phồn thể: 漢獻帝; 2 tháng 4 năm 181 - 21 tháng 4 năm 234), tên thật là **Lưu Hiệp** (劉協), tự là **Bá Hòa** (伯和), là vị Hoàng đế
Đây là danh sách tất cả các huyện (trong đó có cả các huyện tự trị, các kỳ và các kỳ tự trị) cùng với các thành phố cấp huyện () và các quận ()
**Linh Tư Hà hoàng hậu** (chữ Hán: 靈思何皇后, ? - 30 tháng 9 năm 189), còn gọi **Đông Hán Hà thái hậu** (東漢何太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Linh Đế Lưu Hoằng, sinh
thumb|Hậu cung ở Trung Á **Phi tần** (chữ Hán: _妃嬪_, tiếng Anh: _Imperial consort_ / _Royal concubine_), **Thứ phi** (_次妃_), **Tần ngự** (_嬪御_) hoặc **Cung nhân** (_宮人_), là những tên gọi chung cho nàng hầu
**Lịch sử của Giáo hội Công giáo Việt Nam từ năm 1975 đến năm 1990** có nhiều điểm đặc thù riêng. Đây là giai đoạn 15 năm thứ hai kể từ khi thiết lập hàng
**Dịch Khuông** (; ; 24 tháng 3 năm 1838 – 28 tháng 1 năm 1917) là một Thân vương có sức ảnh hưởng lớn vào cuối thời nhà Thanh. Ông là người đầu tiên nhậm
**Nhà Kim** (, tiếng Nữ Chân: Tập tin:Amba-an Ancu-un.svg 1115-1234) là một triều đại do người Nữ Chân gây dựng trong lịch sử Trung Quốc. Người Nữ Chân nguyên là phiên thuộc của triều Liêu,
**Cựu Ngũ Đại sử** (chữ Hán: 旧五代史) là một sách lịch sử theo thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ sử_) do Tiết Cư Chính thời Bắc Tống viết
Vở BÊN CẦU DỆT LỤA được soạn giả THẾ CHÂU viết cho sân khấu THANH MINH - THANH NGA vào khoảng năm 1976. VỚI SỰ THAM GIA CỦA CÁC DIỄN VIÊN SÂN KHẤU NAM BỘ
**Cựu Đường thư** (tiếng Trung phồn thể: 舊唐書, giản thể: 旧唐书; bính âm: Jiù táng shū) là bộ sách lịch sử nằm trong 24 bộ chính sử Trung Quốc do sử quan Lưu Hú triều
**Chúa Trịnh** (chữ Nôm: 主鄭, chữ Hán: 鄭王 / **Trịnh vương**; 1545 – 1787) là một vương tộc phong kiến kiểm soát quyền lực lãnh thổ Đàng Ngoài suốt thời Lê Trung hưng. Về danh
Một buổi hội diễn ca trù: bà Phó Thị Kim Đức - ca nương hát chính gõ phách, kép bên tay phải chơi đàn đáy, quan viên bên trái đánh trống chầu **Ca trù** (chữ
**Anh Hòa** (chữ Hán: 英和, 1771 - 1840), ban đầu tên **Thạch Đồng** (石桐), tự Thụ Cầm (樹琴), Hú Trai (煦斋), hiệu Định Phố (定圃), Mộng Thiện Cư sĩ (梦禅居士), Chức Tẩu (脀叟), biệt hiệu
**Tống Nhân Tông** (chữ Hán: 宋仁宗, 12 tháng 5, 1010 - 30 tháng 4, 1063), tên húy **Triệu Trinh** (趙禎), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Nhà Mạc** (chữ Hán: 莫朝 / Mạc triều) là triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Mạc Đăng Dung, sau khi dẹp được các bè phái trong cung đình, đã
**Tống Thái Tông** (chữ Hán: 宋太宗, 20 tháng 11 năm 939 - 8 tháng 5 năm 997), tên húy **Triệu Quýnh** (趙炅), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Tống trong lịch
**Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝賢纯皇后, ; 28 tháng 3, năm 1712 - 8 tháng 4, năm 1748), là nguyên phối Hoàng hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Xuất thân vọng
nhỏ|trái|Bản đồ hành chính quận Cẩm Lệ **Cẩm Lệ** là một quận nội thành cũ thuộc thành phố Đà Nẵng, Việt Nam. ## Địa lý Quận Cẩm Lệ nằm ở phía tây nam nội thành
**Ngũ đại Thập quốc** (, 907-979) là một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ khi triều Đường diệt vong, kéo dài đến khi triều Tống thống nhất Trung Quốc bản thổ.
Hoa phượng đỏ, biểu tượng của người Hải Phòng Dưới đây là **danh sách những nhân vật tiêu biểu** là những người đã sinh ra tại Hải Phòng, có quê quán (nguyên quán) ở Hải
**Dịch Hân** (, ; 11 tháng 1 năm 1833 – 29 tháng 5 năm 1898), Ái Tân Giác La, hiệu **Nhạc đạo Đường Chủ nhân** (乐道堂主人), là một trong 12 Thiết mạo tử vương và
**Trần** () là một họ người Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Việt Nam, Hàn Quốc, Singapore và một số nơi khác trên thế giới. Họ Trần là họ phổ biến nhất tại miền Nam
**Trịnh Doanh** (chữ Hán: 鄭楹, 4 tháng 12 năm 1720 – 12 tháng 5 năm 1767), thụy hiệu **Nghị Tổ Ân vương** (毅祖恩王), là vị chúa Trịnh thứ 7 thời Lê Trung hưng trong lịch
nhỏ|phải|Chữ Doãn. **Doãn** là một họ của người ở vùng Văn hóa Đông Á, phổ biến ở Việt Nam, Trung Quốc (chữ Hán: 尹, Bính âm: Yin) và Triều Tiên (Hangul: 윤, Romaja quốc ngữ:
**Hồng lâu mộng** () là bộ phim truyền hình do Đài truyền hình trung ương Trung Quốc sản xuất căn cứ vào tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Tào Tuyết Cần, khởi quay năm
**Văn Cao** (tên khai sinh là **Nguyễn Văn Cao**, 15 tháng 11 năm 1923 – 10 tháng 7 năm 1995) là một nhạc sĩ, họa sĩ, nhà thơ, chiến sĩ biệt động ái quốc người
**Dương Quý phi** (chữ Hán: 楊貴妃, 719 – 756), còn gọi là **Dương Ngọc Hoàn** (楊玉環) hay **Dương Thái Chân** (楊太真), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Huyền Tông Lý Long
**Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam** (tiếng Anh: _Vietnam Women's Union_, viết tắt: **_VWU_**) là một tổ chức chính trị, xã hội của phụ nữ Việt Nam, mục đích hoạt động vì sự bình
**Đoàn Thanh niên Cộng sản Trung Quốc** (), thường được gọi tắt **Cộng Thanh Đoàn** (共青团) là tổ chức thanh niên cộng sản do Đảng Cộng sản Trung Quốc thành lập và lãnh đạo. Điều
**Nguyễn Tông Quai** (阮宗乖; trước đây có sách viết là **Nguyễn Tông Khuê** 阮宗奎, 1692 – 2 tháng 4 năm 1767),, hiệu **Thư Hiên** (舒翰); là nhà giáo, nhà thơ và là đại quan nhà
**Đào Khản** (chữ Hán: 陶侃, 259 – 334), tự **Sĩ Hành**, người Bà Dương hay Tầm Dương, là danh tướng nhà Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Thiếu thời Cha của Đào Khản
**Gương mặt Thương hiệu 2016** (Tiếng Anh: The Face Vietnam) là một chương trình truyền hình thực tế tìm kiếm người mẫu tại Việt Nam, dựa trên format gốc của chương trình The Face phiên
**Thanh Văn Tông** (chữ Hán: 清文宗; 17 tháng 7 năm 1831 – 22 tháng 8 năm 1861), Tây Tạng tôn vị **Văn Thù Hoàng đế** (文殊皇帝), là vị Hoàng đế thứ 9 của triều đại
**Tản Đà** (chữ Hán: 傘沱, 19 tháng 5 năm 1889 - 7 tháng 6 năm 1939) tên thật **Nguyễn Khắc Hiếu** (阮克孝), là một nhà thơ, nhà văn và nhà viết kịch nổi tiếng của
**_Ai là triệu phú_** là một chương trình trò chơi truyền hình do Đài Truyền hình Việt Nam sản xuất, dựa trên phiên bản gốc _Who Wants to Be a Millionaire?_ (tạm dịch tiếng Việt: