✨Văn Cao

Văn Cao

Văn Cao (tên khai sinh là Nguyễn Văn Cao, 15 tháng 11 năm 1923 – 10 tháng 7 năm 1995) là một nhạc sĩ, họa sĩ, nhà thơ, chiến sĩ biệt động ái quốc người Việt Nam. Ông là tác giả của ca khúc Tiến quân ca, quốc ca chính thức của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sau đó là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông cũng là một trong những nhạc sĩ có sức ảnh hưởng lớn nhất của nền Tân nhạc Việt Nam. Ông được giới chuyên môn và công chúng yêu nhạc đánh giá một cách rộng rãi là một trong ba nhạc sĩ nổi bật nhất của nền âm nhạc hiện đại Việt Nam trong thế kỷ XX, cùng với Phạm Duy và Trịnh Công Sơn.

Thuộc thế hệ nhạc sĩ Tân nhạc tiên phong, Văn Cao tham gia nhóm Đồng Vọng, sáng tác các ca khúc trữ tình lãng mạn, đáng chú ý nhất là Bến xuân, Suối mơ, Thiên Thai và Trương Chi. Ông nhanh chóng trở thành một trong những gương mặt tiên phong, nổi bật nhất của trào lưu lãng mạn trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, đặc biệt là để lại những dấu ấn mang tính khai phá của ông trong tân nhạc Việt. Sau khi gia nhập Việt Minh, Văn Cao chủ yếu viết về nhiều ca khúc mang âm hưởng hào hùng như Tiến quân ca, Trường ca Sông Lô, Tiến về Hà Nội... vì vậy ông đã trở thành một nhạc sĩ tiêu biểu của dòng nhạc kháng chiến.

Được nhiều người xem là một hình mẫu thiên tài trong lịch sử văn nghệ Việt Nam,

Dù những sáng tác của Văn Cao (đặc biệt là về âm nhạc và thơ ca) nói chung không thực dồi dào về số lượng nhưng về mặt chất lượng chúng có ảnh hưởng mang tính định hướng và đặt nền cho sự phát triển của đời sống văn nghệ Việt Nam hiện đại. Một số ví dụ điển hình là vai trò đặc biệt quan trọng của ông trong sự định hình của thể loại tình ca, hùng ca (trong đó nổi bật là dòng nhạc cách mạng) và trường ca trong âm nhạc cũng như thể loại trường ca trong thơ hiện đại Việt Nam. Tuy nhiên những đóng góp về thơ ca và hội họa của Văn Cao vì nhiều lý do khác nhau mà ít được nhắc tới hơn rất nhiều so với những thành tựu trong âm nhạc của ông. Là một người tài hoa vào loại bậc nhất trong lịch sử văn nghệ Việt Nam, nhưng ngay từ thời còn niên thiếu ở Hải Phòng ông đã là một người có thiên hướng khép kín, trầm tư, ít bộc lộ bản thân trước đám đông. Sau vụ việc Nhân văn – Giai phẩm cuối thập niên 1950, ông lại càng có xu hướng sống khép kín và cô độc hơn mặc dù luôn có gia đình (đặc biệt là vợ ông) và một số bạn văn nghệ thân quen làm chỗ dựa cho đến những năm cuối đời. Khác với quan niệm truyền thống xưa nay về tài tử và giai nhân, cuộc đời của Văn Cao ít có những tiếp xúc mang tính lãng mạn với phái nữ vì như ông từng bộc bạch trong một cuốn phim tài liệu về mình rằng, "Tôi là một cái người luôn luôn thất bại về tình yêu, cái thất bại này là bởi vì tôi là người không giỏi về cách tôi giao lưu với những người đàn bà, mà lại đối với những người đẹp tôi lại càng bối rối, tôi không bao giờ nói được với người ta, thì tôi bèn nói trong thơ thôi." Lê Thiếu Nhơn trong một bài viết đăng trên báo Báo Công an nhân dân có tổng kết: "Cuộc đời 72 năm của Văn Cao gắn bó trọn vẹn với Việt Nam thế kỷ 20 nhiều biến động, để lại cho thế hệ sau không ít câu hỏi không dễ trả lời. Câu hỏi rộn ràng về cống hiến nhọc nhằn, câu hỏi cồn cào về thế sự ngổn ngang, về mệnh kiếp lênh đênh. Một Văn Cao đa tài không thể che chở một Văn Cao lận đận. Một Văn Cao danh vọng không thể bênh vực một Văn Cao cay đắng. Một Văn Cao hào hoa không thể an ủi một Văn Cao cô độc. Những ngày tháng Văn Cao đã sống, cứ đổ cái bóng gầy hắt hiu và trắc ẩn vào lòng công chúng, mà những bài hát của ông không lý giải được, những bức tranh của ông cũng không lý giải được. Chỉ còn lại thơ, xoa dịu và tỏ bày giùm Văn Cao." Tên ông cũng được đặt cho nhiều con phố đẹp ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Nam Định...

Cuộc đời

Văn Cao tên đầy đủ của ông là Nguyễn Văn Cao, sinh ngày 15 tháng 11 năm 1923 tại phường Lạch Tray, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Nguyên quán quê cha của ông ở An Lễ, xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Xuất thân trong một gia đình viên chức, cha của Văn Cao vốn là giám đốc nhà máy nước Hải Phòng. Thuở nhỏ, Văn Cao học ở trường tiểu học Bonnal (nay là Trường Trung học phổ thông Ngô Quyền, Hải Phòng), sau lên học trung học tại trường dòng Saint Josef, là nơi ông bắt đầu học âm nhạc. Năm 1938, khi mới 15 tuổi, vì gia đình sa sút, Văn Cao bỏ học sau khi kết thúc năm thứ hai bậc thành trung. Ông làm điện thoại viên ở sở Bưu điện tại Hải Phòng, nhưng được một tháng thì bỏ việc.

Cuối những năm 1930, tân nhạc Việt Nam ra đời. Ở Hải Phòng khi đó tập trung nhiều nhạc sĩ tiên phong như Đinh Nhu, Lê Thương, Hoàng Quý... Văn Cao tham gia vào nhóm Đồng Vọng của Hoàng Quý cùng Tô Vũ, Canh Thân, Đỗ Nhuận... và bắt đầu sáng tác ca khúc đầu tay là "Buồn tàn thu" vào năm 16 tuổi. Năm 1943 và 1944, Văn Cao hai lần xuất hiện trong triển lãm Salon Unique tổ chức tại nhà Khai trí Tiến Đức, Hà Nội với các bức tranh sơn dầu: "Cô gái dậy thì", "Sám hối", "Nửa đêm". Đặc biệt tác phẩm "Cuộc khiêu vũ những người tự tử" ("Le Bal aux suicidés") được đánh giá cao và gây chấn động dư luận.

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Văn Cao làm phóng viên và trình bày cho báo Lao động.

Năm 1946, Văn Cao được cử cùng Hà Đăng Ấn chuyên chở vũ khí và tiền vào mặt trận Nam Bộ. Sau đó chính thức được mời tham gia Hội Văn hoá Cứu quốc và được bầu là Ủy viên Chấp hành, Văn Cao hoạt động ở liên khu III, phụ trách tổ điều tra của công an Liên khu và viết báo Độc Lập. Đầu năm 1947, ông được cử phụ trách một bộ phận điều tra đặc biệt của công an Liên khu 10 ở biên giới phía bắc. Tại đây ông được giao nhiệm vụ kết nghĩa với vua Mèo để lập ra một phòng tuyến bảo mật chống sự tràn sang của quân Trung Hoa Quốc dân Đảng khi thua trận Tháng 3 năm 1948, Văn Cao được kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương. Cuối năm 1949, Văn Cao thôi làm báo Văn Nghệ chuyển sang phụ trách Đoàn Nhạc sĩ Việt Nam. Thời kỳ này, ông tiếp tục sáng tác các ca khúc nổi tiếng khác như "Làng tôi" (1947), "Ngày mùa" (1948), "Tiến về Hà Nội" (1949)... và đặc biệt là "Trường ca Sông Lô" năm 1947.

Đội danh dự Việt Minh

Thành lập

Năm 1944, Văn Cao được Vũ Quý giao nhiệm vụ thành lập một đội vũ trang, nhiệm vụ của đội chủ yếu làm công tác ám sát và bảo vệ an toàn cho các đội viên tuyên truyền tại các nơi công cộng do Văn Cao làm đội trưởng với tên gọi Đội danh dự Việt Minh.

Đội danh dự Việt Minh được thành lập vào cuối tháng 12/1944 tại căn gác nhỏ của Văn Cao ở 45 phố Nguyễn Thượng Hiền.

Sau hiệp định Genève 1954, Văn Cao hồi cư về Hà Nội, làm việc cho Đài Phát thanh, nhưng rất ít sáng tác. Năm 1955, ông cầm bút trở lại, viết bài cho đặc san Giai Phẩm. Tháng 2 năm 1956, bài thơ Anh có nghe không được đăng trên Giai phẩm mùa Xuân. Bài thơ này bị Xuân Diệu đánh giá là "lập lờ, ấp úng, bí hiểm, hai mặt, tuy nhiên công chúng cũng hiểu nó muốn nói gì". Văn Cao cùng các nghệ sĩ của hai tờ báo Nhân Văn và Giai Phẩm khi đó chủ trương đồ hỏi bãi bỏ cơ chế Nhà nước quản lý văn hóa nghệ thuật. Đến tháng 12 năm 1956 thì cả hai tờ báo đều bị đình bản.

Như những nghệ sĩ khác từng tham gia nhóm Nhân Văn-Giai Phẩm, tuy có muộn hơn, đến tháng 7 năm 1958, Văn Cao phải đi một khóa học tập chính trị. Tên tuổi của Văn Cao hầu như không còn xuất hiện trên các tạp chí văn nghệ ở Hà Nội. Những năm sau đó, Văn Cao tiếp tục sáng tác bằng nhiều công việc, như viết nhạc không lời cho các truyện phim và truyện kịch, trang trí sân khấu cho các đoàn kịch, vẽ quảng cáo các báo, vẽ nhãn diêm... Các tác phẩm ca khúc lãng mạn tiền chiến của ông (trừ các bài thuộc dòng nhạc cách mạng như bài Tiến quân ca) không được trình diễn ở miền Bắc. Giai đoạn này, Văn Cao hầu như không còn sáng tác ca khúc mới. Đến cuối năm 1975, Văn Cao mới viết Mùa xuân đầu tiên để thể hiện niềm vui khi đất nước hòa bình. Theo VnExpress "ca khúc được đăng ngay lần đầu tiên trên báo Sài Gòn Giải Phóng số mừng xuân Bính Thìn, đồng thời lập tức được dịch lời và in ở Nga". Nhưng các chương trình Việt Ngữ tại Moskva vẫn cho trình bày bài hát, và nhờ vậy Mùa xuân đầu tiên đã không bị lãng quên. Văn Thao, người con trai của Văn Cao, tiết lộ tiếp rằng: "Nhưng cũng thật bất ngờ (không hiểu bằng con đường nào), trong cái năm 1976 ấy Mùa xuân đầu tiên được in ở nước Nga và được Liên Xô trả nhuận bút cho tác giả 100 Rúp. Văn Cao phải viết giấy uỷ quyền qua sứ quán để con gái ông đang học bên đó lĩnh hộ. Ông bảo con gái: "Con cứ lấy mà tiêu, ở nước mình bao lâu nay bố có được biết đến đồng nhuận bút tác phẩm nào đâu."

Năm 1981, Việt Nam phát động phong trào cả nước thi sáng tác quốc ca nhưng sau đó không công bố kết quả, cuộc thi cũng không được nhắc lại. Bài Tiến quân ca vẫn là quốc ca của Việt Nam. Cho đến cuối thập niên 1980, nhờ chính sách Đổi Mới của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, các tác phẩm của Văn Cao cùng những nhạc sĩ tiền chiến khác được biểu diễn trở lại.

Hoạt động nghệ thuật

Âm nhạc

So với hai nhạc sĩ Việt Nam nổi tiếng khác là Phạm Duy khoảng 1000 ca khúc và Trịnh Công Sơn với 600 ca khúc, Văn Cao sáng tác không nhiều. Sự nghiệp âm nhạc của Văn Cao được chia làm hai mảng chính: tình ca và hùng ca. Ngoài ca khúc, ông còn viết một số tác phẩm khí nhạc dành cho piano như Sông Tuyến, Biển đêm, Hàng dừa xa...Ông còn sáng tác nhạc phim như "Chị Dậu" (1980), tổ khúc giao hưởng phim Anh bộ đội cụ Hồ của Xưởng phim Quân đội Nhân dân...

Tình ca

Nhạc thời tiền chiến

Bìa bản nhạc [[Bến Xuân do nhà Tinh Hoa tái bản lần thứ ba, năm 1954]] Trong giai đoạn sáng tác đầu tiên, giống như những nhạc sĩ tiền chiến khác, Văn Cao viết các nhạc phẩm trữ tình, nhưng ít ảnh hưởng bởi chủ nghĩa lãng mạn Pháp mà mang nặng âm hưởng phương Đông. Từ ca khúc đầu tay Buồn tàn thu, Văn Cao đã sử dụng ngũ cung để viết về một hình ảnh quen thuộc trong nghệ thuật châu Á: người phụ nữ đan áo ngồi chờ đợi. Sau Buồn tàn thu, ông còn viết hai ca khúc khác về mùa thu là Thu cô liêuSuối mơ. Trong đó Suối mơ vốn là một đoạn của bản Trương Chi 1 được Văn Cao phát triển thêm và cùng Phạm Duy hoàn tất. Bản Trương Chi nổi tiếng sau là Trương Chi 2.

Bên cạnh đề tài mùa thu, Văn Cao cũng viết hai ca khúc nổi tiếng khác về mùa xuân là Cung đàn xưaBến xuân. Nhạc phẩm Bến xuân có sự tham gia của Phạm Duy, nhưng về sau Văn Cao viết lại lời mới cho ca khúc này và đặt tên Đàn chim Việt. Ngay từ những ca khúc đầu tiên, Văn Cao đã giành được thành công. Buồn tàn thu được biểu diễn trên các sân khấu hát rong và trên Đài Phát thanh Sài Gòn trong những năm 1944-1945, lúc tân nhạc còn mới phôi thai nên trở nên phổ biến. Suối mơ, Bến xuân được Phạm Duy đánh giá là cực điểm của lãng mạn tính trong ca nhạc Việt Nam.

Nhưng hai tình khúc của Văn Cao được đánh giá cao hơn cả là Thiên ThaiTrương Chi.

Sau năm 1954, các ca khúc của Văn Cao, trừ Tiến quân ca, không được trình diễn ở miền Bắc. Nhưng ở miền Nam, các ca sĩ hàng đầu của Sài gòn như Thái Thanh, Khánh Ly, Hà Thành vẫn trình diễn và ghi âm nhạc phẩm của Văn Cao. Ca khúc Không quân Việt Nam được sử dụng làm bài hát chính thức của Không lực Việt Nam Cộng hòa mặc dù chưa được phép của tác giả.

Khí nhạc

Thơ ca

Thơ tiền chiến

Hội họa

Cùng với Thái Bá Vân, Tạ Tỵ là một trong số ít những người bạn thân quen có hiểu biết sâu về tài năng hội họa của Văn Cao. Trong hồi ký của ông, Tạ Tỵ nhắc lại quãng thời gian đầu khi Văn Cao đến với hội họa: "Văn Cao khi ở Hải Phòng, khi lên Hà Nội, mỗi lần có mặt ở thành phố, Văn Cao thường đến tìm tôi mời lại căn nhà ở trong con ngõ nhỏ đường Hàm Long để khoe tranh mới. Trong khoảng thời gian từ 42 đến 45, tôi đâu biết Văn Cao đã dấn thân vào cách mạng, hoạt động bí mật cho Mặt Trận Việt Minh. Quả thật tôi không để ý đến cách mạng và chính trị nên thường có những lập luận đối nghịch với Văn Cao về sáng tác. Văn Cao cho rằng nghệ thuật chỉ có ý nghĩa khi nó phục vụ cho số đông và một bức tranh đẹp phải truyền cảm, gây được ấn tượng tốt cho người xem tranh. Còn tôi cho rằng nghệ thuật, bất cứ ở bộ môn nào, trước hết, phải có bản sắc cũng như đặc tính của nghệ phẩm. Một bức tranh đẹp không cần sự giải thích, chỉ cần sự cảm thông giữa người xem tranh và tác phẩm (...) Nhưng tuy miệng nói vậy, chứ Văn Cao vẽ cũng mới lắm; những bản nhạc như Buồn Tàn Thu, Suối Mơ, Thiên Thai, Trương Chi, v.v... được in ra đều do Văn Cao trình bày bìa đi rất gần với trường họa lập thể, mà hồi đó chưa có một bản nhạc nào, cuốn sách nào trình bày dưới hình thức đó."

Một điều không may mắn là do nhiều lý do (như trách nhiệm của những người lưu giữ và điều kiện bảo quản hạn chế trong nhiều năm chiến tranh ở Việt Nam) mà danh mục các sáng tác trong sự nghiệp hội họa của Văn Cao đã không được liệt kê chi tiết như các tác phẩm âm nhạc và thơ của ông. Bởi vậy nhiều người muốn tìm hiểu về tài năng hội họa của Văn Cao không có mấy điều kiện tiếp xúc trực tiếp với những sáng tạo hội họa của Văn Cao, và hầu như chỉ có thể căn cứ vào những ý kiến phê bình của các bạn văn nghệ đương thời của ông như Tạ Tỵ và Thái Bá Vân.

Các giọng ca thể hiện thành công

Từ giữa thế kỷ 20, các tác phẩm của ông như Làng tôi, Tiến về Hà Nội, Ngày mùa,... đã được người nghe đón nhận qua giọng ca:

  • Mỹ Bình
  • Diệu Thuý
  • Hợp ca Đài TNVN
  • Bích Liên
  • Kiều Hưng
  • Quý Dương
  • Cao Minh
  • Trung Kiên
  • Quang Hưng
  • Vũ Dậu
  • Tuyết Thanh

Sang thế kỷ 21, các ca sĩ đã thể hiện lại những bài hát này với nhiều màu sắc mới và dễ tiếp cận người nghe hơn, đáng kể đến như các ca sĩ Hồng Nhung, Đăng Dương, Vũ Thắng Lợi, Đào Tố Loan, Phạm Thu Hà,...

Danh mục tác phẩm

Nhạc:

  • Anh em khá cầm tay
  • Bài ca biên giới
  • Buồn tàn thu (1939)
  • Thiên Thai (1941)
  • Đêm sơn cước
  • Đêm xuân
  • Gió núi
  • ''Chiều buồn trên sông Bạch Đằng
  • Hò kéo gỗ Bạch Đằng Giang (1941)
  • Bến xuân (viết chung với Phạm Duy) *Đàn chim Việt (1942)
  • Suối mơ (viết chung với Phạm Duy)
  • Thu cô liêu (1942)
  • Cung đàn xưa (1942)
  • Gò Đống Đa (1942)
  • Trương Chi (1943)
  • Tiến quân ca (1944)
  • Hải quân Việt Nam (1945)
  • Không quân Việt Nam (1945)
  • Công nhân Việt Nam
  • Bắc Sơn (1945)
  • Chiến sĩ Việt Nam (1945)
  • Làng tôi (1947)
  • Thăng Long hành khúc ca
  • Tiến về Hà Nội
  • Tình ca Trung du
  • Trường ca sông Lô (1947)
  • Ngày mùa (1948)
  • Ca ngợi Hồ Chủ tịch (1950)
  • Dưới ngọn cờ giải phóng (1962)
  • Ta đi làm con suối (những năm 1970)
  • Mùa xuân đầu tiên (1976)

Thơ:

  • Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc
    (1945, khi chứng kiến nạn đói năm 1945)
  • Anh có nghe không
    (Giai phẩm Mùa xuân - tháng 2 năm 1956)
  • Một đêm Hà Nội
  • Những ngày báo hiệu mùa xuân
  • Khuôn mặt em (1974)
  • Ai về Kinh Bắc
  • Một đêm đàn lạnh trên sông Huế
  • Ba biến khúc tuổi 65 (tháng 9-1988)
  • (xuất bản năm 1988)
  • Thời gian
  • Trôi
  • Năm buổi sáng không có trong sự thật
  • Phố Phái
  • Có lúc
  • Đường rừng
  • Những người trên cửa biển

Hội họa:

  • Chân dung bà Băng
  • Chân dung Đặng Thai Mai
  • Cô gái dậy thì
  • Cô gái và đàn dương cầm
  • Sám hối
  • Cuộc khiêu vũ của những người tự tử
  • Dân công miền núi
  • Thái Hà ấp đêm mưa
  • Cổng làng
  • Phố Nguyễn Du
  • Chợ vùng cao
  • Thanh niên vùng cao
  • Lớn lên trong kháng chiến
  • Cây đàn đỏ

Qua đời

Theo những người thân và bạn bè kể lại thì sức khỏe của Văn Cao suy yếu nhanh trong những năm cuối đời. Ông không còn ăn được cơm mà chuyển sang ăn bột ngũ cốc do các cơ quan nội tạng bị hư hỏng nặng. Tuy nhiên, ông chưa bao giờ bỏ được thú vui uống rượu có từ thời trẻ.

Văn Cao qua đời khi đang điều trị tại Bệnh viện Hữu Nghị, Hà Nội vào ngày 10 tháng 7 năm 1995. Theo các phương tiện thông tin đại chúng thì nguyên nhân của điều này là do tuổi cao và cơn bạo bệnh ung thư phổi quái ác.

Đời tư

Gia đình

Văn Cao kết hôn cùng bà Nghiêm Thúy Băng năm 1947, có với nhau 5 người con, 3 trai đầu và 2 gái.

Tính cách

Đoạn mở đầu băng nhạc Văn Cao - Giấc Mơ Một Đời Người do đạo diễn Đinh Anh Dũng thực hiện năm 1994, Văn Cao từng thẳng thắn bộc lộ tính cách rụt rè của ông trong giao tiếp với phụ nữ thời trai trẻ: "Tôi là một cái người luôn luôn thất bại về tình yêu, cái thất bại này là bởi vì tôi là người không giỏi về cách tôi giao lưu với những người đàn bà, mà lại đối với những người đẹp tôi lại càng bối rối, tôi không bao giờ nói được với người ta, thì tôi bèn nói trong thơ thôi." Những người từng tiếp xúc với Văn Cao, dù ở mức độ thân quen hay nổi tiếng khác nhau, đều có ghi nhận khá tương đồng về ông. Đó là một người thân hình gầy nhỏ, thâm trầm, thường trầm tư một mình, sâu sắc trong giao tiếp, không có xu hướng thích lớn tiếng hay lên giọng bậc trên trong những cuộc chuyện trò. Những người từng đối thoại với ông, dù quen biết hay không quen, nổi tiếng hay không nổi tiếng, đều ghi nhận ở Văn Cao khả năng đưa ra những nhận định rất kiệm lời nhưng với sự chính xác và sắc sảo của ngôn từ đến độ ít ai nghĩ tới. Họ cũng ghi nhận ở Văn Cao tính cách khiêm tốn, luôn biết lắng nghe người đối thoại và cũng ít khi nói đến những gì thuộc về thành tựu sự nghiệp cá nhân ông, trừ khi người khác muốn tìm hiểu. Người ta đôi khi vẫn lấy Phạm Duy và Văn Cao để so sánh những khác biệt đến mức tưởng như đối lập trong cá tính giữa hai con người thường được ví như đôi bạn tri kỷ hiếm có trong nền âm nhạc Việt Nam hiện đại. Phạm Duy vẫn là người có những đánh giá, phân tích chuyên môn uy tín, toàn diện, sâu rộng hơn bất cứ ai khác về tài năng, sự nghiệp sáng tác âm nhạc của Văn Cao. Nhà nghiên cứu văn học Thụy Khuê trong tác phẩm nghiên cứu về sự kiện Nhân Văn - Giai Phẩm cũng từng nhận xét rằng "người viết hay nhất và đầy đủ nhất về Văn Cao là Phạm Duy". Điều này có được trước tiên bởi kiến thức và tầm vóc của Phạm Duy trong lịch sử tân nhạc Việt Nam, một người nổi tiếng không chỉ bởi sự nghiệp âm nhạc mà còn cả bởi lòng tự tôn bản thân. Và quan trọng nữa là mối thân tình đặc biệt giữa ông và Văn Cao từ thuở hai người còn ở độ mười tám đôi mươi. Trong hồi ký của ông, Phạm Duy mô tả về người bạn kém mình 2 tuổi như sau, "thấp bé hơn tôi, khép kín hơn tôi, nhưng Văn Cao tài hoa hơn tôi nhiều. Chắc chắn là đứng đắn hơn tôi. Lúc mới gặp nhau, anh ta chưa dám mày-tao với tôi, nhưng tôi thì có cái tật thích nói văng mạng (và văng tục) từ lâu, kết cục, cu cậu cũng theo tôi mà xổ chữ nho. Nhưng Văn Cao bản tính lầm lỳ, ít nói, khi nói thì bàn tay gầy gò luôn luôn múa trước mặt người nghe. Anh ta thích hút thuốc lào từ khi còn trẻ, có lần say thuốc ngã vào tay tôi. Về sau, anh còn nghiện rượu rất nặng." Qua những dòng mô tả từ chính người con trai của ông thì có thể thấy Văn Cao thực sự là một người "sành ăn uống", "sành ẩm thực". Ông không chỉ tinh tế trong cách thưởng thức (bao gồm cả cách uống rượu) mà cũng thành thạo trong cách chế biến những món ăn ông ưa thích.

Câu nói

  • Đúng là lớp trẻ bây giờ chỉ biết Văn Cao là tác giả Tiến quân ca, còn Văn Cao thế nào thì chịu. (1993)
  • Đầu đời Văn Cao đã có một Kim Tiêu, không ngờ cuối đời lại gặp một Ánh Tuyết. (lời của Văn Cao nói với ca sĩ Ánh Tuyết khi nghe Ánh Tuyết hát bài Trương Chi của ông. Theo như Ánh Tuyết thuật lại thì khi đó Văn Cao đã không cầm được nước mắt.)
  • Trương Chi là tôi đấy. (nói với ca sĩ Ánh Tuyết)
  • Ngồi đây ta gõ ván thuyền, ta ca trái đất còn riêng ta
  • Người đi dọc biển/ Không để lại dấu chân. (trích dẫn thơ Văn Cao)
  • Một đêm đàn lạnh trên sông Huế / Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh. (từ bài thơ Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, 1940)
  • Con thuyền đi qua / để lại sóng / Đoàn tàu đi qua / để lại tiếng / Đoàn người đi qua / để lại bóng / Tôi không đi qua tôi / để lại gì?
  • Giữa sự sống và sự chết / Tôi chọn sự sống / Để bảo vệ sự sống / Tôi chọn sự chết. (Chọn, 26.8.1957)
  • Có lúc / một mình một dao trong rừng / không sợ hổ. / Có lúc / ban ngày nghe lá rụng sao / hoảng hốt. / Có lúc / nước mắt không thể chảy / ra ngoài được. (Có lúc, 1963)
  • Tiếng kêu ở trong tôi / Có xót xa có cả vui mừng / Tiếng kêu của một khúc thép đỏ / Trong chậu nước (Cạn)
  • Kỉ niệm trong tôi / Rơi / như tiếng sỏi / trong lòng giếng cạn (Thời gian)
  • Tôi yêu Hải Phòng như Việt Nam nhỏ lại / Tôi yêu Việt Nam như tôi biết yêu tôi. (Những ngày báo hiệu mùa xuân)
  • Tôi không được làm trái đầu mùa / Những trái cây cao giá / Tôi, Một trái cây muộn còn sót lại cành. (Sự sống thật, 1970)
  • Những bó hoa mang tới / chúc tụng / Thành công một con người / Hàng ngày hàng ngày / Xây thành cái mồ chôn / Con người thành công ấy / Đôi khi người ta bị giết / bằng những bó hoa. (Những bó hoa, 17.3.1974)
  • Tin tất cả và hoài nghi tất cả / Chúng ta là những kẻ chài quen biển / Thấy ngọn lửa quay đầu / Biết bão táp đang trở mình trên mặt sóng (Những ngày báo hiệu mùa xuân)
  • Người ta yêu những người cố mở đường mà thất bại, yêu những người biết thất bại mà dám mở đường... Hôm nay, con đường lớn nhất của chúng ta là mở cho tất cả những giấc mơ, những khát vọng thuộc về sự sáng tạo của con người tự do phát triển bay đi xe mật về ổ. Mở cho những giấc mơ, những khát vọng tự do phát triển bao nhiêu là tập trung tất cả giấc mơ và khát vọng của con người làm thành mũi nhọn kéo lê đi phía sau cái thực tế chậm chạp. (Mấy ý nghĩ về thơ)
  • Cái mới đâu phải là những cái không sẵn có. Sự làm mới những cái sẵn có cũng là một phương pháp sáng tạo.
  • Một trong những hướng xây dựng nhân vật là đào tạo cho xã hội những người biết khai thác, khám phá, phân tích thực tế và mở đường cho tương lai. (Mấy ý nghĩ về thơ).
  • Cuộc đời và nghệ thuật của nhà thơ phải là những dòng sông lớn càng trôi càng thay đổi, càng trôi càng mở rộng.
  • Ảnh hưởng sông nước khúc Thiên thai cổ trong khung cảnh huyền diệu của Đường thi với hai truyện Thiên thai và Đào nguyên. Người sông Ngự đã lạc cảm xúc rồi. (Lời tựa cho bài Thiên Thai, 1944. Thời này Văn Cao thường tự gọi mình là "Người sông Ngự".)
  • Tương tiến Phạm Duy, kẻ du ca đã gieo nhạc buồn của tôi đi khắp chốn. (Đề tặng dưới tựa Buồn Tàn Thu, 1939)
  • Tôi gọi Trịnh Công Sơn là người thơ ca (Chantre) bởi ở Sơn, nhạc và thơ quyện vào nhau đến độ khó phân định cái nào là chính, cái nào là phụ. Và bởi Sơn đã hát về quê hương đất nước bằng cả tấm lòng của một đứa con biết vui tận cùng những niềm vui và đau tận cùng những nỗi đau của Tổ quốc mẹ hiền. (Lời bạt cho tập nhạc "Em còn nhớ hay em đã quên", Nhà xuất bản Trẻ, TP. HCM, 1991)
  • Trong âm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của âm nhạc cổ điển theo cấu trúc bác học phương Tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm xúc nhạc thơ tự nó trào ra. Nói như nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, người bạn già của tôi, "Trịnh Công Sơn viết dễ như lấy chữ từ trong túi ra". Cái quyến rũ của nhạc Trịnh Công Sơn có lẽ chính là ở chỗ đó, ở chỗ không định tạo ra một trường phái nào, một triết học nào, mà vẫn thấm vào lòng người như suối tưới. Với những lời, ý đẹp và độc đáo đến bất ngờ hôn phối cùng một kết cấu đặc biệt như một hình thức của dân ca hầu như không thay đổi, Trịnh Công Sơn đã chinh phục hàng triệu con tim, không chỉ ở trong nước, mà cả ở bên ngoài biên giới nữa. (Lời bạt cho tập nhạc "Em còn nhớ hay em đã quên", Nhà xuất bản Trẻ, TP. HCM, 1991)
  • Với bố, phải ngồi lại để viết hồi ký có nghĩa là cuộc đời sáng tạo nghệ thuật của mình đã chấm hết. Để viết cho trung thực và khách quan, khi nhìn lại cả cuộc đời mình, dám nhận những sai lầm của mình trong các mối quan hệ xã hội đã khó, tự đánh giá và khẳng định được những tác phẩm của mình ở tầm cỡ nào và bảo vệ những quan điểm nghệ thuật của mình còn khó hơn. Còn viết hồi ký để đề cao mình, thanh minh cho mình, có khi dẫn đến việc nói xấu và hạ thấp vai trò của người này người khác... thì bố không làm được. Vì thế mà bố không viết hồi ký. Theo bố hãy để mọi người nghĩ, tìm hiểu và viết về bố thông qua chính những tác phẩm của mình thì khách quan hơn... Mà biết đâu con cũng sẽ là người viết cho bố? (trả lời câu hỏi của con trai cả là họa sĩ Văn Thao "Sao bố không viết hồi ký?")
  • Tôi là tác giả "Quốc ca", bao nhiêu năm tôi phải giữ gìn, dù sao tên tuổi mình cũng đã gắn với một cái gì của đất nước, tuy nhỏ bé nhưng thiêng liêng. Ông cũng biết đấy, dân nhạc tài hoa thường anh nào trong đời chẳng có ba bốn cô xinh đẹp vây quanh. Còn tôi, tôi phải giữ gìn, giữ gìn vì tên tuổi mình phải trong sạch, hai nữa với gia đình, phải xứng đáng với người vợ của mình. (trong cuộc trò chuyện với nhà nghiên cứu văn học Hà Minh Đức)
  • Sau triển lãm Duy nhất 1944 (Salion unique), tôi về một căn gác hẹp đầu phố Nguyễn Thượng Hiền. Ba bức tranh sơn dầu của tôi, tuy được trưng bày vào chỗ tốt nhất của phòng tranh - Nhà Khai Trí Tiến Đức - và được các báo khen ngợi nhưng cũng không bán nổi. Hy vọng về cuộc sống hội họa, tại Hà Nội không thể thực hiện được. Anh bạn nhường cho tôi căn gác ấy, là người đã xuất bản mấy bản nhạc đầu tiên của tôi, cũng không thấy nói đến việc trả tiền nhuận bút. Tôi chưa bao giờ nhận được tiền nhuận bút về các bản nhạc viết hồi đó, dù đã trình diễn nhiều lần ở các tỉnh từ bắc tới nam, tôi cũng không nhận được tiền nhuận bút về thơ và truyện ngắn. (Trích dẫn hồi ký Tại sao tôi viết "Tiến quân ca")
  • Năm ấy rét hơn mọi năm. Tôi ngủ với cả quần áo. Có đêm tôi phải đốt dần bản thảo và ký họa để sưởi. Đêm năm ấy cũng dài hơn mọi năm. Những ngày đói của tôi bắt đầu. (Trích dẫn hồi ký Tại sao tôi viết "Tiến quân ca")
  • Tôi chưa được cầm một khẩu súng, chưa được gia nhập một đội vũ trang nào. Tôi chỉ đang làm một bài hát. Tôi chưa được biết chiến khu, chỉ biết những con đường phố Ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ theo thói quen tôi đi. Tôi chưa gặp các chiến sĩ cách mạng của chúng ta trong khóa quân chính đầu tiên ấy. Và tôi biết họ đang hát như thế nào. Ở đây tôi đang nghĩ cách viết một bài hát thật giản dị cho họ hát được. (Trích dẫn hồi ký Tại sao tôi viết "Tiến quân ca")
  • Tôi đang chờ nhận một khẩu súng và được tham gia vào đội vũ trang. Tôi đang chuẩn bị làm bài hát. Thật khó nghĩ tới nghệ thuật lúc này. Tôi đi mãi tới khi đèn các phố bật sáng. Bên một gốc cây, bóng mấy người đói khổ trần truồng, những bộ xương khô đét loang trên mặt hồ lạnh. Họ đang đun một thứ gì trong một ống sữa bò. Ngọn lửa tím sẫm bập bùng trong những hốc mắt. Có một đứa bé gái, nó khoảng lên ba, tôi ngờ như đã gặp cháu tôi. Đôi mắt nó giống như mắt mèo con. Cháu bé không có mảnh vải che thân. Nó ngồi ở xa nhìn mấy người lớn sưởi lửa. Hình như nó không phải là con cái số người đó. Hình như nó là đứa trẻ lạc, cũng không phải cháu tôi. Nó đã chết thật rồi. Có thể nó đã nằm trong đám người chết đói dọc đường Nam Định, Hải Phòng. Tôi bỗng trào nước mắt và quay đi. Đêm ấy về căn gác, tôi đã viết được nét nhạc đầu tiên của bài "Tiến quân ca". (Trích dẫn hồi ký Tại sao tôi viết "Tiến quân ca")
  • Bài hát đã làm trong thời gian không biết bao nhiêu ngày, tại căn gác hẹp số 45 Nguyễn Thượng Hiền, bên một cái cửa sổ nhìn sang căn nhà hai tầng, mấy làn cây và một màn trời xám. Ở đây thường vọng lên những tiếng xe bò chở xác người chết đói về phía Khâm Thiên. Ở đây hằng đêm, mất ngủ vì gió mùa luồn vào từng khe cửa, vì tiếng đánh chửi nhau của một gia đình anh viên chức nghèo khổ, thiếu ăn, vọng qua những khe sàn gác hở. Ở đây tôi hiểu thêm nhiều chuyện đời. (Trích dẫn hồi ký Tại sao tôi viết "Tiến quân ca")
  • ''...Còn về lời ca [của "Tiến quân ca"], có người bảo tôi là tại sao có đoạn lại viết: "Thề phanh thây uống máu quân thù!" Tôi lặng người, sau đó trả lời: "Hoàn cảnh lúc đó, nếu không có 2 triệu người chết đói dần mà tôi đã từng chứng kiến khi bắt đầu sáng tác ca khúc này, tôi sẽ không viết như vậy. (...) Thôi, giờ tôi có tiếc nuối cũng chẳng thể làm gì. Dù sao Tiến quân ca cũng chẳng phải là của riêng tôi, nó đã là của một dân tộc Việt Nam độc lập kể từ Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 đến nay."
  • Huế là một nguồn sáng tạo của tôi trong những năm 40. Thơ và nhạc là điều tôi tìm nguồn từ ấy. Có lẽ lịch sử và cảnh vật của cố đô có những điều gây cảm xúc cho sáng tác. Đối với nơi đó người ta phải suy nghĩ nhiều không vì lịch sử mà về một nền văn hóa. Những người Huế sống tự hào và đầy sáng tạo. Có lẽ sự sáng tạo của người dân Huế tôi làm được âm nhạc và thơ. (trong một lá thư gửi cho Tạp chí Sông Hương, ngày 2/10/1986)
  • Tại sao tôi nói đến Thiên Thai là bởi vì một nơi một cõi nào đó người ta coi như đất hứa mà cái đất hứa ấy thì không ai tìm được trên cái cõi thế gian này, đi tìm mãi trong những cái hoài niệm của mình tuổi thanh niên thì nhớ ra rằng có lần tìm ra được. (Trong phim tài liệu ca nhạc Văn Cao - Giấc mơ một đời người của đạo diễn Đinh Anh Dũng, 1992)
  • Tôi là một cái người luôn luôn thất bại về tình yêu, cái thất bại này là bởi vì tôi là người không giỏi về cách tôi giao lưu với những người đàn bà, mà lại đối với những người đẹp tôi lại càng bối rối, tôi không bao giờ nói được với người ta, thì tôi bèn nói trong thơ thôi. (Trong phim tài liệu ca nhạc Văn Cao - Giấc mơ một đời người của đạo diễn Đinh Anh Dũng, 1992)
  • ...Có người nói thẳng tới cái vô cùng tận của trời xanh; có người nói cái vô cùng tận của trời xanh qua cái rộng của biển. Cũng có người thấy trời xanh vô cùng tận trong bát nước và cũng có người chỉ nói tới một giọt ánh sáng để thấy cái vô cùng tận của trời xanh. Có người cần phải tìm con đường lớn mới thấy dấu xe mà có người tìm thấy dấu xe trong hạt bụi. (Tuyển tập thơ, Nhà xuất bản Văn học, 1994)
  • Mình rất cần tiền mà cũng vô cùng chán tiền. (nói với Phùng Quán, trích dẫn trong sách Ba phút sự thật của Phùng Quán, NXB Văn Nghệ, TP. Hồ Chí Minh, 2006)

Dấu ấn và di sản văn nghệ

Trong lĩnh vực âm nhạc, Văn Cao là người có công khai phá và giúp hoàn thiện một số thể loại của tân nhạc Việt Nam như nhạc trữ tình (nhạc tiền chiến), hùng ca (nhạc cách mạng, nhạc kháng chiến), và trường ca. Trong lĩnh vực thi ca, ông cũng là một trong ít người không ngừng đi tiên phong với những cách tân mang tính đột phá-sáng tạo trong thơ Việt Nam hiện đại. Đã có những quan điểm chuyên môn xem ông là một trong những người đi khai phá, mở đầu cho sự phát triển của thể loại trường ca thơ hiện đại Việt Nam, đặc biệt kể từ nửa cuối thập niên 1950 trở đi. Tuy nhiên, những đóng góp của ông cho thơ ca và hội họa dân tộc ít khi được nhắc tới so với những cống hiến to lớn về âm nhạc của ông. Văn Cao được xem là một hiện tượng hiếm có trong lịch sử phát triển của văn hóa Việt Nam – một con người mà sự kết hợp nhạc-họa-thơ là xuyên suốt trong gần như toàn bộ những sáng tác đa dạng của ông. Trong địa hạt âm nhạc của ông, ngoài những nét đẹp về giai điệu, ca từ cũng mang nhiều tính thơ và họa. Còn trong địa hạt thơ của ông, họa tính là rất đặc trưng.

Ở Văn Cao, tầm vóc không phải là thứ lượng hóa, tức là tính bằng con số những sáng tác. Bởi xét về số lượng, những sáng tác của Văn Cao (đặc biệt trong lĩnh vực nhạc và thơ) còn ít hơn đáng kể ngay cả so với nhiều nhạc sĩ hoặc thi sĩ ở tầm trung tại Việt Nam. Đánh giá Văn Cao cần nhìn xuyên suốt tư tưởng của ông trong cả ba lĩnh vực là nhạc-họa-thơ. Xét về nhiều phương diện, Văn Cao là mẫu nghệ sĩ hiếm có bởi lịch sử Việt Nam không có khuynh hướng tạo ra những nghệ sỹ có tinh thần dám khai phá sáng tạo như ông.

Văn Cao đã được nhiều người coi là một trong những danh nhân văn hóa tiêu biểu của Việt Nam thời hiện đại. Là một bậc thầy của nghệ thuật sử dụng ngôn từ phong phú và biến hóa trong các sáng tác nhạc và thơ của ông, cống hiến của Văn Cao cho riêng tiếng Việt - với tư cách một ngôn ngữ có khả năng chuyên chở đầy đủ những sắc thái cảm xúc và tư tưởng của người nghệ sĩ - đã thậm chí được so sánh với cống hiến của Nguyễn Du cho riêng ngôn ngữ thi ca dân tộc. Là người tài hoa được thừa nhận trên nhiều lĩnh vực như nhạc-họa-thơ nhưng cuộc đời và sự nghiệp của Văn Cao cũng được xem là một điển hình của định mệnh "tài" và "tai" trong lịch sử văn hóa của Việt Nam. Ông không có những quãng thời gian đủ dài và suôn sẻ trong sáng tạo nghệ thuật so với những tên tuổi như Phạm Duy hay Trịnh Công Sơn bởi bối cảnh chính trị, văn hóa đặc thù của miền Bắc so với miền Nam Việt Nam những năm chiến tranh chia cắt. Đánh giá về Văn Cao, trong nhiều bài viết các tác giả không ngần ngại gắn cho ông mỹ từ thiên tài, trong đó có Phạm Duy (2007), Thụy Khuê (2010), Đỗ Ngọc Thạch (2013), hay Trần Mạnh Hảo (2013). Đây mặc định có thể xem là đánh giá ở mức độ cao nhất đối với bất cứ ai hoạt động trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật ở Việt Nam. Trong văn học nghệ thuật của dân tộc, trước Văn Cao có lẽ chỉ có Nguyễn Du trong thi ca là thường được gắn với mỹ từ thiên tài nhiều hơn cả. Việc Phạm Duy dùng mỹ từ đó cũng cho thấy sự trân trọng ông dành cho Văn Cao lớn thế nào, bởi Phạm Duy với lòng tự tôn của một cây đại thụ hàng đầu tân nhạc Việt không phải người dễ dãi trong đánh giá thành tựu của đồng nghiệp. Với những kiến thức phong phú về nhạc lý và văn hóa dân tộc, Phạm Duy hơn ai hết có đầy đủ thẩm quyền đánh giá về tài năng của Văn Cao.

Nhiều người nghiên cứu sâu về Văn Cao (trong đó có bạn vong niên của ông là nhà nghiên cứu âm nhạc Nguyễn Thụy Kha và con trai trưởng của Văn Cao là họa sĩ Văn Thao) thường nhắc tới khả năng đưa ra những tiên tri hay dự đoán đến mức chính xác đáng kinh ngạc trong những sáng tác âm nhạc của ông. Nhiều sự kiện đã xảy ra trong các tác phẩm của Văn Cao trước khi chúng được ghi nhận trong thực tế lịch sử Việt Nam thế kỷ ông đã sống. Một số tác phẩm điển hình là Không quân Việt NamTiến về Hà Nội.

Nhận xét

Về cuộc đời và sự nghiệp

Về nhân cách

Trong âm nhạc

Trong thơ ca

Trong hội họa

Tri ân

Những tác phẩm về Văn Cao

Năm 1989, tạp chí National Geographic đã đăng một bức ảnh của nhạc sĩ Văn Cao đang ngồi trầm tư bên chiếc đàn dương cầm của ông. Chính tấm hình này sau đó đã tạo cảm hứng để nhà soạn nhạc đương đại người Mỹ Robert Ashley sáng tác nên bản nhạc solo cho piano mang tên Van Cao's Meditation vào năm 1992, dù rằng cho đến tận khi Văn Cao qua đời (1995) thì Robert Ashley vẫn chưa một lần gặp mặt tác giả của Tiến quân ca.

Trong lĩnh vực điêu khắc, đã có một bức tượng bán thân của Văn Cao được đặt trong khuôn viên trường Trung học Văn hóa - Nghệ thuật Hải Phòng từ năm 2002. Cũng trong cuộc trò chuyện với báo chí nhân dịp khánh thành bức tượng bán thân của cha mình tại Hải Phòng năm 2002, họa sĩ Văn Thao (con trai trưởng của Văn Cao) nói: "Năm 1985, điêu khắc gia Phạm Văn Hạng tặng cha tôi bức tượng tạc khuôn mặt ông bằng thạch cao màu đen, cao 20 cm. Bố tôi rất thích và đề từ: Bức tượng cho tôi cảm giác tôi đang muốn nói một câu gì đó. Hè vừa rồi, tôi mới có điều kiện đi quyên góp từ bạn bè để phóng to bức tượng của Phạm Văn Hạng bằng đất sét, rồi đổ khuôn thạch cao, hết 1 tháng rưỡi. Rồi đưa khuôn ấy cho nghệ nhân Nguyễn Văn Dũng. Bức tượng hoàn thành cách đây 3 tháng, bằng đồng hun, cao 1,2 m." Văn Thao cũng thổ lộ với báo chí về mong muốn lập một bảo tàng cá nhân cho người cha nổi tiếng của ông: "Tôi chỉ muốn làm cho được một bảo tàng về cha tôi. Đó là hoạt động ý nghĩa nhất tôi phải làm bằng được trong những năm tới. Cho đến nay, ở xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, Nam Định có một trường tiểu học mang tên Văn Cao. Tôi đang cố gắng xin đất ở huyện Vụ Bản, để Bảo tàng Văn Cao được tọa lạc tại chính quê hương mình, cần vài nghìn mét vuông để làm khu lưu niệm, vườn tược, vườn Thiên Thai. Tôi còn phải lo sưu tập, phục chế, tìm kiếm những bức vẽ, minh họa của cha và rất nhiều bài thơ bị thất lạc. Đến giờ, ông mới chỉ có 2 tập thơ Lá và Tuyển tập Văn Cao. Từ lâu lắm, cha tôi đã có những bài thơ cô đúc và rất hiện đại, tinh tế và sâu thẳm."

Hiện nay cũng đang có một số đề xuất từ những người có vai trò trong quản lý văn hóa ở Việt Nam về việc dựng tượng đài Văn Cao ở một địa điểm công cộng (như một công viên nhỏ) tại Hà Nội. Những người ủng hộ đề xuất này bao gồm có nhà sử học Dương Trung Quốc, họa sĩ Trần Khánh Chương (hiện là Chủ tịch Hội Mỹ thuật Việt Nam), và nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân (hiện là Chủ tịch Hội Nhạc sĩ Việt Nam).

Trong lĩnh vực nhiếp ảnh, nhà nhiếp ảnh Nguyễn Đình Toán là người sở hữu một bộ ảnh với số lượng lớn về Văn Cao do chính ông tự tay chụp, do có nhiều điều kiện thời gian đến thăm Văn Cao những năm nhạc sĩ - thi sĩ còn sống. Nguyễn Đình Toán vốn quen biết và sống không xa nhà riêng của gia đình Văn Cao.

Trong lĩnh vực phim ảnh, đạo diễn Đinh Anh Dũng là người có dịp tiếp xúc với Văn Cao không lâu trước khi nhạc sĩ qua đời và đã đạo diễn 2 bộ phim tài liệu - ca nhạc về Văn Cao: Văn Cao - Giấc mơ một đời người (1992) và Văn Cao - Buổi sáng có trong sự thật (1995).

Trong lĩnh vực văn học, nhà nghiên cứu âm nhạc Nguyễn Thụy Kha, đồng thời là một nhà "Văn Cao học", cho xuất bản cuốn tiểu thuyết chân dung mang tên Văn Cao - Người đi dọc biển (Nhà xuất bản Phụ nữ, 2011).

Vinh danh

Một năm sau ngày nhạc sĩ Văn Cao mất, thành phố Hải Phòng đã đặt tên ông cho một con đường ở quận Ngô Quyền. Huế cũng đã có ngay đường "Văn Cao" ở phường Xuân Phú.
Đà Nẵng đã có đường "Văn Cao" ở quận Thanh Khê. Thành phố Hồ Chí Minh và Nam Định cũng đều có đường mang tên ông. Năm 2005, mười năm sau ngày Văn Cao mất, Hà Nội lấy tên "Văn Cao" đặt cho một tuyến phố thuộc hàng đẹp nhất của thủ đô nối từ Liễu Giai đến đường Hoàng Hoa Thám. Ông Nguyễn Quốc Triệu, chủ tịch thành phố thời gian đó, đích thân tới nhà gia đình Văn Cao vào hôm trước ngày giỗ của nhạc sĩ để báo tin. Đường Văn Cao sau đó đã được kéo dài xuyên qua đường Hoàng Hoa Thám, ra tận sát Hồ Tây.

Các con đường ở một số tỉnh thành tại Việt Nam có mang tên ông bao gồm:

Đường Văn Cao, phường Đằng Giang, quận Ngô Quyền, Hải Phòng

Đường Văn Cao, phường Thạc Gián và Vĩnh Trung, quận Thanh Khê, Đà Nẵng

Phố Văn Cao, phường Liễu Giai, quận Ba Đình và phường Thụy Khuê, quận Tây Hồ, Hà Nội

Đường Văn Cao, phường Phú Thạnh và Phú Thọ Hòa, quận Tân Phú, TP. Hồ Chí Minh

Đường Văn Cao, phường Tân Lợi, Buôn Ma Thuột, Đắk Lăk

Đường Văn Cao, phường An Hòa, Rạch Giá, Kiên Giang

Đường Văn Cao, Thị trấn Lạc Dương, huyện Lạc Dương, Lâm Đồng

Phố Văn Cao, phường Chi Lăng, Lạng Sơn, Lạng Sơn

Đường Văn Cao, phường Năng Tĩnh, phường Văn Miếu và xã Lộc An, Nam Định, Nam Định

Đường Văn Cao, phường Xuân Phú, Huế, Thừa Thiên – Huế

Đường Văn Cao, phường Mỹ Phước, Bến Cát Bình Dương

👁️ 5 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Văn Cao** (tên khai sinh là **Nguyễn Văn Cao**, 15 tháng 11 năm 1923 – 10 tháng 7 năm 1995) là một nhạc sĩ, họa sĩ, nhà thơ, chiến sĩ biệt động ái quốc người
**Mùa xuân đầu tiên** là ca khúc của nhạc sĩ Văn Cao sáng tác vào giáp Tết Bính Thìn (1976). Đây là ca khúc đầu tiên của ông sáng tác và được phổ biến, sau
**Van Cao's Meditation** là một tác phẩm khí nhạc độc tấu dành cho piano của nhà soạn nhạc đương đại người Mỹ Robert Ashley (1930–2014), sáng tác vào năm 1992. Bản nhạc này được Robert
**Văn Cao - Giấc mơ một đời người** là phim tài liệu - ca nhạc duy nhất về các sáng tác nhạc nổi tiếng của nhạc sĩ Văn Cao được ghi hình và sản xuất
**_Lá_** là tiêu đề tập thơ duy nhất được xuất bản của nhà thơ Văn Cao lúc ông còn sống. Tập thơ do Nhà xuất bản Tác phẩm Mới ấn hành năm 1988. Theo một
**Văn Cao - Người đi dọc biển** là cuốn tiểu sử dưới dạng một tiểu thuyết chân dung đầu tiên về nhạc sĩ - nhà thơ – họa sĩ Văn Cao. Tác giả cuốn sách,
**Làng tôi** là một bài hát được nhạc sĩ Văn Cao sáng tác. ## Sáng tác _Làng tôi_ được tác giả Văn Cao sáng tác vào năm 1947. Nhạc sĩ Văn Cao dành tặng bài
**Ai về Kinh Bắc** là một bài thơ của nhạc sĩ - thi sĩ - họa sĩ Văn Cao, được sáng tác năm ông 18 tuổi (1941), không lâu sau khi cha ông qua đời.
nhỏ|Hình ảnh Đường Văn Cao, Hà Nội **Đường Văn Cao** là một tuyến đường dài khoảng 1 km từ đường bờ phía nam hồ Tây (chỗ giáp ranh ngã ba Nguyễn Đình Thi - Trích Sài),
**Huỳnh Văn Cao** (1927 - 2013) là một cựu tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông là một trong số ít tướng lĩnh được Tổng thống
Áo thể thao ép vân cao cấp cho nam Áo ép vân thể thao nam chất thun lạnh co giãn cực tốt. Size 35-50kg =L Size xl:=52-60KG Size xxl: 62-70kg Size 3XL=72-80KG SIZE 4XL=80-100KGSIZE 5XL=100-120KG
Áo thể thao ép vân cao cấp cho nam Áo ép vân thể thao nam chất thun lạnh co giãn cực tốt. Size 35-50kg =L Size xl:=52-60KG Size xxl: 62-70kg Size 3XL=72-80KG SIZE 4XL=80-100KGSIZE 5XL=100-120KG
Áo thể thao ép vân cao cấp cho nam Áo ép vân thể thao nam chất thun lạnh co giãn cực tốt. Size 35-50kg =L Size xl:=52-60KG Size xxl: 62-70kg Size 3XL=72-80KG SIZE 4XL=80-100KGSIZE 5XL=100-120KG
Áo thể thao ép vân cao cấp cho nam Áo ép vân thể thao nam chất thun lạnh co giãn cực tốt. Size 35-50kg =L Size xl:=52-60KG Size xxl: 62-70kg Size 3XL=72-80KG SIZE 4XL=80-100KGSIZE 5XL=100-120KG
Áo thể thao ép vân cao cấp cho nam Áo ép vân thể thao nam chất thun lạnh co giãn cực tốt. Size 35-50kg =L Size xl:=52-60KG Size xxl: 62-70kg Size 3XL=72-80KG SIZE 4XL=80-100KGSIZE 5XL=100-120KG
Bộ van CAO ÁP ngắt gas tự động NA-537SH-VN là sản phẩm hợp tác - xuất khẩu Asahi Seisakusho - Nhật Bản. Với công nghệ chế tạo tiên tiến, cùng với trang thiết bị của
THẢM TẬP YOGA CAO SU THIÊN NHIÊN IN HOA VĂN CAO CẤP HÌNH CÔ GÁI Tập yoga cũng phải sang chảnh, tại sao không Bạn là người tập yoga lâu năm thì bạn biết rằng
**Nguyễn Văn Cao** (sinh ngày 13 tháng 10 năm 1958) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông từng là Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế nhiệm kì 2016-2021. ##
K.e.m đa năng Tử Vân Cao, dứt các bệnh vi.êm da cơ địa, nắm móng tay chân, bỏng, mẩn ngứa, á sừng, vảy nến, á sừng,
**Cao Bá Quát** (; 1808–1855), biểu tự **Chu Thần** (周臣), hiệu **Mẫn Hiên** (敏軒), lại có hiệu **Cúc Đường** (菊堂), là quân sư trong cuộc nổi dậy Mỹ Lương, và là một nhà thơ nổi
**Lý thuyết văn hóa đa chiều của Hofstede**, đề ra bởi nhà nhân chủng học người Hà Lan- Geert Hofstede, được coi là khuôn khổ cho sự giao tiếp đa quốc gia. Bằng việc phân
**Ngu Doãn Văn** (chữ Hán: 虞允文; ngày 14 tháng 12, 1110 – ngày 18 tháng 7, 1174), tự Bân Phủ (彬父), người Nhân Thọ, Long Châu , nhà văn hóa, nhà chính trị, tể tướng,
**Cao nguyên đá Đồng Văn** (hay **sơn nguyên Đồng Văn**) là một cao nguyên đá trải rộng trên các xã Tùng Vài, Nghĩa Thuận, Quản Bạ, Cán Tỷ, Bạch Đích, Thắng Mố, Lùng Tám, Yên
**Văn hóa Hải Phòng** là khái niệm nói về đặc trưng của vùng đất cửa biển được biết đến qua các loại hình văn hóa khác nhau như văn học nghệ thuật, sân khấu, âm
**Văn học tiếng Latinh** hay **văn học Latin/Latinh** bao gồm các bài tiểu luận, lịch sử, thơ ca, kịch và các tác phẩm khác được viết bằng ngôn ngữ Latinh. Sự khởi đầu của văn
**Phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm** là một phong trào văn hóa mang xu hướng chính trị của một số văn nghệ sĩ, trí thức sống ở miền Bắc dưới chính quyền Việt Nam
Sản phẩm thuộc dòng van bình cao áp, có ngắt gas tự động, với các ưu điểm Được chế tạo bằng công nghệ đúc áp lực tiên tiến. Trang thiết bị sử dụng trong quá
Thời Trang KenT Kính Chào Quý Khách: Bộ hè, Bộ thể thao nam NY chất liệu thun lụa cao cấp, dập vân cao tần, mềm mịn không nhăn, không xù ( nếu nhăn, xù shop
Kem nền BB STICK dạng thỏi che khuyết điểm 2 đầuChỉ cần 1Kem nền BB STICK dạng thỏi 2 đầu cao cấpthay thế cả kem dưỡng, kem lót, kem nền, che khuyết điểm, phấn phủ,
Miếng tất vớ độn lót giày tăng chiều cao silicon cho nam nữ 3.5 cm êm chân chống trượt - 1 Cặp ĐẶC ĐIỂM SẢN PHẢM - Vớ freesize dành cho cả nam lẫn nữ
Miếng tất vớ độn lót giày tăng chiều cao silicon cho nam nữ 3.5 cm êm chân chống trượt - 1 Cặp ĐẶC ĐIỂM SẢN PHẢM - Vớ freesize dành cho cả nam lẫn nữ
Miếng tất vớ độn lót giày tăng chiều cao silicon cho nam nữ 3.5 cm êm chân chống trượt - 1 Cặp ĐẶC ĐIỂM SẢN PHẢM - Vớ freesize dành cho cả nam lẫn nữ
Miếng tất vớ độn lót giày tăng chiều cao silicon cho nam nữ 3.5 cm êm chân chống trượt - 1 Cặp ĐẶC ĐIỂM SẢN PHẢM - Vớ freesize dành cho cả nam lẫn nữ
Miếng tất vớ độn lót giày tăng chiều cao silicon cho nam nữ 3.5 cm êm chân chống trượt - 1 Cặp ĐẶC ĐIỂM SẢN PHẢM - Vớ freesize dành cho cả nam lẫn nữ
Áo thể thao ép vân cao cấp cho nam Áo ép vân thể thao nam chất thun lạnh co giãn cực tốt. Size 35-50kg =L Size xl:=52-60KG Size xxl: 62-70kg Size 3XL=72-80KG SIZE 6XL=80-100KG theo
Áo thể thao ép vân cao cấp cho nam Áo ép vân thể thao nam chất thun lạnh co giãn cực tốt. Size 35-45kg =M L=45-50KG Size xl:=52-60KG Size xxl: 62-70kg Size 3XL=72-80KG SIZE 6XL=80-100KG
Áo thể thao ép vân cao cấp cho nam Áo ép vân thể thao nam chất thun lạnh co giãn cực tốt. Size 35-50kg =L Size xl:=52-60KG Size xxl: 62-70kg Size 3XL=72-80KG SIZE 6XL=80-100KG theo
Áo thể thao ép vân cao cấp cho nam Áo ép vân thể thao nam chất thun lạnh co giãn cực tốt. Size 35-50kg =L Size xl:=52-60KG Size xxl: 62-70kg Size 3XL=72-80KG SIZE 6XL=80-100KG theo
Áo thể thao ép vân cao cấp cho nam Áo ép vân thể thao nam chất thun lạnh co giãn cực tốt. Size 35-50kg =L Size xl:=52-60KG Size xxl: 62-70kg Size 3XL=72-80KG SIZE 6XL=80-100KG theo
Áo thể thao ép vân cao cấp cho nam Áo ép vân thể thao nam chất thun lạnh co giãn cực tốt. Size theo phom chuẩn, khách thấp béo tăng thêm 1 size. Khách cao
Áo thể thao ép vân cao cấp cho nam Áo ép vân thể thao nam chất thun lạnh co giãn cực tốt. Size 35-50kg =L Size xl:=52-60KG Size xxl: 62-70kg Size 3XL=72-80KG SIZE 6XL=80-100KG theo
Áo thể thao ép vân cao cấp cho nam Áo ép vân thể thao nam chất thun lạnh co giãn cực tốt. Size 35-50kg =L Size xl:=52-60KG Size xxl: 62-70kg Size 3XL=72-80KG SIZE 6XL=80-100KG theo
Áo thể thao ép vân cao cấp cho nam Áo ép vân thể thao nam chất thun lạnh co giãn cực tốt. Size theo phom chuẩn, khách thấp béo tăng thêm 1 size. Khách cao
Áo thể thao ép vân cao cấp cho nam Áo ép vân thể thao nam chất thun lạnh co giãn cực tốt. Size 35-50kg =L Size xl:=52-60KG Size xxl: 62-70kg Size 3XL=72-80KG SIZE 6XL=80-100KG theo
Áo thể thao ép vân cao cấp cho nam Áo ép vân thể thao nam chất thun lạnh co giãn cực tốt. Size theo phom chuẩn, khách thấp béo tăng thêm 1 size. Khách cao
Áo thể thao ép vân cao cấp cho nam Áo ép vân thể thao nam chất thun lạnh co giãn cực tốt. Size 35-50kg =L Size xl:=52-60KG Size xxl: 62-70kg Size 3XL=72-80KG SIZE 6XL=80-100KG theo
Áo thể thao ép vân cao cấp cho nam Áo ép vân thể thao nam chất thun lạnh co giãn cực tốt. Size 35-45kg =M L=45-50KG Size xl:=52-60KG Size xxl: 62-70kg Size 3XL=72-80KG SIZE 6XL=80-100KG
Áo thể thao ép vân cao cấp cho nam Áo ép vân thể thao nam chất thun lạnh co giãn cực tốt. Size 35-50kg =L Size xl:=52-60KG Size xxl: 62-70kg Size 3XL=72-80KG SIZE 6XL=80-100KG theo
Áo thể thao ép vân cao cấp cho nam Áo ép vân thể thao nam chất thun lạnh co giãn cực tốt. Size theo phom chuẩn, khách thấp béo tăng thêm 1 size. Khách cao
Áo thể thao ép vân cao cấp cho nam Áo ép vân thể thao nam chất thun lạnh co giãn cực tốt. Size 35-50kg =L Size xl:=52-60KG Size xxl: 62-70kg Size 3XL=72-80KG SIZE 6XL=80-100KG theo