✨Huỳnh Văn Cao

Huỳnh Văn Cao

Huỳnh Văn Cao (1927 - 2013) là một cựu tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông là một trong số ít tướng lĩnh được Tổng thống Ngô Đình Diệm tín nhiệm phong cấp tướng trong nền Đệ nhất Cộng hòa (Thiếu tướng 1962). Sau khi cuộc đời binh nghiệp của ông chấm dứt bởi vụ "Biến động Miền Trung", ông tham gia chính trường và trở thành một Thượng nghị sĩ cho đến ngày Chính thể Việt Nam Cộng hòa sụp đổ.

Tiểu sử và binh nghiệp

Ông sinh ngày 26 tháng 9 năm 1927 tại Phủ Cam, Huế, trong một gia đình Công giáo. Đương thời, thân phụ ông là một chức sắc trong Hội đồng Giáo xứ Phủ Cam (tục gọi là cụ kiểm Hóa). Năm 1945, ông tốt nghiệp ban Hội họa Trắc lượng tại trường Kỹ nghệ thực hành Huế, được cấp chứng chỉ tốt nghiệp tương đương với văn bằng Tú tài bán phần (Part I). Ra trường, ông được bổ dụng làm công chức phục vụ tại Sở Công chánh Đà Nẵng.

Quân đội Quốc gia

Bước đầu binh nghiệp

Tháng 9 năm 1949, theo lệnh động viên của Quốc trưởng Bảo Đại, ông được lệnh nhập ngũ. Do có trình độ Tú tài, ông được cho theo học khóa 2 Quang Trung tại trường Võ bị Quốc gia Huế, khai giảng ngày 25 tháng 9 năm 1949, để được đào tạo trở thành sĩ quan cho Quân đội Quốc gia Việt Nam trong tương lai. Ngày 24 tháng 6 năm 1950, ông mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch và được điều động phục vụ trong một Tiểu đoàn Bộ binh Việt Nam (BVN) thuộc Quân đội Liên hiệp Pháp.

Cuối tháng 5 năm 1950, ông được cử làm Trung đội trưởng của Đại đội Phú Vang thuộc Trung đoàn Duy Tân, thuộc Lực lượng Vệ binh Trung Việt. Qua năm 1951, ông chuyển sang giữ chức vụ Đại đội trưởng Đại đội 1 thuộc Tiểu đoàn 8 Việt Nam (8e BVN).

Giữa năm 1952, ông chuyển sang phục vụ Quân đội Quốc gia, ông được thăng cấp Trung úy và chuyển trở lại lực lượng Vệ binh Trung Việt, nhận nhiệm vụ Xử lý Thường vụ chức vụ Trung đoàn trưởng Trung đoàn Nguyễn Huệ, đồn trú tại Đồng Hới. Cùng năm theo học lớp Chỉ huy Chiến thuật cao cấp tại Hà Nội. Mãn khóa học, trở về đơn vị ông được cử giữ chức vụ Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 29 Việt Nam (29e BVN). Sau đó ông chuyển công tác sang phục vụ tại Tiểu đoàn 30 Lưu động ở Đông Hà. Cuối năm 1953, ông được thăng cấp Đại úy và chuyển đi làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 607 Địa phương.

Sau Hiệp định Genève (20 tháng 7) năm 1954, ông giữ chức vụ Tham mưu trưởng kiêm Trưởng phòng 3 Tiểu khu Phan Thiết. Cuối năm, đảm nhiệm chức vụ sĩ quan liên lạc của Thủ tướng Ngô Đình Diệm.

Quân đội Việt nam Cộng hòa

Quan lộ hanh thông

Là một tín đồ Công giáo, ông nhiệt tình ủng hộ Thủ tướng Ngô Đình Diệm nắm quyền chính thay Quốc trưởng Bảo Đại, vì thế rất được Thủ tướng Diệm chú ý và tín nhiệm. Cuối năm 1955, sau khi Chính thể Việt Nam Cộng hòa được thành lập, ông được thăng cấp Thiếu tá giữ chức vụ Tham mưu trưởng Biệt bộ Tham mưu tại phủ Tổng thống. Ngày Quốc khánh Đệ nhất Cộng hòa 26 tháng 10 năm 1957, ông được thăng cấp Trung tá và được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 13 Khinh chiến, đồn trú tại Bến Kéo, Tây Ninh, vốn là một căn cứ cũ của Quân đội Giáo phái Cao Đài.

Giữa năm 1958, bàn giao chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 13 lại cho Trung tá Nguyễn Quang Thông. Sau đó ông được cử đi du học tại Hoa Kỳ, thụ huấn 3 khóa học Chỉ huy và Tham mưu tại Fort Leavenworth, Tiểu bang Kansas, khóa Hành chánh và Quân chánh tại Fort Gordon, Tiểu bang Georgia và khóa Hành quân Không vận tại Biloxi, Tiểu bang Mississippi. Cuối tháng 3 năm 1959, mãn khóa về nước ông được thăng cấp Đại tá và được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 7 bộ binh thay thế Đại tá Trần Thiện Khiêm.

Thượng tuần tháng 12 năm 1962, ông được thăng cấp Thiếu tướng, bàn giao chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 7 lại cho Đại tá Bùi Đình Đạm để đi giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Phân khu miền Tây của Quân đoàn III và Vùng 3 chiến thuật, Bộ chỉ huy đặt tại Cần Thơ. Ngày 1 tháng 1 năm 1963, Quân đoàn IV và Vùng 4 chiến thuật được thành lập trên cơ sở của Phân khu miền Tây, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh.

Binh nghiệp dập dềnh

Chỉ một ngày sau khi nhậm chức Tư lệnh Quân đoàn IV và Vùng 4 chiến thuật, theo kế hoạch định sẵn, ông ra lệnh cho tân Tư lệnh Sư đoàn 7 là Đại tá Bùi Đình Đạm tổ chức cuộc hành quân vào Ấp Bắc thuộc tỉnh Định Tường nhằm tiêu diệt một Đại đội Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và một đài phát radio đóng tại đây. Cuộc hành quân với sự tham gia của một Tiểu đoàn Bộ binh của Sư đoàn 7 và 2 tiểu đoàn bảo an, 1 chi đoàn thiết giáp (13 xe thiết giáp M.113) và 3 Đại đội Bộ binh (trong đó có 2 Đại đội làm lực lượng trừ bị), khoảng 8 máy bay ném bom, 20 trực thăng đổ quân và vũ trang, 11 máy bay quan sát và vận tải, 13 tàu xuồng các loại và khoảng 1 Tiểu đoàn Pháo binh chi viện. Tổng cộng gần 1.800 quân do Đại tá Đạm và Trung tá Cố vấn John Paul Vann trực tiếp chỉ huy. Tuy nhiên, cuộc hành quân nhanh chóng trở thành thảm họa, khi không đạt được mục tiêu vây bắt và tiêu diệt đối phương, nhưng lại phải trả một cái giá quá đắt về thiệt hại cũng như thất bại chiến thuật trước một đối thủ thua kém về trang bị lẫn quân số. Tháng 9 cùng năm, ông được giao chỉ huy cuộc hành quân giải tỏa quận Đầm Dơi.

Một ngày sau khi trận Ấp Bắc diễn ra, ông đã tổ chức một đợt tấn công Thất Bại Không Hề Gây Thiệt Hại cho Kẻ Địch mà còn Gây Thêm Thiệt Hại Không Đáng Có cho quân lực Việt Nam cộng hòa:

Ngày 3/1/1963, chuẩn tướng Robert York đi cùng các phóng viên đến Ấp Bắc để đánh giá về trận thua mất mặt hôm trước của quân lực Việt Nam Cộng hòa. Họ đang xem xét chiến trường thì một loạt pháo bất ngờ vang lên. Đó là đợt tấn công mới vào Ấp Bắc do tướng Huỳnh Văn Cao chỉ huy, sau khi đối phương đã rút hết......một ngày trước đó.

Theo Neil Sheehan, đó là đợt tấn công giả để tướng Cao ghi điểm với tổng thống là mình đã nỗ lực đẩy lui Quân Giải phóng khỏi Ấp Bắc. Tướng Cao báo cáo rằng vẫn còn "Việt cộng" trong các hố cá nhân và ông ta sẽ xử lý họ.

Không may là viên trung úy đọc bản đồ có tí nhầm lẫn, nên đạn pháo rơi xuống đầu......lính Việt Nam Cộng hòa đang dọn dẹp chiến trường, 4 người chết.

Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963

Khi cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963 xảy ra, ông là một trong số ít tướng lĩnh trung thành với Tổng thống Ngô Đình Diệm. Tuy nhiên, ông lại không thể đưa quân về ứng cứu được do Hội đồng Quân nhân Cách mạng đề phòng trước và đã rút hết các phà của bến phà Mỹ Thuận về phía bờ bắc của sông Tiền. Cũng vì lý do này nên mặc dù đã tuyên bố phục tùng quyết định của nhóm tướng lĩnh đảo chính khi nhận thấy tình hình không thể cứu vãn. Nhưng ngày 3 tháng 11, ông vẫn bị cách chức Tư lệnh Quân đoàn IV và bị đổi đi làm Chỉ huy trưởng Trung tâm Phát triển Khả năng Tác chiến (trong khi chờ bổ nhiệm tân tư lệnh Quân đoàn là Thiếu tướng Nguyễn Hữu Có, Đại tá Bùi Hữu Nhơn đương nhiệm phó tư lệnh, tạm thời quyền tư lệnh Quân đoàn thời gian 4 ngày). Ngày 20 tháng 3 năm 1964, ông lãnh nhiệm vụ hướng dẫn Phái đoàn Việt Nam Cộng hòa sang Campuchia tham dự Hội nghị về Biên giới Việt-Cam. Ngày 4 tháng 5 cùng năm, ông được giao kiêm chức vụ Tổng giám đốc Văn phòng Dân ý vụ.

Đầu tháng 1 năm 1965, sau một thời gian bị đình chỉ công vụ, ông được cử giữ chức vụ Tổng cục trưởng Tổng cục Chiến tranh Chính trị thay thế Trung tướng Mai Hữu Xuân kiêm Tổng thư ký Ủy ban Thường vụ Hội đồng Quân lực do Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ tịch.

Biến động Miền Trung

Thượng tuần tháng 3 năm 1966 xảy ra vụ "Biến động Miền Trung" tại Vùng 1 chiến thuật, do các tướng lĩnh ở Quân đoàn I không có khả năng dập tắt được nội vụ nên ngày 15 tháng 5 năm 1966, ông được cử đi làm Tư lệnh Quân đoàn I thay thế Trung tướng Tôn Thất Đính sau khi chuyển giao Tổng cục Chiến tranh Chính trị cho Thiếu tướng Nguyễn Bảo Trị. Tuy nhiên, ông không thực hiện được hành động gì để cải thiện tình hình, vì vậy chỉ sau 2 tuần tại chức ngày 30 tháng 5 năm 1966 ông bị cách chức sau khi bàn giao chức tư lệnh Quân đoàn lại cho Thiếu tướng Hoàng Xuân Lãm để về trình diện Trung ương. Ngày 14 tháng 7 cùng năm, ông và một số tướng lĩnh khác bị đưa ra xét xử tại Hội đồng Kỷ luật và bị buộc phải giải ngũ.

Chính khách

Năm 1967, ông ra tranh cử Thượng nghị sĩ nhiệm kỳ 1967-1973, Thụ uỷ Liên danh Trời Việt và đắc cử vào Thượng viện trong Quốc hội Lưỡng viện của Việt Nam Cộng hòa. Từ 1971 đến 1975, ông được các nghị viên trong Thượng viện tín nhiệm bầu làm Đệ nhất Phó Chủ tịch Thượng nghị viện.

Cuộc sống lưu vong

Ngày 29 tháng 4, phu nhân của ông cùng 8 người con di tản khỏi Sài Gòn và sau đó đến định cư tại Hoa Kỳ. Riêng ông ở lại và chính quyền mới đưa đi học tập và cải tạo từ Nam ra Bắc, mãi đến ngày 14 tháng 9 năm 1987 mới được trả tự do.

Sau khi học tập và cải tạo, ông về sống với gia đình người con trai trưởng (Huỳnh Thái Sơn). Ngày 25 tháng 4 năm 1990, ông cùng gia đình người con này xuất cảnh đi đoàn tụ với phu nhân và những người con khác, định cư tại Tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ.

Trong những năm cuối đời, ông là cộng tác viên của Tạp chí Vietnam Magazine. Ông cũng là tác giả của quyển "Vietnam: Today & Tomorrow"

Ngày 26 tháng 2 năm 2013, ông từ trần tại nơi định cư. Hưởng thọ 86 tuổi.

Tác phẩm

He grows under fire (Trưởng thành trong lửa đạn - 1959) People's strategy (Thế chiến Nhân dân - 1960) Cách mạng và Chủ nghĩa (1964) Chiến thuật Nội hóa (1964) Vietnam Key to World Peace (Việt Nam, chìa khóa dẫn đến Hòa bình Thế giới - 1965) Mối tình đầu (1966) Lòng ái quốc (1970) Secret Talk in Communist Prison (Mặt trái ở nhà tù Cộng sản - 1990) Hướng về Việt Nam (1991) Một kiếp người (1993) *Vietnam Today and Tomorrow (Việt Nam hôm nay và ngày mai - 1995)

Gia đình

Thân phụ: Huỳnh Văn Hóa Thân mẫu: Nguyễn Thị Mai Phu nhân: Ngô Thị Xuân Minh Bào đê: Huỳnh Văn Phước, Huỳnh Văn Phận, Huỳnh Văn Phúc, Huỳnh Văn Đức. *Bào muội: Huỳnh Thị Thương, Huỳnh Bích Châu :-Ông bà có chín người con (6 trai, 3 gái):
-Huỳnh Thái Sơn, Huỳnh Thu Hà, Huỳnh Việt Tuấn, Huỳnh Việt Dũng, Huỳnh Việt Hùng, Huỳnh Thủy Tiên, Huỳnh Thu Minh, Huỳnh Hải Đức, Huỳnh Việt Huy.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Huỳnh Văn Cao** (1927 - 2013) là một cựu tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông là một trong số ít tướng lĩnh được Tổng thống
**Huỳnh Văn Lưu** (sinh ngày 26 tháng 10 năm 1961) là kiểm sát viên cao cấp và thẩm phán Việt Nam. Ông hiện giữ chức vụ Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng
**Huỳnh Văn Ri** (sinh ngày 10 tháng 10 năm 1964) là kiểm sát viên cao cấp người Việt Nam. Ông hiện giữ chức vụ Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại
**Huỳnh Văn Nghệ** (1914-1977) là một nhà hoạt động cách mạng và là một chỉ huy quân sự Việt Nam, nổi tiếng về tài thi ca, có những câu thơ được nhiều người truyền tụng.
**Huỳnh Văn Lạc** (sinh năm 1927) nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên tại trường Sĩ
**Huỳnh Văn Gấm** (10 tháng 3 năm 1922 tại Bình Lập, Châu Thành, Tân An - 1987 tại Thành phố Hồ Chí Minh) là một họa sĩ Việt Nam. ## Học vấn Huỳnh Văn Gấm
nhỏ|Huỳnh Văn Trí (1903/1909 - 1979)|282x282px **Huỳnh Văn Trí** (1903/1909 - 1979) là một chính khách trong Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam. Ông
**Huỳnh Văn Thắng** (sinh năm 1951) là một tình báo viên mật danh **F.5** của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam trong chiến tranh Việt Nam. Ông được biết đến với
**Huỳnh Văn Có** (1935 – 2015) là một trong 2 môn sinh Judo người Việt đầu tiên đạt chuẩn đai đen quốc tế trong kỳ thi do Học viện Judo Kodokan (Nhật Bản) tổ chức
**Ông cố vấn: Người bị bắt** () là một phim gián điệp của đạo diễn Lê Dân, xuất phẩm ngày 02 tháng 09 năm 1996 tại Hà Nội. ## Lịch sử Truyện phim phỏng theo
**Lưu huỳnh** (tên khác: **_Sulfur_** (đọc như _"Xun-phu"_), **_lưu hoàng_** hay **_diêm sinh_**) là nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn có ký hiệu **S** và số nguyên tử 16. Nó là một phi
**Lưu huỳnh hexafluoride** (công thức hóa học: **SF6**) là một hợp chất vô cơ, không màu, không mùi, không cháy, là một loại khí nhà kính vô cùng và là chất cách điện tốt.
**Huỳnh Thúc Kháng** (chữ Nho: 黃叔沆, 1 tháng 10 năm 1876 – 21 tháng 4 năm 1947), tự **Giới Sanh**, hiệu **Mính Viên** (hay đôi khi được viết là **Minh Viên**), là một chí sĩ
nhỏ|phải|Tòa Thánh Tây Ninh, Trung ương Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh. **Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa Thánh Tây Ninh**, còn được gọi tắt là **Hội Thánh Cao Đài
**Bắc Tề Văn Tuyên Đế** (北齊文宣帝) (526–559), tên húy là **Cao Dương** (高洋), tên tự **Tử Tiến** (子進), miếu hiệu là Hiển Tổ, là vị hoàng đế khai quốc của triều đại Bắc Tề trong
**Huỳnh Công Thành** (1930-1973), nguyên là sĩ quan Bộ binh cao cấp của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Đại tá. Ông xuất thân từ khóa đầu tiên ở trường Sĩ quan Trừ
**Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh** (Viện cấp cao 3) là Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Việt Nam có trụ sở tại Thành phố Hồ
**Sân vận động Thống Nhất** (trước đây là **Vận động Trường Cộng Hòa**) là một sân vận động đa năng ở Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Sân nằm ở số 138 Đào Duy
Nhà văn **Nguyên Hùng** có tên khai sinh là **Mạc Đăng Thân**, sinh ngày 19 tháng 4 năm 1927 tại Côn Đảo, quê gốc tại Cao Lãnh, Đồng Tháp, mất ngày 28 tháng 3 năm
**Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1954** gắn liền với hai sự kiện có ảnh hưởng căn bản và sâu rộng đến mọi mặt của đời sống chính trị, xã hội Việt Nam:
**Lâm Văn Phát** (1920-1998) nguyên là một cựu tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ khóa đầu tiên ở trường Võ bị Liên
**Trần Văn Giàu** (11 tháng 9 năm 1911 – 16 tháng 12 năm 2010) là nhà hoạt động cách mạng lão thành, nguyên Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ, nguyên Chủ tịch Ủy ban kháng
**Viện Văn học (Việt Nam)** (tên giao dịch quốc tế: _(Vietnam) Institute of Literature_, viết tắt là IOL) là tổ chức khoa học và công nghệ công lập trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học
**Nguyễn Văn Là** (1918-1990) nguyên là một cựu tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông nguyên được đào tạo trong môi trường Quân đội từ nhỏ
**Cao Khai Đạo** (, ? - 624), là một thủ lĩnh nổi dậy chống lại sự cai trị của triều Tùy vào cuối thời gian trị vì của Tùy Dạng Đế. Cao Khai Đạo chiếm
MÔ TẢ SẢN PHẨMNGỌC LINH_SÂM thảo dược tái tạo : 1:kiến tạo sắc đẹp hoàn mỹ:boom::boom::boom:HOÀN TIỀN GẤP 10 LẦN NẾU KHÔNG HIỆU QUẢCông dụng :Sạch các loại mụn (mụn bọc, mụn trứng cá, mụn
**Cao Ly Túc Tông** (Hangul: 고려 숙종, chữ Hán: 高麗 肅宗; 2 tháng 9 năm 1054 – 10 tháng 11 năm 1105, trị vì 1095 – 1105) là quốc vương thứ 15 của vương triều
Bàn thờ Nguyễn Huỳnh Đức tại khu đền mộ ở Tân An. **Nguyễn Huỳnh Đức** (chữ Hán: 阮黃德; 1748 - 1819) là danh tướng và là công thần khai quốc của nhà Nguyễn. Ông là
**Văn hóa Sa Huỳnh** là một nền văn hóa khảo cổ được xác định ở vào khoảng năm 1000 TCN đến cuối thế kỷ thứ 2. Nền văn hóa Sa Huỳnh là một trong ba
**Giuse Maria Trịnh Văn Căn** (19 tháng 3 năm 1921 – 18 tháng 5 năm 1990) là một hồng y và dịch giả Công giáo người Việt Nam. Ông cũng là Tổng giám mục thứ
**Lại Lý Huynh** (sinh ngày 16 tháng 5 năm 1990) là một vận động viên cờ tướng người Việt Nam, đạt danh hiệu đặc cấp quốc tế đại sư. Lại Lý Huynh từng giành chức
**Phaolô Huỳnh Đông Các** (1923–2000) là một giám mục của Giáo hội Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Giám mục chính tòa của Giáo phận Qui Nhơn. Khẩu hiệu giám mục của
**Lĩnh binh Tấn** (1837 –1874), tên thật là **Huỳnh Tấn**, hay **Huỳnh Văn Tấn**, **Huỳnh Công Tấn**, là một cộng sự đắc lực của thực dân Pháp trong việc đàn áp các cuộc khởi nghĩa
**Huỳnh Thị Bảo Hòa** (1896 - 1982), tên thật là **Huỳnh Thị Thái**, bút danh là **Huỳnh Bảo Hòa** hay **Huỳnh Thị Bảo Hòa**; là một nữ sĩ Việt Nam thời hiện đại. Theo một
**Huỳnh Lỗi** (sinh ngày 6 tháng 12 năm 1971 tại Nam Xương, Giang Tây, Trung Quốc) là nam diễn viên điện ảnh, đạo diễn, ca sĩ, biên kịch và người mẫu, hiện tại Huỳnh Lỗi
nhỏ|Tượng bán thân Paulus Huỳnh Trịnh Của của Sylvain Raffergaud. Được lưu giữ tại bảo tàng Quai Branly. Dòng chữ bên dưới tượng đề "Paulus Cua, Doc Phu Su". (Paulus Của, Đốc Phủ Sứ). **Huỳnh
**Cao Quýnh** (chữ Hán: 高熲, 541 - 607), hay **Độc Cô Quýnh** (獨孤熲) tên tự là **Chiêu Huyền** (昭玄), còn có tên khác là Mẫn, nguyên quán ở huyện Tự Vân, quận Bột Hải, là
**Louis (hay Aloisio hoặc Luy) Phạm Văn Nẫm** (1919–2001) là một giám mục của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam. Ông nguyên là Giám mục phụ tá của Tổng giáo phận Thành phố Hồ
**Huỳnh Đức Thơ** (sinh năm 1962) là một chính khách Việt Nam. Ông từng là Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Đà Nẵng khóa IX. Trong Đảng Cộng sản Việt Nam, ông từng
**Huỳnh Tấn Phát** (1913 – 1989) là Chủ tịch Cộng hòa miền Nam Việt Nam (1969 – 1976), Phó Thủ tướng, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
**Khu di chỉ văn hóa Sa Huỳnh** là cụm di chỉ khảo cổ tại thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, nơi phát hiện ra nền văn hóa Sa Huỳnh. Cụm di chỉ này gồm
**Đặng Văn Thụy** (1858–1936), tên lúc nhỏ là **Đặng Văn Tụy**, tự **Mã Phong**, hiệu **Mộng Long**, tên thường gọi trong dân gian là **cụ Hoàng Nho Lâm**. Ông đậu Đình nguyên Hoàng Giáp khoa
**Phaolô Bùi Văn Đọc** (11 tháng 11 năm 1944 – 7 tháng 3 năm 2018) là một giám mục Giáo hội Công giáo Roma người Việt Nam. Ông nguyên là Chủ tịch Hội đồng Giám
Nấm Huỳnh Gia là một công ty sản xuất sản phẩm hàng đầu về Nấm và liên quan đến Nấm trong khu vực miền nam, Công ty TNHH Nấm Huỳnh Gia luôn đảm bảo chất
Nấm Huỳnh Gia là một công ty sản xuất sản phẩm hàng đầu về Nấm và liên quan đến Nấm trong khu vực miền nam, Công ty TNHH Nấm Huỳnh Gia luôn đảm bảo chất
**Phạm Huỳnh Đông** (sinh ngày 5 tháng 11 năm 1983), thường được biết đến với nghệ danh **Huỳnh Đông**, là một nam diễn viên người Việt Nam. Anh bắt đầu nổi tiếng với vai Quân
**Huỳnh Tiền** (1916–1996) tên thật là **Huỳnh Văn Tiền**, là một đại võ sư nổi tiếng người Việt Nam bộ môn quyền Anh. Ông là người đào tạo ra nhiều thế hệ võ nổi tiếng
**Phaolô Nguyễn Văn Bình** (1 tháng 9 năm 1910 – 1 tháng 7 năm 1995) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Tổng giám mục Tiên khởi của Tổng
**Huỳnh Thị Cúc** (黃氏菊, ? - 1802), là một trong Tây Sơn ngũ phụng thư, và là một nữ tướng của triều Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Bà là người
**Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật** là 1 trong 2 lĩnh vực của Giải thưởng Nhà nước, do Chủ tịch nước Việt Nam ký quyết định, tặng thưởng cho những tác giả