✨Sơn Vĩ (Bắc Ngụy)

Sơn Vĩ (Bắc Ngụy)

Sơn Vĩ (chữ Hán: 山伟, ? – ?), tự Trọng Tài, người dân tộc Tiên Ti, tịch quán ở Lạc Dương, Hà Nam, nguyên quán ở quận Đại (nay thuộc Sơn Tây), quan viên cuối đời Bắc Ngụy. Ông giữ trách nhiệm ghi chép quốc sử, nhưng bỏ phế khoảng 20 năm không có thêm chữ nào, khiến cho sách sử của nhà Bắc Ngụy gặp nhiều khiếm khuyết hơn hẳn các triều đại khác trong lịch sử Trung Quốc.

Thân thế

Ông nội là Sơn Cường, dung mạo đẹp dẽ, mình dài 8 thước 5 tấc, giỏi cưỡi ngựa bắn tên, giương được cung có sức kéo 5 thạch. Cường làm Tấu sự trung tán, theo Bắc Ngụy Hiến Văn đế đi săn ở Phương Sơn, có hai con cáo chạy đến trước mắt hoàng đế, vì thế đế giáng chiếu sai Cường bắn chúng, trong vòng trăm bước cả hai con cáo đều bị bắt. Cường làm đến Nội hành trưởng.

Cha là Sơn Trĩ Chi , từng làm Doanh Lăng lệnh. Vĩ theo cha đến huyện, thờ người trong huyện là Vương Huệ làm thầy, học khắp kinh sử. Trĩ Chi làm đến Kim Minh thái thú.

Sự nghiệp

Đầu thời Hiếu Minh đế, Nguyên Khuông làm Ngự sử trung úy, lấy Vĩ kiêm chức Thị ngự sử. Vào Đài thành mới 5 ngày thì gặp tết Nguyên đán, Vĩ coi cửa Thần Vũ, chú họ bên vợ làm Vũ Lâm đội chủ, đánh Trực trưởng ở cửa điện, ông lập tức hặc tấu. Nguyên Khuông khen ngợi, được ít lâu tâu xin cho Vĩ chuyển sang tham gia chánh sự. Sau đó Vĩ được thiếp (tức là bổ thêm) làm Quốc tử trợ giáo, rồi thăng làm Viên ngoại lang, Đình úy bình.

Bấy giờ Bắc Ngụy chưa phát sinh chiến sự, quan lại khó lòng thăng tiến, mà người gốc Đại quận phần nhiều lại không có quan hệ trong triều đình. Đến khi hai phương Lục trấn, Lũng Tây khởi nghĩa, quyền thần Nguyên Xoa muốn dùng người Đại đến truyền chiếu vỗ về dân nghèo, nên con cháu mục thú tình nguyện có hơn trăm người; Xoa lại muốn tận dùng bọn họ, nhân đó tâu xin lập đội Huân phụ (tức là quý tộc), tuyển chọn dựa vào xuất thân. Từ đây người phương bắc mới được thu dùng. Vĩ bèn tâu lên, ca ngợi đức hạnh của Xoa; Xoa vốn không biết Vĩ, hỏi thăm Thị trung, An Phong vương Nguyên Duyên Minh, Hoàng môn lang Nguyên Thuận, bọn Thuận nhân vậy khen ngợi và tiến cử ông. Xoa lệnh cho bộc xạ Nguyên Khâm tiến dẫn Vĩ kiêm Thượng thư nhị thiên thạch lang, sau đó chánh danh làm Sĩ lang. Vĩ được làm Tu khởi cư chú ; sau đó bộc xạ Nguyên Thuận giữ trách nhiệm Lĩnh tuyển, dâng biểu tiến cử ông làm Gián nghị đại phu.

Khi Nhĩ Chu Vinh gây ra biến cố Hà Âm, Vĩ đang trực trong cung, nên tránh được vạ. Đến khi Hiếu Trang đế vào cung, tiếp tục cho Vĩ trừ chức Cấp sự hoàng môn thị lang. Ít lâu Vĩ được lĩnh Trước tác lang.

Tiết Mẫn đế lên ngôi, Vĩ được trừ chức An đông tướng quân, Bí thư giám, vẫn làm Trước tác. Vĩ tự nhận có công giữ gìn quốc sử trong lúc chiến loạn, lại nhờ dựa dẫm Nhĩ Chu Thế Long, nên được phong Đông A huyện bá. Sau đó Vĩ được tiến làm Thị trung.

Đầu thời Đông Ngụy Hiếu Tĩnh đế, Vĩ được trừ chức Vệ đại tướng quân, Trung thư lệnh, Giám khởi cư. Sau đó Vĩ được giữ bản quan, trở lại lĩnh chức Trước tác, rồi mất khi đang ở chức; được tặng Phiếu kỵ đại tướng quân, Khai phủ nghi đồng tam tư, Đô đốc, U Châu thứ sử, thụy là Văn Trinh công. Con là Sơn Ngang được tập tước.

Tính cách

Quốc sử nhà Bắc Ngụy được các danh nho Đặng Uyên, Thôi Sâm, Thôi Hạo, Cao Doãn, Lý Bưu, Thôi Quang nối nhau biên soạn, cho đến khi Vĩ với Kỳ Tuấn gièm pha với Thượng Đảng vương Nguyên Thiên Mục và sau đó là Nhĩ Chu Thế Long, rằng quốc thư thì phải giao cho người Đại tu sửa và tập hợp, không nên giao cho người nơi khác; thế là Tuấn, Vĩ thay nhau giữ lấy bộ sách này. Nhưng bọn Vĩ chỉ lưu giữ mà không ghi chép thêm chữ nào, từ khi Thôi Hồng mất cho đến khi Vĩ hết đời là chừng hai mươi năm, chính là giai đoạn loạn lạc cuối đời Bắc Ngụy, có rất nhiều sự kiện, đời sau chấp bút nhưng thiếu thốn chứng cứ, sự thiếu hụt sử liệu về nhà Bắc Ngụy là do Vĩ mà ra. Sau khi Nhĩ Chu Triệu vào Lạc Dương, quan lại tan chạy, Quốc sử điển thư Cao Pháp Hiển đem chôn sử thư (của nhà Bắc Ngụy), nên không bị thất lạc. Vĩ tự lấy làm công của mình, để cầu phong thưởng, xu phụ Nhĩ Chu Thế Long, nên được phong Bá tước, còn Cao Pháp Hiển chỉ được Nam tước.

Vĩ ra vẻ thâm trầm và nhân hậu, thật ra hăng hái và ganh đua, thời trẻ ông cùng Kỳ Tuấn rất thân thiết, nhưng cuối đời tranh giành danh vị mà trở nên như nước với lửa. Vĩ kết đảng với Vũ Văn Trung Chi, tập hợp nhưng người gốc Đại, bậc danh hiền đương thời đều ghét sợ họ.

Nhưng Vĩ yêu chuộng văn sử, càng già càng ham đọc sách. Em trai Vĩ mất sớm, ông nuôi vợ góa, dạy con thơ của anh ta, cho ở cùng nhà hơn 20 năm, ân nghĩa rất hậu. Vĩ làm quan không thu vén cho riêng mình, đến khi mất gia đình phải bán nhà để lo tang sự, vợ con phiêu bạc, khiến kẻ sĩ thương xót.

Dị sự

Trước khi xảy ra biến cố Hà Âm, Vĩ với Nghi tào lang Viên Thăng, Đồn điền lang Lý Duyên Hiếu, Ngoại binh lang Lý Hoán, Tam công lang Vương Duyên Nghiệp đang đi xe ngựa, nhưng ông đi chậm hơn một chút. Trên đường gặp một ni cô, nhìn bọn Thăng mà than rằng: "Duyên nghiệp của bọn mày, là chết cùng ngày." Lại nói với Vĩ rằng: "Anh nên ở gần thiên tử, sẽ được chức quan tốt." Bọn Thăng đều bị hại ở Hà Âm, mọi việc quả như lời ấy.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Sơn Vĩ** (chữ Hán: 山伟, ? – ?), tự Trọng Tài, người dân tộc Tiên Ti, tịch quán ở Lạc Dương, Hà Nam, nguyên quán ở quận Đại (nay thuộc Sơn Tây), quan viên cuối
**Bắc Ngụy Thái Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏太武帝; 408 – 11 tháng 3, 452), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông thường được nhìn nhận
**Bắc Ngụy Tuyên Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏宣武帝; 483 – 13/1 ÂL (12/2 DL) 515), tên húy lúc sinh là **Thác Bạt Khác** (拓拔恪), sau đổi thành **Nguyên Khác** (元恪) là hoàng đế thứ tám
**Bắc Ngụy Đạo Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏道武帝; 371–409), tên húy là **Thác Bạt Khuê** (拓拔珪), tên lúc sinh là **Thác Bạt Thiệp Khuê** (拓拔渉珪), là hoàng đế khai quốc của triều đại Bắc Ngụy
**Nhà Bắc Ngụy** (tiếng Trung: 北魏朝, bính âm: běi wèi cháo, 386–535), còn gọi là **Thác Bạt Ngụy** (拓拔魏), **Hậu Ngụy** (後魏) hay **Nguyên Ngụy** (元魏), là một triều đại thời Nam Bắc triều trong
**Bắc Ngụy Minh Nguyên Đế** (chữ Hán: 北魏明元帝; 392–423), tên húy là **Thác Bạt Tự** (拓拔嗣), là hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con trai
**Chiến tranh Nam Tề-Bắc Ngụy** diễn ra vào thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Nam Tề và nhà Bắc Ngụy. Từ năm 479 đến năm 500, Nam Tề cùng Bắc Ngụy
**Bắc Ngụy Hiếu Minh Đế** (chữ Hán: 北魏孝明帝; 510 – 31/3/528) tên húy là **Nguyên Hủ** (), là hoàng đế thứ chín của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Do ông chỉ
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
**Bắc Ngụy Hiến Văn Đế** (chữ Hán: 北魏獻文帝; 454–476), tên húy là **Thác Bạt Hoằng** (), là hoàng đế thứ sáu của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Năm 471, ông trở
**Bắc Ngụy Hiếu Trang Đế** (chữ Hán: 北魏孝莊帝; 507–531), tên húy là **Nguyên Tử Du** (), là hoàng đế thứ 11 triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông được tướng Nhĩ Chu
**Hồ thái hậu** (chữ Hán: 胡太后, ? - 17 tháng 5, năm 528), còn thường gọi là **Linh thái hậu** (靈太后), một phi tần của Bắc Ngụy Tuyên Vũ Đế, và Hoàng thái hậu nhiếp
**Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế** (chữ Hán: 北魏孝文帝; 13 tháng 10 năm 467 – 26 tháng 4 năm 499), tên húy lúc sinh là **Thác Bạt Hoành** (拓拔宏), sau đổi thành **Nguyên Hoành** (元宏), là
**Lý Mậu** (chữ Hán: 李茂, 432 – 502), tên tự là **Trọng Tông**, người huyện Địch Đạo, quận Lũng Tây , quan viên nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc.
**Vương Kiến** (chữ Hán: 王建, ? - ?), người huyện Quảng Ninh, quan viên nhà Bắc Ngụy. Ông hoạt động chủ yếu trong giai đoạn hậu kỳ của thời Thập Lục Quốc, đã từng kiến
**Chiến tranh Lương-Ngụy, 528-529** là cuộc chiến tranh giữa hai nước Lương và Bắc Ngụy thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Cuộc chiến này là một phần của chiến tranh Lương-Bắc Ngụy, một
**Bắc Ngụy Tiết Mẫn Đế** () (498 – 21/6/532), cũng gọi là **Tiền Phế Đế** (前廢帝), hay còn được gọi với tước hiệu trước khi lên ngôi là **Quảng Lăng vương** (廣陵王), tên húy là
**Nguyên Lãng** () (513–532), tên tự **Trọng Triết** (仲哲), thường được biết đến với tước hiệu trước khi lên ngôi là **An Định vương** (安定王), vào một số thời điểm được gọi là **Hậu Phế
**Vương Túc** (chữ Hán: 王肃, 464 - 501), tên tự là **Cung Ý**, người Lâm Nghi, Lang Tà , đại thần, tướng lĩnh, ngoại thích nhà Bắc Ngụy. ## Thân thế Vương Túc là hậu
**Phí Mục** (chữ Hán: 費穆, 477 – 529), tự Lãng Hưng, người quận Đại , tướng lãnh cuối đời nhà Bắc Ngụy. Ông có công tham gia trấn áp các lực lượng nổi dậy cuối
**An Đồng** (chữ Hán: 安同, ? – 429), sinh quán Liêu Đông, là quan viên, khai quốc công thần nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. ## Xuất thân Tổ tiên của Đồng tên
**Đạo Vũ Mộ Dung Hoàng hậu** (chữ Hán: 道武慕容皇后), là nguyên phối Hoàng hậu của Bắc Ngụy Đạo Vũ Đế Thác Bạt Khuê - vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Bắc Nguỵ trong lịch
**Bùi Tuyên** (chữ Hán: 裴宣, 454 – 511), tự Thúc Lệnh, người huyện Văn Hỷ, quận Hà Đông , là quan viên nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. ## Thiếu thời Cha là
**Dương Quân** (chữ Hán: 杨钧, ? - 524), người Hoa Âm, Hoằng Nông , quan viên nhà Bắc Ngụy. ## Thân thế Quân là thành viên của sĩ tộc họ Dương ở quận Hoằng Nông.
**Đông Ngụy Hiếu Tĩnh Đế** (東魏孝靜帝) (524–552), tên húy là **Nguyên Thiện Kiến** (元善見), là hoàng đế duy nhất của triều đại Đông Ngụy, một nhà nước kế thừa triều đại Bắc Ngụy trong lịch
**Đông Ngụy** (tiếng Trung: 東魏) là triều đại xuất hiện sau khi có sự tan rã của Nhà nước Bắc Ngụy và cai trị vùng lãnh thổ Bắc Trung Quốc từ năm 534 tới năm
**Tây Ngụy Cung Đế** (西魏恭帝) (537–557), tên húy là **Nguyên Khuếch** (元廓), sau đổi thành **Thác Bạt Khuếch** (拓拔廓), là hoàng đế cuối cùng của triều đại Tây Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông
**Bắc sử** (北史) là một quyển sách trong Nhị thập tứ sử do Lý Đại Sư viết về giai đoạn lịch sử từ năm 386 tới 618. Sau khi Lý Đại Sư mất, Lý Diên
**Triệu Túc** (chữ Hán: 赵肃, ? - ?), tự Khánh Ung, quan viên nhà Bắc Ngụy, nhà Tây Ngụy cuối thời Nam bắc triều. ## Thân thế Túc tự nhận có tổ tịch ở Lạc
**Vi Thúc Dụ** (chữ Hán: 韦叔裕, 509 – 580), tên tự là **Hiếu Khoan** (孝宽), người huyện Đỗ Lăng, quận Kinh Triệu , là tướng lĩnh nhà Bắc Ngụy, Tây Ngụy, Bắc Chu cuối thời
**Tây Ngụy** (tiếng Trung:西魏) là triều đại xuất hiện sau khi có sự tan rã của nhà Bắc Ngụy và cai trị vùng lãnh thổ miền Bắc Trung Quốc từ năm 535 tới năm 557.
**Tây Ngụy Phế Đế** (西魏廢帝) (525-554), tên húy là **Nguyên Khâm** (元欽), là một hoàng đế của triều đại Tây Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông thậm chí còn có ít quyền lực thực
**Lý Hiền** (chữ Hán: 李贤, 502 – 569), tên tự là **Hiền Hòa**, sinh quán là trấn Cao Bình , tướng lãnh nhà Bắc Ngụy, Tây Ngụy, Bắc Chu cuối thời Nam Bắc triều trong
**Sơn Tây** (, ; bính âm bưu chính: _Shansi_) là một tỉnh ở phía bắc của Trung Quốc. Năm 2018, Sơn Tây là tỉnh đứng thứ mười tám về số dân, đứng thứ hai mươi
**Nam Bắc triều** (, 420-589) là một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ năm 420 khi Lưu Dụ soán Đông Tấn mà lập nên Lưu Tống, kéo dài đến năm 589
**Bắc Tề Văn Tuyên Đế** (北齊文宣帝) (526–559), tên húy là **Cao Dương** (高洋), tên tự **Tử Tiến** (子進), miếu hiệu là Hiển Tổ, là vị hoàng đế khai quốc của triều đại Bắc Tề trong
**Sơn Đông** () là một tỉnh ven biển phía đông Trung Quốc. Năm 2018, Sơn Đông là tỉnh đông thứ hai về số dân, đứng thứ ba về kinh tế Trung Quốc với 100,4 triệu
phải|nhỏ|Năm 560
**Bắc Tề** (tiếng Trung: 北齊; _Běiqí_) là một trong năm triều đại thuộc Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Triều đại này cai quản khu vực miền bắc Trung Quốc từ
nhỏ|phải|Ngụy quốc
([[triện thư, 220 TCN)]] **Ngụy** (Phồn thể: 魏國; Giản thể: 魏国) là một quốc gia chư hầu trong thời kỳ Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Lãnh thổ của quốc gia này hiện
phải|nhỏ|Năm 560
**Bắc Chu** (tiếng Trung: 北周) là một triều đại tiếp theo nhà Tây Ngụy thời Nam Bắc triều, có chủ quyền đối với miền Bắc Trung Quốc từ năm 557 tới năm
**Hành chính Việt Nam thời Bắc thuộc lần 2** phản ánh những biến động về địa giới hành chính của Việt Nam từ năm 43 đến năm 541, qua tay 7 triều đại phong kiến
**Chiến tranh Ngụy-Trung Sơn** hay **Trận Ngụy diệt Trung Sơn** (chữ Hán: 魏滅中山之戰, Hán Việt: _Ngụy diệt Trung Sơn chi chiến_), là cuộc chiến tranh diễn ra từ năm 408 TCN đến năm 406 TCN
**Bắc Kinh** (; ), là thủ đô của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thành phố nằm ở miền Hoa Bắc, và là một trong số bốn trực hạt thị của Trung Hoa, với
**Hà Bắc** (; bính âm bưu chính: **Hopeh**) là một tỉnh nằm ở phía bắc của Trung Quốc. Giản xưng của Hà Bắc là Ký, Hán tự: "", theo tên Ký châu thời Nhà Hán,
**Dương Trung** (, 507 – 568), tên lúc nhỏ là **Nô Nô**, tướng lĩnh nhà Tây Ngụy, nhà Bắc Chu, được con trai là Tùy Văn đế Dương Kiên truy tôn làm Hoàng đế, miếu
**Bắc Tề Vũ Thành Đế** (北齊武成帝) (537–569), tên húy là **Cao Đam**/**Cao Trạm** (高湛), biệt danh **Bộ Lạc Kê** (步落稽), là hoàng đế thứ tư của triều đại Bắc Tề trong lịch sử Trung Quốc.
**Bắc Kinh** có lịch sử lâu dài và phong phú, nguyên truy từ cách nay 3.000 năm. Trước khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa vào năm 221 TCN, Bắc Kinh là thủ đô
Các tiểu vùng địa lý tự nhiên
của miền Bắc Việt Nam
nhỏ|Tây Bắc Bộ (đỏ) trong Việt Nam **Tây Bắc Bộ** là vùng miền núi phía tây của miền Bắc Việt Nam, có chung đường
**Trận Bắc Ninh** hay **Trận Pháp đánh thành Bắc Ninh** là một phần của cuộc chiến tranh Pháp-Việt 1858-1884 diễn ra từ ngày 7 tháng 3 năm 1884 và kết thúc vào ngày 12 tháng