Phí Mục (chữ Hán: 費穆, 477 – 529), tự Lãng Hưng, người quận Đại , tướng lãnh cuối đời nhà Bắc Ngụy. Ông có công tham gia trấn áp các lực lượng nổi dậy cuối đời Bắc Ngụy, nhưng cũng là kẻ xúi giục quyền thần Nhĩ Chu Vinh gây ra sự kiện Hà Âm thảm khốc.
Thân thế
Ông cụ của Mục là Phí Úc, ban đầu ở dưới trướng của Ninh đông tướng quân Ta Tuấn nước Hạ. Cuối niên hiệu Thái Thường (416 – 423) thời Bắc Ngụy Minh Nguyên đế, Ta Tuấn đưa quân về hàng, được bái làm Long tương tướng quân, ban tước Kiền Vi công. Về sau Ta Tuấn được thăng làm Chinh nam tướng quân, Quảng A trấn đại tướng, dời tước là Hạ Bi công; Úc cũng được xét công huân quy phụ, ban tước Ngũ đẳng Nam, trừ chức Yến Quận thái thú, sau khi mất được tặng chức U Châu thứ sử.
Ông nội của Mục là Phí Vu, từ nhỏ đã có tiết tháo, trưởng thành được làm Nội tam lang . Thái Vũ đế tiến đánh nhà Lưu Tống, Vu theo xa giá đến Trường Giang, nhờ siêng năng hầu hạ mà được trừ chức Ninh viễn tướng quân, ban tước Tùng Dương nam. Sau đó Vu được thăng làm Thương cổ bộ nhị tào lệnh , trừ chức Bình nam tướng quân, Hoài Châu thứ sử.
Cha của Mục là Phí Vạn, được tập tước. Đầu niên hiệu Thái Hòa (477 – 499) thời Hiếu Văn đế, Vạn được trừ chức Bình nam tướng quân, Lương Quốc trấn tướng. Về sau Hiếu Văn đế nam chinh, Vạn theo xa giá vượt sông Hoài, tử trận; được tặng Trấn đông tướng quân, Ký Châu thứ sử.
Sự nghiệp
Khởi nghiệp
Mục tính cương liệt, có khí khái; đọc nhiều sách vở, ưa chuộng công danh. Đầu thời Tuyên Vũ đế, Mục được kế thừa nam tước; sau đó ông được trừ chức Hạ Châu biệt giá, rồi được gia hiệu Ninh viễn tướng quân, chuyển làm Kính Châu Bình tây phủ trưởng sử. Khi ấy thứ sử Hoàng Phủ Tập là cậu của Linh thái hậu, cậy thân phận ngoại thích, làm nhiều việc phi pháp. Mục nghiêm mặt can gián, khiến Tập kiêng dè. Sau đó Mục được chuyển làm An Định thái thú, vẫn làm trưởng sử. Mục được về triều, bái làm Tả quân tướng quân, chuyển làm Hà Âm lệnh, nổi tiếng nghiêm minh.
Trấn áp Nhu Nhiên
Bấy giờ thủ lĩnh người Nhu Nhiên là Úc Cửu Lư Bà La Môn từ Lương Châu về hàng, bộ chúng của ông ta cướp bóc vùng biên, có chiếu cho Mục lãnh mệnh đi tuyên úy, khiến họ đều nạp khoản xin quy phụ. Năm sau người Nhu Nhiên lại phản kháng, vào cướp Lương Châu; Mục được trừ chức Phụ quốc tướng quân, Giả chinh lỗ tướng quân, kiêm Thượng thư tả thừa, Tây Bắc đạo hành đài, vẫn làm biệt tướng, đi đánh dẹp. Mục đến Lương Châu, người Nhu Nhiên chạy trốn; ông thuyết phục bộ hạ rằng kẻ địch sợ oai bỏ trốn, đợi quan quân rút lui thì quay lại cướp bóc, như thế sẽ khiến mọi người vất vả không thôi, ai cũng cho là phải. Mục chọn lựa tinh kỵ, mai phục ở hang núi, sai những quan quân gầy yếu ra ngoài dẫn dụ kẻ địch. Kỵ binh do thám của người Nhu Nhiên trông thấy, tin là quan quân yếu ớt, ít lâu sau kéo đến. Phục binh của Mục đuổi đánh, đại phá kẻ địch, chém tướng địch là bọn Úc Quyết Ô Nhĩ, Sĩ Cân Thập Đại, bắt được tù binh, gia súc rất nhiều.
Trấn áp khởi nghĩa
Đến khi Lục trấn khởi nghĩa, triều đình giáng chiếu cho Mục làm biệt tướng, thuộc quyền đô đốc Lý Sùng, tham gia bắc phạt. Đô đốc Thôi Xiêm thua trận, Sùng sắp lui quân, hội họp chư tướng, hỏi ai có thể trấn thủ Sóc Châu – vốn là cửa ngõ của Bạch Đạo , mọi người đều tiến cử Mục; vì thế Sùng xin lấy ông làm Sóc Châu thứ sử, vẫn giữ hiệu tướng quân cũ, sau đó đổi làm Vân Châu thứ sử. Mục vời gọi dân chúng ly tán, rất được lòng người; nhưng châu trấn ở phía bắc lần lượt thất thủ, chỉ còn Mục giữ mỗi một tòa thành, bốn mặt kháng địch. Mãi về sau viện quân không đến, đường sá tắc nghẽn, nhu yếu cạn kiệt; Mục thấy thế cùng, bèn bỏ thành chạy về nam, nương nhờ Nhĩ Chu Vinh ở Tú Dung. Sau đó Mục về kinh nhận tội, có chiếu tha cho ông.
Giữa niên hiệu Hiếu Xương thời Hiếu Minh đế, 2 vùng Giáng, Thục nổi dậy, triều đình lấy Mục làm đô đốc, sai đánh dẹp. Mục được bái làm Tiền tướng quân, Tán kỵ thường thị, lại thăng Bình nam tướng quân, Quang lộc đại phu. Thủ lĩnh Lý Hồng khởi nghĩa ở Dương Thành, liên kết với quốc chủ nước Cừu Trì (trên danh nghĩa) là Dương Văn Đức, triều đình giáng chiếu cho Mục kiêm hiệu Vũ vệ tướng quân, soái quân đánh dẹp; ông phá địch ở phía nam Quan khẩu, được thăng làm Kim tử quang lộc đại phu, chánh hiệu Vũ vệ tướng quân.
Xúi giục Nhĩ Chu Vinh
Nhĩ Chu Vinh tiến về Lạc Dương, Linh thái hậu trưng Mục, lệnh cho ông đóng đồn ở Tiểu Bình. Đến khi Vinh đưa Hiếu Trang đế lên ngôi, quan quân tan rã, Mục bèn rời bỏ quân đội ra hàng đầu tiên. Vinh vốn quen biết Mục, gặp ông thì cả mừng. Mục ngầm nói với Vinh rằng: "Binh mã của ngài không đến 1 vạn, nay rong ruổi đến Lạc, trước mặt không có ai ngăn trở, chính là nhờ nâng đỡ chúa thượng, nên thuận với lòng dân. Nhưng không có cái oai của chiến thắng, khiến có kẻ chẳng chịu khuất phục. Nay bọn ấy dựa vào kinh sư lắm người, trăm quan nhiều của, một khi biết được hư thực của ngài, ắt sanh lòng khinh mạn. Nếu không thi hành một hành động trừng phạt lớn, rồi thay thế bọn ấy bởi những người thân tín, ngày sau ngài trở về phương bắc, sợ rằng chưa vượt qua Thái Hành thì nội loạn đã phát tác rồi." Vinh cho là phải, vì thế mới gây ra sự kiện Hà Âm. Thiên hạ nghe được việc này, chẳng ai không nghiến răng căm hận. Vinh tiến vào Lạc Dương, Mục được thăng làm Trung quân tướng quân, Lại bộ thượng thư, Lỗ huyện khai quốc hầu, thực ấp 800 hộ, còn lãnh chức Hạ Châu đại trung chánh.
Đánh bại quân nhà Lương
Tướng nhà Lương là Tào Nghĩa Tông uy hiếp Kinh Châu, có chiếu cho Mục làm Sứ trì tiết, Chinh nam tướng quân, Đô đốc Nam chinh chư quân sự, Đại đô đốc để cứu viện. Mục ngầm tiến quân theo lối tắt, bất ngờ tấn công, đại phá quân nhà Lương, bắt sống Tào Nghĩa Tông gởi về kinh sư; nhờ công được thăng Vệ tướng quân, tiến phong Triệu Bình quận khai quốc công, tăng ấp 1000 hộ. Sau đó Mục được thăng làm Sứ trì tiết, gia chức Thị trung, Xa kỵ tướng quân, Giả Nghi đồng tam tư, Tiền phong đại đô đốc; cùng Đại tướng quân Nguyên Thiên Mục đông tiến để đánh dẹp khởi nghĩa Hình Cảo.
Cái chết
Bọn Mục trấn áp được Hình Cảo thì gặp lúc Nguyên Hạo được quân nhà Lương giúp đỡ, đánh chiếm kinh sư, Hiếu Trang đế bỏ chạy lên phía bắc; họ đưa quân quay về kinh sư. Mục nhận lệnh đi trước tấn công Hổ Lao, trong khi đó đại quân của Nguyên Thiên Mục ở phía sau bị quân nhà Lương đánh bại, Thiên Mục vượt Hoàng Hà bỏ chạy. Mục trước sau có địch, lòng quân ly tán, bèn đầu hàng.
Nguyên Hạo cho rằng sự kiện Hà Âm, khởi đầu là do Mục, đưa ông vào cật vấn, rồi đem ra giết chết. Mục hưởng thọ 53 tuổi; sau khi Hiếu Trang đế về cung, được tặng Thị trung, Tư đồ công, thụy là Vũ Tuyên.
Hậu nhân
Con trai trưởng là Phí Khánh Viễn, giữa niên hiệu Vĩnh An thời Hiếu Trang đế, làm đến Long tương tướng quân, Thanh Châu khai phủ tư mã.
Con trai thứ hai là Phí Hiếu Viễn, được tập tước. Giữa niên hiệu Thiên Bình thời Đông Ngụy Hiếu Tĩnh đế, Hiếu Viễn trốn sang Tây Ngụy.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Phí Mục** (chữ Hán: 費穆, 477 – 529), tự Lãng Hưng, người quận Đại , tướng lãnh cuối đời nhà Bắc Ngụy. Ông có công tham gia trấn áp các lực lượng nổi dậy cuối
**Lưu quý nhân** (chữ Hán: 劉贵人, ? - 409), là vợ của Bắc Ngụy Đạo Vũ Đế, vua đầu tiên của nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Lưu thị nguyên là con gái
**Bắc Ngụy Thái Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏太武帝; 408 – 11 tháng 3, 452), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông thường được nhìn nhận
**Bắc Ngụy Hiếu Trang Đế** (chữ Hán: 北魏孝莊帝; 507–531), tên húy là **Nguyên Tử Du** (), là hoàng đế thứ 11 triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông được tướng Nhĩ Chu
**Bắc Ngụy Đạo Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏道武帝; 371–409), tên húy là **Thác Bạt Khuê** (拓拔珪), tên lúc sinh là **Thác Bạt Thiệp Khuê** (拓拔渉珪), là hoàng đế khai quốc của triều đại Bắc Ngụy
**Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế** (chữ Hán: 北魏孝文帝; 13 tháng 10 năm 467 – 26 tháng 4 năm 499), tên húy lúc sinh là **Thác Bạt Hoành** (拓拔宏), sau đổi thành **Nguyên Hoành** (元宏), là
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
**Bắc Ngụy Minh Nguyên Đế** (chữ Hán: 北魏明元帝; 392–423), tên húy là **Thác Bạt Tự** (拓拔嗣), là hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con trai
**Nhà Bắc Ngụy** (tiếng Trung: 北魏朝, bính âm: běi wèi cháo, 386–535), còn gọi là **Thác Bạt Ngụy** (拓拔魏), **Hậu Ngụy** (後魏) hay **Nguyên Ngụy** (元魏), là một triều đại thời Nam Bắc triều trong
Quảng Lăng Huệ vương **Nguyên Vũ** (chữ Hán: 元羽, 470 – 19/06/501 ), tự Thúc Phiên, hoàng tử nhà Bắc Ngụy. ## Khởi nghiệp Vũ là con trai thứ tư của Bắc Ngụy Hiến Văn
**Bắc Ngụy Hiến Văn Đế** (chữ Hán: 北魏獻文帝; 454–476), tên húy là **Thác Bạt Hoằng** (), là hoàng đế thứ sáu của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Năm 471, ông trở
**Vương Túc** (chữ Hán: 王肃, 464 - 501), tên tự là **Cung Ý**, người Lâm Nghi, Lang Tà , đại thần, tướng lĩnh, ngoại thích nhà Bắc Ngụy. ## Thân thế Vương Túc là hậu
**Chiến tranh Nam Tề-Bắc Ngụy** diễn ra vào thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Nam Tề và nhà Bắc Ngụy. Từ năm 479 đến năm 500, Nam Tề cùng Bắc Ngụy
**Hiếu Văn U Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文幽皇后; 469 - 499), cũng gọi **Cao Tổ U hậu** (高祖幽后), là Hoàng hậu thứ hai của Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế Nguyên Hoành của triều Bắc Ngụy
**Bắc sử** (北史) là một quyển sách trong Nhị thập tứ sử do Lý Đại Sư viết về giai đoạn lịch sử từ năm 386 tới 618. Sau khi Lý Đại Sư mất, Lý Diên
**Thư Cừ Mục Kiền** () (? 447), hoặc **Thư Cừ Mậu Kiền** (沮渠茂虔), là một người cai trị của nước Bắc Lương vào thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc. Hầu
**Đông Ngụy Hiếu Tĩnh Đế** (東魏孝靜帝) (524–552), tên húy là **Nguyên Thiện Kiến** (元善見), là hoàng đế duy nhất của triều đại Đông Ngụy, một nhà nước kế thừa triều đại Bắc Ngụy trong lịch
nhỏ|phải|Một người béo phì **Béo phì** là một tình trạng bệnh lý, đôi khi được xem là một căn bệnh, trong đó mô mỡ trong cơ thể đã tích tụ đến mức có thể gây
thumb|Hậu cung ở Trung Á **Phi tần** (chữ Hán: _妃嬪_, tiếng Anh: _Imperial consort_ / _Royal concubine_), **Thứ phi** (_次妃_), **Tần ngự** (_嬪御_) hoặc **Cung nhân** (_宮人_), là những tên gọi chung cho nàng hầu
**Nam Bắc triều** (, 420-589) là một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ năm 420 khi Lưu Dụ soán Đông Tấn mà lập nên Lưu Tống, kéo dài đến năm 589
nhỏ|phải|Một con lợn bạch thừa cân quá khổ trong một sở thú ở Đức nhỏ|phải|Một con [[Chó Dachshund|chó xúc xích (Dachshund) bị thừa cân]] **Béo phì ở thú cưng** là tình trạng béo phì hoặc
**Chu Vũ Đế** (chữ Hán: 周武帝; 543 - 21 tháng 6, 578) là Hoàng đế thứ ba của nhà Bắc Chu thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm
**Người Mỹ gốc Phi** (Anh: _African Americans)_ hay **Người Mỹ da đen** (Black Americans)là thành phần chủng tộc sinh sống ở Hoa Kỳ có tổ tiên từng là thổ dân ở châu Phi nam Sahara,
**Bắc Kinh** (; ), là thủ đô của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thành phố nằm ở miền Hoa Bắc, và là một trong số bốn trực hạt thị của Trung Hoa, với
phải|nhỏ|Năm 560
**Bắc Chu** (tiếng Trung: 北周) là một triều đại tiếp theo nhà Tây Ngụy thời Nam Bắc triều, có chủ quyền đối với miền Bắc Trung Quốc từ năm 557 tới năm
**Bắc Tề Vũ Thành Đế** (北齊武成帝) (537–569), tên húy là **Cao Đam**/**Cao Trạm** (高湛), biệt danh **Bộ Lạc Kê** (步落稽), là hoàng đế thứ tư của triều đại Bắc Tề trong lịch sử Trung Quốc.
Bành Thành Cảnh Tư vương **Cao Du** (chữ Hán: 高浟, 533 – 564), tên tự là **Tử Thâm**, hoàng thân, quan viên nhà Bắc Tề cuối thời Nam bắc triều trong lịch sử Trung Quốc.
**Triết học châu Phi** là triết học được tạo ra bởi những người châu Phi, một loại triết học trình bày những quan điểm về thế giới quan của người Châu Phi, hay triết học
**Đà điểu Bắc Phi** hoặc đà điểu cổ đỏ (đà điểu Camelus), cũng được gọi là đà điểu Barbary, là phân loài được chỉ định thuộc nhóm Đà điểu châu Phi của vùng Tây Phi
**Nhĩ Chu Vinh** (, 493 -530), tên tự là **Thiên Bảo** (天寶), người Bắc Tú Dung, là tướng lĩnh, quyền thần nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Ông là
**Nam Phi** (), quốc hiệu là **Cộng hòa Nam Phi** (Republic of South Africa) là một quốc gia nằm ở mũi phía nam châu Phi, giáp Namibia, Botswana, Zimbabwe, Mozambique, Eswatini, và bao quanh toàn
**Ngụy thư** (chữ Hán giản thể: 魏书; phồn thể: 魏書) là một sách lịch sử theo thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ sử_) do Ngụy Thâu, người Bắc
**Chiến tranh Thục – Ngụy (228–234)**, hay còn gọi là **Gia Cát Lượng Bắc phạt** hoặc **Lục xuất Kỳ Sơn** (chữ Hán: 六出祁山; bính âm: Lìuchū Qíshān), là một loạt chiến dịch quân sự của
**Ngụy Diên** (chữ Hán: 魏延; 177-234), tên tự là **Văn Trường** (文長), là tướng quân nhà Thục Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Hoa. Trong chiến dịch Bắc Phạt của Gia Cát Lượng
**Nhạc Phi** (24 tháng 3 năm 1103 – 28 tháng 1 năm 1142) là nhà quân sự nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, danh tướng chống quân Kim thời Nam Tống. Trước sau tổng cộng
**Trương Phi** (, 163-221), tự **Ích Đức** (益德), _Tam quốc diễn nghĩa_ ghi là **Dực Đức** (翼德) , là danh tướng nhà Thục Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Trong tiểu thuyết
**Các chiến dịch bắc phạt thời Đông Tấn** chỉ loạt trận chiến của nhà Đông Tấn ở phía nam phát động trong khoảng thời gian từ năm 317 đến 419 nhằm thu phục lại miền
**Thác Bạt Hoảng** (, 428 – 29 tháng 7 năm 451), là một hoàng thái tử của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông là trưởng tử của Bắc Ngụy Thái Vũ
**Miền Bắc nước Anh** hay **Bắc Anh** () được xem là một khu vực văn hoá riêng. Khu vực trải dài từ biên giới với Scotland tại phía bắc đến gần sông Trent tại phía
**Thảm sát Hà Âm** là một sự kiện chính trị triều Bắc Ngụy diễn ra trong năm 528. Đại tướng Nhĩ Chu Vinh sau khi tiến binh vào kinh giết hại Hồ Thái hậu đã
**Dương Đại Nhãn** (chữ Hán: 杨大眼; ? - ?), là người dân tộc Đê (chữ Hán: 氐), danh tướng nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế ###
**Bắc Kinh** có lịch sử lâu dài và phong phú, nguyên truy từ cách nay 3.000 năm. Trước khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa vào năm 221 TCN, Bắc Kinh là thủ đô
**Gấu xám Bắc Mỹ** (tên khoa học **_Ursus arctos horribilis_**; tiếng Anh: **Grizzly bear**), còn được gọi là **gấu đầu bạc**, **gấu xám**, hoặc **gấu nâu Bắc Mỹ**, là một **_phân loài khác_** của gấu
**Hồ Bắc** (, tiếng Vũ Hán: Hŭbě) là một tỉnh ở miền trung của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Giản xưng chính thức của tỉnh Hồ Bắc là "Ngạc" (鄂), lấy theo tên một
**Hạ Bạt Nhạc** (chữ Hán: 贺拔岳, ? – 534), tên tự là **A Đấu Nê**, người Tiêm Sơn, Thần Vũ , dân tộc Sắc Lặc, là tướng lĩnh nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung
**Trận Chung Li** (chữ Hán: 鍾離之戰, Chung Li chi chiến) còn gọi là **chiến dịch Thiệu Dương** (chữ Hán: 邵陽之役, Thiệu Dương chi dịch) diễn ra vào năm 507, vào thời Nam Bắc triều trong
**Ngụy Bác quân tiết độ sứ** hay **Thiên Hùng quân tiết độ sứ** (763 - 915), là một phiên trấn tồn tại dưới thời trung và hậu kì nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc,
**Tào Phi** (chữ Hán: 曹丕; 187 - 29 tháng 6, năm 226), biểu tự **Tử Hoàn** (子桓), là vị Hoàng đế khai quốc của Tào Ngụy, một trong 3 nước thời kì Tam Quốc trong
**Khu phi quân sự Triều Tiên** (tiếng Anh: _Korean Demilitarized Zone_; tiếng Triều Tiên: 조선반도 비무장지대 (theo cách gọi của phía Triều Tiên) hay 한반도비무장지대 (theo cách gọi của phía Hàn Quốc), Hanja: 朝鮮半島非武裝地帶 _Triều
**Chiến dịch Tây Bắc** (từ 14 tháng 10 đến 10 tháng 12 năm 1952) là chiến dịch tiến công của Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) trên hướng Tây Bắc Việt Nam nhằm tiêu