✨Thác Bạt Hoảng

Thác Bạt Hoảng

Thác Bạt Hoảng (, 428 – 29 tháng 7 năm 451), là một hoàng thái tử của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông là trưởng tử của Bắc Ngụy Thái Vũ Đế, và được lập làm thái tử vào năm 432 khi mới 4 tuổi. Khi ông trưởng thành hơn, Thái Vũ Đế cũng dần chuyển giao các quyền lực cho ông. Tuy nhiên vào năm 451, do hoạn quan Tông Ái hãm hại, nhiều thuộc quan của Thái tử Hoảng đã bị Thái Vũ Đế xử tử. Thái tử Hoảng kinh sợ và qua đời vào năm sau.

Cuộc sống ban đầu

Thác Bạt Hoảng sinh năm 428, là trưởng tử của Thái Vũ Đế. Mẹ của ông được ghi là Hạ phu nhân (賀夫人), song do cả hai thị tộc Hạ Lan (賀蘭) và Hạ Lại (賀賴) sau này đều cải họ sang 'Hạ' trong phong trào Hán hóa tộc Tiên Ti dưới thời Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế, không rõ họ của bà là Hạ Lan hay Hạ Lại. Theo ghi chép, Hạ phu nhân qua đời vào năm sinh hạ Thác Bạt Hoảng.

Năm 432, Thái Vũ Đế phong Thác Bạt Hoảng làm hoàng thái tử, đồng thời Thái Vũ Đế cũng phong Hách Liên thị (một trong số các phi tần) làm hoàng hậu. Thác Bạt Hoảng trở thành một quan lại cao cấp trong triều đình vào cùng năm, song vì khi đó ông mới 4 tuổi nên vị trí này dường như chỉ là hình thức. Năm 433, Thái Vũ Đế đã cố gắng dàn xếp quốc hôn giữa Thái tử Hoảng và một trong các công chúa của Lưu Tống Văn Đế, Văn Đế mặc dù không lập tức từ chối song cũng không chấp thuận.

Năm 439, khi chinh phạt Bắc Lương, Thái Vũ Đế đã cho Thái tử Hoảng làm giám quốc tại kinh đô Bình Thành (平城, nay thuộc Đại Đồng, Sơn Tây), với sự hỗ trợ của Khâu Mục Lăng Thọ (丘穆陵壽) để đề phòng quân Nhu Nhiên tấn công. Tuy nhiên, Khâu Mục Lăng Thọ không nghĩ rằng Nhu Nhiên sẽ thật sự đem quân tiến đánh nên có rất ít phòng bị, vì thế khi Sắc Liên khả hãn Uất Cửu Lư Ngô Đề tấn công, Bình Thành lâm nguy. Khâu Mục Lăng Thọ muốn hộ thống Thái tử Hoảng đến vùng đồi phía nam Bình Thành và tiếp tục bố trí phòng thủ tại đó, song vì bảo thái hậu Đậu thị của Thái Vũ Đế phản đối, Thái tử Hoảng vẫn ở lại Bình Thành, Sau đó, quân Bắc Ngụy đánh bại quân Nhu Nhiên, Uất Cửu Lư Ngô Đề buộc phải triệt thoái. Đương thời, mặc dù mới 11 tuổi, Thái tử Hoảng có vẻ như đã tham gia vào việc quyết định các chính sách và vấn đề quân sự hệ trọng. Giả dụ, ông đã phản đối chiến dịch đánh Bắc Lương của phụ hoàng, song Thái Vũ Đế đã bác bỏ ý kiến này do nghĩ sẽ dễ dàng chinh phục được nước này.

Năm 442, Thái tử Hoảng dường như đã là một Phật tử mộ đạo, và khi Thái Vũ Đế nghe theo đề xuất của Thôi Hạo (崔浩) và đạo sĩ Đạo giáo Khấu Khiêm Chi mà quyết định cho xây công trình Tĩnh Luân cung (靜輪宮) rất cao và phức tạp, Thác Bạt Hoảng đã phản đối vì vấn đề chi phí, song Thái Vũ Đế không chấp thuận.

Cai quản quốc gia

Năm 443, Thái tử Hoảng tháp tùng phụ hoàng trong một chiến dịch chống Nhu Nhiên, và đến khi họ đột nhiên gặp Uất Cửu Lư Ngô Đề, Thái tử Hoảng muốn lập tức tấn công, song Thái Vũ Đế lại do dự và khiến cho Uất Cửu Lư Ngô Đế có thể chạy thoát. Từ thời điểm đó trở đi, Thái Vũ Đế bắt đầu lắng nghe nghiêm túc ý kiến của Thái tử Hoảng, và đến mùa đông năm 443, Thái Vũ Đế đã ủy thác cho Thái tử Hoảng thực hiện hầu hết các nhiệm vụ của hoàng đế (ngoại trừ một số vấn đề quan trọng nhất) với sự hỗ trợ của Khâu Mục Lăng Thọ, Thôi Hạo, Trương Lê (張黎), và Thổ Hề Bật (吐奚弼). Ngay sau đó, Thái tử Hoảng đã thực hiện một chính sách nhằm khuyến khích canh tác, theo đó những người có nhiều gia súc buộc phải cho những người không có gia súc thuê chúng (tức gia súc) để lấy sức kéo, những người thuê gia súc sẽ trả phí thuê bằng cách cày bừa trên các vùng đất của chủ sở hữu gia súc, việc này đã làm tăng năng suất của các vùng đất trồng trọt lên rất nhiều.

Năm 446, khi đang tấn công quân khởi nghĩa của một người Hung Nô tên là Cái Ngô (蓋吳), Thái Vũ Đế đã tìm thấy một lượng vũ khí lớn cất giữ trong các ngôi chùa tại Trường An. Cho rằng các hòa thượng ở đây liên kết với Cái Ngô, Thái Vũ Đế đã đồ sát các hòa thượng tại Trường An. Sau đó, Thái Vũ Đế ban một thánh chỉ nghiêm cấm Phật giáo trên quy mô toàn quốc. Tuy nhiên, Thái tử Hoảng đã trì hoãn trong việc ban bố thánh chỉ, tạo điều kiện cho các Phật tử chạy trốn hay đi ẩn cư, song đã không một ngôi chùa nào còn tồn tại ở Bắc Ngụy. Đây là sự kiện đầu tiên trong Tam Vũ chi họa của Phật giáo Trung Quốc.

Năm 450, Thái tử Hoảng trở nên xung khắc trực diện với Thôi Hạo trên vấn đề quản lý quốc sự. Khi Thôi Hạo tiến cử một số người làm thái thú, Thái tử Hoảng đã kịch liệt phản đối, song những người này vẫn được bổ nhiệm do Thôi Hạo vẫn cương quyết tiến cử. Thái tử Hoảng cũng đã can dự vào sự việc khiến Thôi Hạo cùng toàn thể họ tộc của người này bị xử tử vào năm 450 với tội danh phỉ báng tổ tiên hoàng thất, đó là khi Thái tử đã biện luận hết mình để thuyết phục phụ hoàng tha cho Cao Doãn (高允)- một thuộc cấp của Thôi Hạo, và trong quá trình đó, Cao Doãn đã trình bày một số vấn đề liên quan đến Thôi Hạo.

Vào mùa thu năm 450, khi Lưu Tống Văn Đế phái tướng Vương Huyền Mô (王玄謨) đi đánh Hoạt Đài (滑台, nay thuộc An Dương, Hà Nam), Thái Vũ Đế đã đích thân dẫn quân đi giải vây cho Hoạt Đài. Sau khi đánh bại Vương Huyền Mô, Thái Vũ Đế đã tiến sâu vào lãnh thổ Lưu Tống. Trong khi tiến đánh Lưu Tống, Thái Vũ Đế đã giao cho Thái tử Hoảng phòng thủ biên giới phía bắc trước khả năng Nhu Nhiên tiến công.

Qua đời

Thái tử Hoảng được mô tả là thượng tôn luật pháp, song lại tín nhiệm thuộc quan và cũng giành quá nhiều nỗ lực để trông nom vườn cây và đồng ruộng nhằm thu hoa lợi từ chúng. Cao Doãn đã thuyết phục ông không tham gia vào các hoạt động thương mại và không nên ủy thác quá mức việc triều chính cho thuộc quan, song Thái tử Hoảng không nghe theo. Năm 451, Thái tử Hoảng xung khắc với hoạn quan Tông Ái do phát hiện ra người này tham ô, đây cũng là người mà ông rất không ưa. Tông Ái lo sợ các thuộc quan thân tín của Thái tử Hoảng là Cừu Ni Đạo Thịnh (仇尼道盛) và Nhâm Bình Thành (任平城) sẽ tố cáo mình, vì thế hoạn quan này đã ra tay trước bằng cách cáo buộc Cừu Ni và Nhâm phạm pháp. Trong cơn thịnh nộ, Thái Vũ Đế đã cho xử tử Cừu Ni và Nhâm, nhiều thuộc quan khác của Thái tử dính líu đến vụ việc và cũng bị xử tử. Thái tử Hoảng trở nên kinh sợ, lâm bệnh và qua đời.

Truy phong

Ngay sau đó, Thái Vũ Đế đã nhận ra rằng Thái tử Hoảng không mắc phải bất cứ tội nào, vì thế đã rất hối tiếc vì hành động của mình. Khoảng tết năm 451, Thái Vũ Đế lập trưởng tử của Thái tử Hoảng là Thác Bạt Tuấn tước hiệu Cao Dương vương, song sau đó lại phế bỏ nhằm phong Thác Bạt Tuấn làm hoàng thái tôn vào sau này. Do lo sợ sẽ bị Thái Vũ Đế trừng phạt, Tông Ái đã ám sát Thái Vũ Đế vào mùa xuân năm 452 rồi đoạt lấy quyền lực. Tông Ái lập Nam An vương Thác Bạt Dư làm hoàng đế, rồi lại sát hại khi Thác Bạt Dư muốn khẳng định quyền lực của bản thân. Sau khi Tông Ái bị lật đổ, Thác Bạt Tuấn đăng cơ làm hoàng đế và đã truy tôn cho cha là Cảnh Mục hoàng đế, miếu hiệu Cung Tông.

Gia đình

Thê thiếp

Theo Bắc sử-quyển 17, hậu đình của Ngụy cựu thái tử không có vị hiệu, đến khi Văn Thành Đế lên ngôi, thê thiếp trong cung của Thái tử đều gọi là tiêu phòng.

  • Uất Cửu Lư tiêu phòng, muội của Hà Đông vương Uất Cửu Lư Bì (郁久閭毗), sinh Thác Bạt Tuấn, được truy phong là Cảnh Mục Cung hoàng hậu
  • Viên tiêu phòng, sinh Tân Thành,
  • Uất Trì tiêu phòng, sinh Tử Thôi và Tiểu Tân Thành
  • Dương tiêu phòng, sinh Thiên Tứ
  • Mạnh tiêu phòng, sinh Vân
  • Độc Cô tiêu phòng, sinh Trinh và Trường Thọ
  • Mộ Dung tiêu phòng, sinh Thái Lạc
  • Uất Trì tiêu phòng, sinh Hồ Nhi
  • Mạnh tiêu phòng, sinh Hưu
  • Trương cung nhân, tên là Trương Hoàng Long (張黃龍), sau ban cho Lục Lệ (陸麗)

Nhi tử

  • Thác Bạt Tuấn (拓拔濬), ban đầu thụ phong tước Cao Dương vương, sau trở thành Bắc Ngụy Văn Thành Đế
  • Thác Bạt Tân Thành (拓拔新成), Dương Bình U vương (thụ phong năm 457, mất năm 470
  • Thác Bạt Tử Thôi (拓拔子推), Kinh Triệu Khang vương (thụ phong năm 459, mất năm 477)
  • Thác Bạt Tiểu Tân Thành (拓拔小新成), Tế Âm Huệ vương (thụ phong năm 461, mất năm 467)
  • Thác Bạt Thiên Tứ (拓拔天賜), Nhữ Âm Linh vương (thụ phong năm 462, giáng làm thứ dân năm 490)
  • Thác Bạt Vạn Thọ (拓拔萬壽), Lạc Lương Lệ vương (thụ phong năm 462, mất năm 463)
  • Thác Bạt Lạc Hầu (拓拔洛侯), Quảng Bình Thương vương (thụ phong và mất năm 461)
  • Thác Bạt Vân (拓拔雲), Nhâm Thành Khang vương (thụ phong năm 464, mất năm 481)
  • Thác Bạt Trinh (拓拔楨), Nam An Huệ vương (thụ phong năm 468, mất năm 496)
  • Thác Bạt Trường Thọ (拓拔長壽), Thành Dương Khang vương (thụ phong năm 468, mất năm 474)
  • Thác Bạt Thái Lạc (拓拔太洛), Chương Vũ Kính vương (mất và được truy phong năm 468)
  • Thác Bạt Hồ Nhi (拓拔胡兒), Lạc Lăng Khang vương (mất và được truy phong năm 463)
  • Thác Bạt Hưu (拓拔休), An Định Tĩnh vương (thụ phong năm 468, mất năm 494)
  • Thác Bạt Thâm (拓拔深), Triệu vương, mất sớm
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thác Bạt Hoảng** (, 428 – 29 tháng 7 năm 451), là một hoàng thái tử của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông là trưởng tử của Bắc Ngụy Thái Vũ
**Thác Bạt Y Đà** (, ? - 305) là một lãnh tụ Sách Đầu bộ Tiên Ti. Ông tại vị trong khoảng thời gian 295-305, tương ứng với thời kỳ Tây Tấn tại Trung Nguyên.
**Thác Bạt Lực Vi** (, 174-277, tại vị 220-277) là một lãnh tụ Thác Bạt bộ Tiên Ti, là tổ tiên của các hoàng đế Bắc Ngụy thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc.
**Thác Bạt Lộc Quan** (, ?-307) là một lãnh tụ Sách Đầu bộ Tiên Ti. Ông tại vị trong khoảng thời gian 294-307, tương ứng vào những năm thời Tây Tấn. Phụ thân của Lộc
**Thác Bạt Xước** , ?-293) là một lãnh tụ Sách Đầu bộ Tiên Ti. Ông tại vị trong khoảng thời gian 286-293, tương ứng với thời kỳ Tây Tấn tại Trung Nguyên. Phụ thân của
**Thác Bạt Phất** (, ? - 294) là một lãnh tụ Sách Đầu bộ Tiên Ti. Ông tại vị trong khoảng thời gian 293-294, tương ứng với thời kỳ Tây Tấn tại Trung Nguyên. "Ngụy
**Thác Bạt Sa Mạc Hãn** (, ?- 277) một người Tiên Ti thuộc Sách Đầu bộ sống vào cuối thời Tam Quốc và những năm đầu thời Tây Tấn. Cha của ông là Thác Bạt
**Thác Bạt Cật Phần** () là một lãnh tụ Sách Đầu bộ Tiên Ti, ông được triều đình Bắc Ngụy truy tôn là thủy tổ thứ 14. Thác Bạt Cật Phần là con của Thác
**Thác Bạt Tất Lộc** ( hay , ?-286) là một lãnh tụ Sách Đầu bộ Tiên Ti. Ông tại vị trong khoảng thời gian 277-286, tướng ứng vào những năm đầu thời Tây Tấn. Phụ
**Thác Bạt Dư** (, ? - 452), gọi theo thụy hiệu là **Nam An Vương** (南安王), là hoàng đế thứ tư của Bắc Ngụy, trị vì trong một thời gian ngắn ngủi của triều Bắc
**Thác Bạt Thiệu** (chữ Hán: 拓跋紹, 393 - 409), tên Tiên Ti là **Thụ Lạc Bạt** (受洛拔), là hoàng tử thứ hai của Bắc Ngụy Đạo Vũ Đế, vua đầu tiên của nhà Bắc Ngụy
**Thác Bạt Nghi** (, ? – 409), là tướng lĩnh và hoàng thân, khai quốc công thần nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. ## Xuất thân Ông nội Thác Bạt Nghi là Thác
Trần Lưu Hoàn vương **Thác Bạt Kiền** (chữ Hán: 拓跋虔, ? - 396), tướng lĩnh, hoàng thân, khai quốc công thần nhà Bắc Ngụy. ## Cuộc đời Ông nội là Thác Bạt Thập Dực Kiền,
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
**Thái Vũ Hách Liên Hoàng hậu** (chữ Hán: 太武赫連皇后; ? - 453) là Hoàng hậu duy nhất của Bắc Ngụy Thái Vũ Đế, hoàng đế Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Sinh thời bà
**Thác Bạt Thập Dực Kiền** () (320-376), là một thủ lĩnh tối cao của người Tiên Ti và là vua của nước Đại vào thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc.
**Thác Bạt Ế Hòe** () (?-338), là một thủ lĩnh tối cáo của người Tiên Ti và là vua của nước nước Đại vào thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc.
**Thác Bạt Hột Na** (), không rõ năm sinh và mất, là một Đại vương của nước Đại và thủ lĩnh tối cao của bộ lạc Thác Bạt của người Tiên Ti vào thời Ngũ
**Thác Bạt Hạ Nhục** () (?-325) là một vua của nước Đại và thủ lĩnh tối cao của bộ lạc Thác Bạt của người Tiên Ti vào thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch
**Thác Bạt Úc Luật** (, ?-321) là một người cai trị của nước Đại vào thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc từ năm 316 đến 321, thủ lĩnh tối cao
**Nhược Can hoàng hậu** (chữ Hán: 若干皇后) là hoàng hậu của Tây Ngụy Cung Đế (西魏恭帝) Nguyên Khuếch (元廓), sau đổi thành Thác Bạt Khuếch (拓拔廓) trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Phụ
**Đạo Vũ Mộ Dung Hoàng hậu** (chữ Hán: 道武慕容皇后), là nguyên phối Hoàng hậu của Bắc Ngụy Đạo Vũ Đế Thác Bạt Khuê - vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Bắc Nguỵ trong lịch
**Văn Đức Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 文德順聖皇后, 15 tháng 3, 601 – 28 tháng 7, 636), thông thường được gọi là **Trưởng Tôn hoàng hậu** (長孫皇后), là Hoàng hậu duy nhất của Đường
**Minh Kính hoàng hậu** (chữ Hán: 明敬皇后; ? - 14 tháng 5, 558), Độc Cô thị (独孤氏), là vợ của Bắc Chu Minh Đế Vũ Văn Dục, hoàng đế Bắc Chu trong lịch sử Trung
**Ngụy Thương Đế** (chữ Hán: 魏殇帝; 528- ?), không rõ tên thật, là hoàng đế thứ 10 của nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc, đồng thời cũng là một trong bốn phụ nữ
**Phùng Hoằng** () (?-438), tên tự **Văn Thông** (文通), gọi theo thụy hiệu là **(Bắc) Yên Chiêu Thành Đế** ((北)燕昭成帝), là hoàng đế cuối cùng của nước Bắc Yên vào thời Ngũ Hồ thập lục
**Bắc Ngụy Hiến Văn Đế** (chữ Hán: 北魏獻文帝; 454–476), tên húy là **Thác Bạt Hoằng** (), là hoàng đế thứ sáu của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Năm 471, ông trở
**Phùng Bạt** () (?-430), tên tự **Văn Khởi** (文起), biệt danh **Khất Trực Phạt** (乞直伐), gọi theo thụy hiệu là **(Bắc) Yên Văn Thành Đế** ((北)燕文成帝), là một hoàng đế của nước Bắc Yên thời
Dưới đây là danh sách ghi nhận về những cuộc nhường ngôi trong lịch sử Trung Quốc: ## Tự nguyện nhường ngôi ### Nhường ngôi nhưng vẫn giữ quyền nhiếp chính # Năm 299 TCN,
**Hạ Bạt Thắng** (chữ Hán: 贺拔胜, ? – 544), tên tự là **Phá Hồ**, người Tiêm Sơn, Thần Vũ, dân tộc Sắc Lặc, tướng lĩnh nhà Bắc Ngụy, Tây Ngụy trong lịch sử Trung Quốc.
là vị Thiên hoàng thứ 122 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, trị vì từ ngày 13 tháng 2 năm 1867 tới khi qua đời. Ông được đánh giá là một
**Mộ Dung Hoảng** () (297–348), tên tự **Nguyên Chân** (元真), là một người cai trị nước Tiền Yên thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc và được công nhận rộng rãi
**Diêu Hoằng** () (388–417), tên tự **Nguyên Tử** (元子), là hoàng đế cuối cùng của nước Hậu Tần trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con trai cả của Diêu Hưng, là người có lòng
Trong lịch sử Trung Quốc, có rất nhiều hoàng hậu mang họ Vương. Danh sách dưới đây bao gồm những hoàng hậu được sách phong tại ngôi lúc sinh thời lẫn những người mang họ
nhỏ|Hoàng Việt **Hoàng Việt** (chữ Hán: 黄钺, 1750 – 1841), tự **Tả Điền** (左田), hiệu **Tả Quân** (左君), **Manh Tả** (盲左), người huyện Đương Đồ, phủ Cưu Châu, tỉnh An Huy , quan viên, nhà
**Kính Ai Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:敬哀皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Thục Hán Hiếu Hoài Đế đệ nhất
**Bắc Ngụy Thái Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏太武帝; 408 – 11 tháng 3, 452), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông thường được nhìn nhận
**Bắc Ngụy Văn Thành Đế** (chữ Hán: 北魏文成帝; 440–465), tên húy là **Thác Bạt Tuấn** (), là hoàng đế thứ năm của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông đăng cơ sau
**Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế** (chữ Hán: 北魏孝文帝; 13 tháng 10 năm 467 – 26 tháng 4 năm 499), tên húy lúc sinh là **Thác Bạt Hoành** (拓拔宏), sau đổi thành **Nguyên Hoành** (元宏), là
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
**Nhĩ Chu Vinh** (, 493 -530), tên tự là **Thiên Bảo** (天寶), người Bắc Tú Dung, là tướng lĩnh, quyền thần nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Ông là
**Nguyên Hạ** (407-479) là tướng nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. ## Thời trẻ Nguyên Hạ vốn có tên là **Thốc Phát Phá Khương**, tên Tiên Ti là **Hạ Đầu Bạt** hay **Giá
Trung Sơn Hiến Vũ vương **Thác Bạt Anh** (chữ Hán: 拓跋英, ? – 9 tháng 12 năm 510), còn gọi là **Nguyên Anh** (元英), tên tự là **Hổ Nhi**, là tướng lĩnh, hoàng thân nhà
**Mộ Dung Bảo** () (355–398), tên tự **Đạo Hựu** (道佑), là hoàng đế thứ nhì của nước Hậu Yên thời Thập Lục Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Sau khi Mộ Dung Thùy kiến lập
**Thôi Hạo** (chữ Hán: 崔顥, ? - 450), tên tự là **Bá Uyên** (伯淵), tên lúc nhỏ là **Đào Giản** (桃簡) nguyên quán ở Thành Đông Vũ, quận Thanh Hà, là chính trị gia hoạt
**Cuộc chính biến trong hoàng cung Bắc Ngụy** diễn ra vào năm 452, hoạn quan Tông Ái sát hại Ngụy Thế Tổ Thác Bạt Đảo và Nam An vương Thác Bạt Dư, cuối cùng bị
Đại hãn **Mông Kha** (tiếng Mông Cổ: Tập tin:Mongke qaghan.svg Мөнх хаан (Mönkh khaan), còn gọi là **Mông Ca** (theo tiếng Trung: 蒙哥); sinh khoảng năm 1208 và mất năm 1259). Ông là đại hãn
**Cuộc chính biến diễn ra trong hoàng cung nhà Bắc Ngụy năm 465** sau khi Ngụy Cao Tông Thác Bạt Tuấn qua đời, vua kế vị Thác Bạt Hoằng còn nhỏ tuổi, Xa kị đại
**Nguyên Diệp** () (509-532), tên tự **Hoa Hưng** (華興), biệt danh **Bồn Tử** (盆子), thường được gọi là **Trường Quảng vương** (長廣王), là vị hoàng đế thứ 12, có thời gian cai trị ngắn ngủi
**Lý quý nhân** (chữ Hán: 李贵人; ? - 456), là phi tần của Bắc Ngụy Văn Thành Đế, hoàng đế Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Bà là sinh mẫu của Bắc Ngụy Hiến