✨Mộ Dung Hoảng

Mộ Dung Hoảng

Mộ Dung Hoảng () (297–348), tên tự Nguyên Chân (元真), là một người cai trị nước Tiền Yên thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc và được công nhận rộng rãi là người khai quốc. Khi kế vị cha mình là Mộ Dung Hối năm 333, ông đã thừa hưởng tước hiệu nhà Tấn ban cho là Liêu Đông công, song đến năm 337 ông đã xưng là Yên vương, theo triều thống được coi là dấu mốc khởi đầu nước Tiền Yên (Tấn Thành Đế công nhận tước vương của Mộ Dung Hoảng vào năm 341 sau nhiều tranh luận trong triều đình nhà Tấn). Sau khi con trai ông là Mộ Dung Tuấn hoàn toàn tách khỏi nhà Tấn và xưng đế năm 353, ông được truy tôn thụy hiệu (Tiền) Yên Văn Minh Đế [(前)燕文明皇帝] cùng miếu hiệu Thái Tổ (太祖).

Đầu đời

Cha của Mộ Dung Hoảng là Mộ Dung Hối, người này ban đầu là một tù tưởng Tiên Ti giao chiến với quân Tấn vào cuối thời trị vì của Tấn Vũ Đế, hoàng đế khai quốc nhà Tấn, song sau đó ông đã khuất phục và trở thành chư hầu của Tấn vào năm 289. Vì luôn bị một tù trưởng Tiên Ti khác là Đoàn Giai (段階) đánh phá, Mộ Dung Hối đã nhún nhường tìm kiếm hòa bình với Đoàn bộ và kết hôn với một trong các con gái của Đoàn Giai. Cuộc hôn nhân này dẫn đến sự ra đời của Mộ Dung Hoảng (năm 297) và hai em trai của ông, Mộ Dung Nhân (慕容仁) và Mộ Dung Chiêu (慕容昭).

Khi Mộ Dung Hối còn cai trị với vị thế một tù trưởng, triều đình nhà Tấn liên tục ở trong tình trạng hỗn loạn và cuối cùng suy sụp do các cuộc nổi loạn, tranh giành nội bộ, trong đó mạnh nhất là Hán Triệu của người Hung Nô. Kết quả là, nhiều nạn dân đã đến các vùng lãnh địa tương đối an toàn của Mộ Dung Hối, ông ta đối xử tốt với các nạn dân người Hán và hầu hết đã lựa chọn ở lại, do vậy sức mạnh của ông được tăng cường rất nhiều, và khi quân Tấn ở mạn bắc dần dần thất trận trước tướng Thạch Lặc của Hán Triệu, vùng đất của Mộ Dung Hối trở thành lãnh địa duy nhất ở Hoa Bắc vẫn nằm dưới quyền cai trị của Tấn trên danh nghĩa, nhà Tấn ban cho ông tước hiệu Liêu Đông công. Ông ủy thác cho con trai Mộ Dung Hoảng tiến hành các nhiệm vụ quân sự quan trọng, như giao chiến với Vũ Văn bộ hùng mạnh vào các năm 320 và 325. Đầu năm 322, Mộ Dung Hối phong Mộ Dung Hoảng làm người kế vị. Tuy nhiên, Mộ Dung Hối cũng rất sủng ái các em trai của Mộ Dung Hoảng là Mộ Dung Nhân, Mộ Dung Chiêu và đặc biệt là Mộ Dung Hàn (慕容翰), người này là một vị tướng được đánh giá cao. Mộ Dung Hoảng trở nên ghen tị và nghi ngờ những người em này của mình, điều này đã gây nên các biến động về sau.

Liêu Đông công

Năm 333, Mộ Dung Hối qua đời. Mộ Dung Doảng kế nhiệm việc quản lý lãnh địa với chức vụ được nhà Tấn ban là Bình Bắc tướng quân (平北將軍) và cử sứ thần đến thống báo việc cha qua đời cho Tấn Thành Đế và thỉnh cầu chính thức phong chức vụ cho mình. Ngay sau đó, khi đoàn sứ thần nhà Tấn chưa đến nơi, ông đã xưng làm Liêu Đông công, tước hiệu cha ông đã được ban.

Mộ Dung Hoảng thực thi quốc pháp một cách nghiêm khắc, khiến một số thuộc cấp lo lắng. Nghi ngờ của ông về Mộ Dung Hàn, Mộ Dung Chiêu và Mộ Dung Nhân cũng trở nên rõ ràng hơn. Mộ Dung Hàn, do sợ hãi đã đào thoát đến lãnh địa của bộ tộc Đoàn và trở thành một tướng lĩnh của tù trưởng Đoàn Liêu (段遼). Mộ Dung Nhân và Mộ Dung Chiêu đã âm mưu phản loạn, theo đó để Mộ Dung Nhân tấn công kinh thành Chức Thành (棘城, nay thuộc Cẩm Châu, Liêu Ninh) từ vị trí trấn giữ của mình ở Bình Quách (平郭, nay thuộc Dinh Khẩu, Liêu Ninh) và Mộ Dung Chiêu sẽ nổi dậy bên trong kinh thành để hợp sức, sẵn sàng phân chia lãnh địa nếu thành công. Mộ Dung Nhân ngay sau đó đã phát động một cuộc tấn công bất ngờ, song quân do thám của Mộ Dung Hoảng đã phát hiện được cuộc tấn công và chuẩn bị nghênh chiến, vì vậy Mộ Dung Nhân thay vào đó đã chiếm các thành ở phía đông (bán đảo Liêu Đông). Quân Mộ Dung Hoảng cử đến đều bị Mộ Dung Nhân đẩy lui, Mộ Dung Nhân sau tự xưng làm Liêu Đông công. Các sứ thần nhà Tấn được cử đến để ban cho Mộ Dung Hoảng tước hiệu Liêu Đông công ông đã bị Mộ Dung Nhân ngăn chặn và bắt giữ.

Cũng trong năm 334, bộ tộc Đoàn tấn công dưới sự chỉ huy của Mộ Dung Hàn và huynh đệ của Đoàn Liêu là Đoàn Lan (段蘭) đã tiến đánh Liễu Thành (柳城, nay thuộc Chiêu Dương, Liêu Ninh), và quân của Mộ Dung Hoảng được phái đến để giải vây cho Liễu Thành đã đại bại dưới tay quân Đoàn. Đoàn Lan muốn tiếp tục tiến về Chức Thành, song Mộ Dung Hàn lo sợ rằng bộ lạc của mình sẽ bị tiêu diệt nên đã ra lệnh rút quân.

Đầu năm 336, Mộ Dung Hoảng đã thực hiện một cuộc tấn công bất ngờ và đầy táo bạo, đích thân ông đã dẫn quân theo một tuyến đường mà Mộ Dung Nhân không mong đợi, đó là vượt qua mặt Bột Hải đã đóng băng để đến Bình Quách. Mộ Dung Nhân đã không nhận ra đây là một cuộc tấn công lớn nên đã ra khỏi thành để đánh lại Mộ Dung Hoảng. Mộ Dung Nhân sau đó bị đánh bại và bị bức tử.

Yên vương

Năm 337, Mộ Dung Hoảng xưng làm Yên vương, một tước hiệu mà nhà Tấn trước đó đã xem xét trao cho Mộ Dung Hối song đã từ chối. Điều này được xem như dấu mốc thành lập Tiền Yên, đặc biệt là bởi ông cũng đã lập nên một cơ cấu chính quyền theo gương triều đình nhà Tấn, mặc dù với các chức tước khác để thể hiện sự thấp kém trước Tấn.

Cùng năm, Mộ Dung Hoảng, đi ngược lại với chính sách không liên lạc với Hậu Triệu của cha ông, và đã cử một sứ thần đến Hậu Triệu hứa hẹn trở thành chư hầu và đề nghị cùng hợp quân chống lại bộ tộc Đoàn. Hoàng đế Thạch Hổ của Hậu Triệu rất hài lòng và sau đó ân chuẩn cuộc tấn công năm 338. Vào mùa xuân, họ bắt đầu tấn công. Mộ Dung Hoảng nhanh chóng tiến đánh và cướp phá các thành của Đoàn ở phía bắc kinh thành Lệnh Chi (令支, nay thuộc Đường Sơn, Hà Bắc), đánh bại quân của Đoàn Lan. Ông sau đó rút quân, và khi quân Hậu Triệu đến thì Đoàn Liêu đã không còn dám đối đầu nên đã bỏ Lệnh Chi và chạy trốn. Lệnh Chi đầu hàng quân Hậu Triệu. Thạch Hổ hài lòng về chiến thắng song giận dữ trước việc Mộ Dung Hoảng đã rút quân trước khi có thể hội quân và ông quyết định quay sang chống Mộ Dung Hoảng. Với một lực lượng Hậu Triệu đông đảo tiến vào, các thành của Tiền Yên đều khuất phục ngoại trừ kinh thành Chức Thành. Mộ Dung Hoảng xem xét đến việc chạy trốn, song đã nghe theo lời khuyên của tướng Mộ Dư Căn (慕輿根), ông ở lại và phòng thủ thành trong gần 20 ngày, và quân Hậu Triệu đã buộc phải rút lui; Mộ Dung Hoảng sau đó cử con trai là Mộ Dung Khác đi đánh quân Hậu Triệu vừa rút và đã giành được đại thắng, đội quân Hậu Triệu duy nhất còn nguyên vẹn là của Thạch Mẫn, cháu trai nuôi của Thạch Hổ. Sau khi quân Hậu Triệu rút khỏi, Mộ Dung Hoảng đã cho chiếm lại các thành. Ông cũng giành quyền kiểm soát các thành trước đây của Đoàn bộ, mở rộng lãnh địa đến bắc bộ Hà Bắc. Đầu năm 339, sau khi Đoàn Liêu gửi các thỉnh cầu đối lập đến Hậu Triệu và Tiền Yên, yêu cầu đầu hàng, quân Hậu Triệu và Tiền Yên lại giao chiến, Mộ Dung Khác lại một lần nữa đại thắng trước quân Hậu Triệu. Mộ Dung Hoảng coi Đoàn Liêu là khách và hợp nhất các đội quân Đoàn bộ còn lại vào quân Tiền Yên. Tuy nhiên, đến cuối năm, Đoàn Liêu lập kế hoạch nổi loạn và bị Mộ Dung Hoảng giết chết. (Tuy nhiên, gia tộc Đoàn đã không bị xóa sổ, và nhiều thành viên của gia tộc Đoàn sau đó đã trở thành các tướng, quan lại và thê thiếp của hoàng tộc Mộ Dung). Từ thời điểm này, quân Tiền Yên tiến hành các cuộc tấn công hàng năm nhằm vào vùng biên giới của Hậu Triệu. Họ cũng định kỳ tấn công Vũ Văn bộ và Cao Câu Ly.

Cũng trong năm 339, Mộ Dung Hoảng gả em gái cho Đại vương Thác Bạt Thập Dực Kiền (拓跋什翼犍, thắt chặt liên minh giữa hai thế lực Tiên Ti (Tuy nhiên, hai bên đã có các trận đánh không thường xuyên sau cái chết của Mộ Dung công chúa năm 342). Ông cũng cử sứ thần đến kinh thành Kiến Khang của nhà Tấn để chính thức yêu cầu Tấn Thành Đế ban cho tước hiệu Yên vương, giải thích rằng mình cần nó để nâng cao quyền lực đối với người dân song vẫn sẽ tiếp tục trung thành với Tấn. Năm 341, sau nhiều tháng tranh luận, Thành Đế đã ban cho Mộ Dung Hoảng tước vương.

Năm 340, Mộ Dung Hàn, người đã chạy đến Vũ Văn bộ sau khi bộ tộc Đoàn bị đánh bại, ông ta bị Vũ Văn bộ nghi ngờ và ngược đãi nên đã trở về Liêu Đông. Mộ Dung Hoảng phong cho em trai làm một tướng lĩnh.

Năm 341, Mộ Dung Hoảng dời đô từ Cức Thành đến một thành mới được xây dựng là Long Thành (龍城, nay thuộc Chiêu Dương, Liêu Ninh).

Năm 344, Mộ Dung Hoảng, cùng phó tướng Mộ Dung Hàn đã tiến đánh Vũ Văn bộ, quân Tiền Yên đã đại thắng và buộc tù trưởng Vũ Văn Dật Đậu Quy (宇文逸豆歸) phải chạy trốn. Quân Tiền Yên buộc Vũ Văn bộ phải di chuyển xuống phía nam và hợp nhất họ thành thần dân của Tiền Yên. Cuối năm đó, Mộ Dung Hoảng vẫn còn lo sợ Mộ Dung Hàn nên đã bức tử em trai.

Năm 345, Mộ Dung Hoảng chấm dứt việc sử dụng niên hiệu của nhà Tấn, một dấu hiệu được một số người coi là bắt đầu việc Tiền Yên chính thức độc lập.

Năm 348, Mộ Dung Hoảng lâm bệnh và qua đời. Con trai ông là Mộ Dung Tuấn lên kế vị.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mộ Dung Hoảng** () (297–348), tên tự **Nguyên Chân** (元真), là một người cai trị nước Tiền Yên thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc và được công nhận rộng rãi
**Đạo Vũ Mộ Dung Hoàng hậu** (chữ Hán: 道武慕容皇后), là nguyên phối Hoàng hậu của Bắc Ngụy Đạo Vũ Đế Thác Bạt Khuê - vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Bắc Nguỵ trong lịch
**Mộ Dung Hoằng** () (?-384) là người sáng lập ra nước Tây Yên vào thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là một trong số các con trai của hoàng
**Mộ Dung Tuấn** () (319–360), tên tự **Tuyên Anh** (宣英), gọi theo thụy hiệu là **(Tiền) Yên Cảnh Chiêu Đế** ((前)燕景昭帝), là một hoàng đế nước Tiền Yên trong lịch sử Trung Quốc. Ông là
**Mộ Dung Vĩ** () (350–385), tên tự **Cảnh Mậu** (景茂), gọi theo thụy hiệu là **(Tiền) Yên U Đế** ((前)燕幽帝, thụy hiệu do thúc phụ Mộ Dung Đức truy phong, Mộ Dung Đức là hoàng
**Mộ Dung Hối** (chữ Hán: 慕容廆, bính âm Mùróng Guī, 269 — 333, tên tự **Dịch Lặc Côi** (弈洛瓌), quê ở Cức Thành, Xương Lê là thủ lĩnh thuộc bộ tộc của người Tiên Ti
**Mộ Dung Khác** (chữ Hán: 慕容恪, ?–367), tên tự là **Huyền Cung** (玄恭), là tôn thất, người nhiếp chính ở nước Tiền Yên, một trong mười sáu nước Ngũ Hồ trong lịch sử Trung Quốc.
**Mộ Dung Siêu** () (385–410), tên tự **Tổ Minh** (祖明), là hoàng đế cuối cùng của nước Nam Yên thời Ngũ Hồ thập lục quốc. Ông là cháu họ của hoàng đế khai quốc Mộ
**Mộ Dung Bảo** () (355–398), tên tự **Đạo Hựu** (道佑), là hoàng đế thứ nhì của nước Hậu Yên thời Thập Lục Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Sau khi Mộ Dung Thùy kiến lập
**Mộ Dung Nghĩ** () (?-386) là vua thứ 4 nước Tây Yên của người Tiên Ti vào thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là một trong số các con
**Mộ Dung Thùy** () (326–396), tên tự **Đạo Minh** (道明), gọi theo thụy hiệu là **(Hậu) Yên Vũ Thành Đế** ((後)燕武成帝) là một đại tướng của nước Tiền Yên và sau này trở thành hoàng
**Mộ Dung Đức** () (336–405), năm 400 đổi tên thành **Mộ Dung Bị Đức** (慕容備德), tên tự **Huyền Minh** (玄明), gọi theo thụy hiệu là **(Nam) Yên Hiến Vũ Đế** ((南)燕獻武帝), là hoàng đế khai
**Mộ Dung Hàn** (chữ Hán: 慕容翰, ? - 344), tên tự là **Nguyên Ung**, quê ở Chức Thành, huyện Xương Lê, là một tướng lĩnh và quý tộc người Tiên Ti cát cứ ở miền
**Mộ Dung Vĩnh** () (?-394), tên tự **Thúc Minh** (叔明), là vua thứ 7 và cũng là vua cuối cùng của nước Tây Yên vào thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung
**Mộ Dung Xung** () (359–386), gọi theo thụy hiệu là **(Tây) Yên Uy Đế** ((西)燕威帝), là vua thứ 2 nước Tây Yên vào thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông
**Mộ Dung Nạp** (, ? - ?), người Tiên Ti, là hoàng tử của hoàng đế Mộ Dung Hoảng nước Tiền Yên thời Ngũ Hồ thập lục quốc. Đồng thời, ông cũng là anh trai
**Mộ Dung Trung** () (?-386) là vua thứ 6 nước Tây Yên của người Tiên Ti vào thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con trai của người sáng
**Mộ Dung Dao** () (?-386), Ngụy thư ghi là **Mộ Dung Vọng** (慕容望) là vua thứ 5 nước Tây Yên của người Tiên Ti vào thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung
nhỏ|phải|họ Mộ Dung viết bằng chữ Hán **Mộ Dung** (chữ Hán: 慕容, Bính âm: Murong, Việt bính: Mou6 jung4) là một họ của người Trung Quốc. Mộ Dung là một trong 60 họ kép (gồm
nhỏ|phải|Mộ Dung bộ (慕容部) cát cứ ở Liêu Đông thời kỳ đầu [[Ngũ Hồ loạn Hoa]] **Mộ Dung bộ** () là một bộ lạc lớn của tộc Tiên Ti thời kỳ Ngụy-Tấn. Những năm đầu
**Mộ Dung Thổ Dục Hồn** (, 246-317) là người kiến lập nên nước Thổ Dục Hồn, là thủy tổ của những người cai trị Thổ Dục Hồn sau này. Ông là con trai trưởng của
**Mộ Dung Hi** () (385–407), tên tự là **Đạo Văn** (道文), gọi theo thụy hiệu là **(Hậu) Yên Chiêu Văn Đế** ((後)燕昭文帝), là một hoàng đế của nước Hậu Yên trong lịch sử Trung Quốc.
**Mộ Dung Nặc Hạt Bát** (, ?- 688), tước hiệu là **Ô Địa Dã Bạt Lặc Đậu khả hãn** (烏地也拔勒豆可汗) hay giản hóa thành **Lặc Đậu khả hãn** (勒豆可汗), tước hiệu nhà Đường **Thanh Hải
**Mộ Dung Thịnh** () (373–401), tên tự **Đạo Vận** (道運), gọi theo thụy hiệu là **(Hậu) Yên Chiêu Vũ Đế** ((後)燕昭武帝), là một hoàng đế của nước Hậu Yên trong lịch sử Trung Quốc. Ông
**Mộ Dung Phục Doãn** (, 597–635), hiệu là **Bồ Tát Bát khả hãn** (步薩鉢可汗), là một quân chủ của nước Thổ Dục Hồn. Ông đăng cơ sau khi người anh trai Mộ Dung Thế Phục
**Mộ Dung Lân** (, ?-398) là một tướng lĩnh và một thân vương của nước Hậu Yên trong lịch sử Trung Quốc. Ông là một trong những người con trai của hoàng đế khai quốc
**Mộ Dung Thuận** (, ?- 635), hiệu là **Truật Cố Lã Ô Cam Đậu khả hãn** (趉故呂烏甘豆可汗) giản lược là **Cam Đậu khả hãn** (甘豆可汗), tước hiệu nhà Đường **Tây Bình vương** (西平王), là một
**Mộ Dung Lệnh** (慕容令) hay **Mộ Dung Toàn** (慕容全) là trưởng tử và thế tử của Ngô vương Mộ Dung Thùy nước Tiền Yên. Mẹ của ông là tiên Đoàn phi. Năm Kiến Hi thứ
**Mộ Dung Tường** (, ? - 397) là một thành viên tông thất Hậu Yên. Năm Vĩnh Khang thứ 2 (397), Hậu Yên không địch nổi cuộc tấn công của nước Bắc Ngụy, hoàng đế
BÔNG TẨY TRANG RCAMAR---120 miếng--- Bông Tẩy Trang RCAMAR - Kho Gia Dụng Hoàng Dung✨BÔNG TẨY TRANG SIÊU MỀM MỊN 100% COTTON NHÃN HIỆU TÔI LÀ NHẤT NỔI TIẾNG CỦA NGA✨ Không giống như những
**Mộ Dung Thiệu Tông** (chữ Hán: 慕容绍宗, 501 – 549), người dân tộc Tiên Ti, là tướng lĩnh nhà Bắc Ngụy, Đông Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông là hậu duệ của Thái Nguyên
**Mộ Dung Thiệp Quy** (, ?- 12/283) là một tù trưởng Mộ Dung bộ Tiên Ti. Ông là cháu nội của tù trưởng Mạc Hộ Bạt, và là con trai của tù trưởng Mộ Dung
là vị Thiên hoàng thứ 122 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, trị vì từ ngày 13 tháng 2 năm 1867 tới khi qua đời. Ông được đánh giá là một
**Hoàng thành Thăng Long** (chữ Hán: 昇龍皇城; Hán-Việt: Thăng Long Hoàng thành) là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành Thăng Long - Đông Kinh và tỉnh thành Hà Nội bắt đầu
**Gioan Phaolô II** (hay **Gioan Phaolô Đệ Nhị;** tiếng Latinh: _Ioannes Paulus II_; tên khai sinh: **Karol Józef Wojtyła,** ; 18 tháng 5 năm 1920 – 2 tháng 4 năm 2005) là vị giáo hoàng
nhỏ|Sa mạc [[Sa mạc Sahara|Sahara tại Algérie]] nhỏ|Sa mạc [[Sa mạc Gobi|Gobi, chụp từ vệ tinh]] [[Ốc đảo tại Texas, Hoa Kỳ]] Một cảnh [[sa mạc Sahara]] **Hoang mạc** là vùng có lượng mưa rất
**Friedrich Wilhelm Viktor Abert von Hohenzollern, Wilhelm II** của Phổ và Đức, (27 tháng 1 năm 1859 – 4 tháng 6 năm 1941) là vị Hoàng đế (_Kaiser_) cuối cùng của Đế quốc Đức, đồng
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
nhỏ|Tượng [[Đại Thắng Minh Hoàng Hậu ở Hoa Lư, người duy nhất làm hoàng hậu 2 triều trong lịch sử Việt Nam.]] **Hoàng hậu nhà Đinh** theo ghi chép trong chính sử gồm 5 Hoàng
phải|Hoàng cung ở [[thủ đô Bangkok.]] nhỏ|Nhà nguyện Phật ngọc lục bảo. phải|Wat Phra Kaew nhìn từ Hoàng cung. **Cung điện Hoàng gia Thái Lan** ở Băng Cốc (tiếng Thái: พระบรมมหาราชวัง _Phra Borom Maha Ratcha
**Hoàng Dược Sư** (phồn thể:黃藥師, giản thể:黄药师, bính âm: _Huáng Yàoshī_) ngoại hiệu **Đông Tà**, biệt hiệu **Hoàng Lão Tà** là nhân vật trong tiểu thuyết _Anh hùng xạ điêu_ của Kim Dung. Ông cũng
**Hoàng Diệu** (chữ Hán: 黃耀; 1829 - 1882) là một quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, người đã quyết tử bảo vệ thành Hà Nội khi Pháp tấn công năm 1882. ## Xuất
**Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝儀純皇后, ; 23 tháng 10, năm 1727 – 28 tháng 2 năm 1775), còn được biết đến dưới thụy hiệu **Lệnh Ý Hoàng quý phi** (令懿皇貴妃), là phi
**Uyển Dung** (chữ Hán: 婉容; 13 tháng 11, năm 1906 - 20 tháng 6, năm 1946), Quách Bố La thị, biểu tự **Mộ Hồng** (慕鸿), hiệu **Thực Liên** (植莲), là nguyên phối Hoàng hậu của
thumb|Tùng Thiện vương [[Nguyễn Phúc Miên Thẩm.]] Triều đại nhà Nguyễn đã thiết lập quy chế cụ thể về tước hiệu cùng đãi ngộ cho các thành viên thuộc hoàng tộc (họ Nguyễn Phúc cùng
– Kem Hoàng cung đã mang tiếng vang, trở thành một sản phẩm hot trong thế giới mỹ phẩm, Nay Hoàng cung cam ra đời:– Khẳng định, phát huy công dụng xóa mờ nám chuyên
**Hồng hoàng** hay **phượng hoàng đất** (danh pháp hai phần: _Buceros bicornis_) là thành viên lớn nhất trong họ Hồng hoàng (_Bucerotidae_). Hồng hoàng sinh sống trong các khu rừng của Ấn Độ, Đông Nam
**Giáo hoàng Gioan Phaolô I** (Latinh: _Ioannes Paulus PP. I_, tiếng Ý: _Giovanni Paolo I_, tên khai sinh là **Albino Luciani**, 17 tháng 10 năm 1912 – 28 tháng 9 năm 1978) là vị Giáo
**Khủng hoảng kinh tế** là một giai đoạn suy thoái kéo dài, liên tục trong hoạt động kinh tế ở một hoặc nhiều nền kinh tế. Đây là một cuộc suy thoái kinh tế nghiêm