Thác Bạt Nghi (, ? – 409), là tướng lĩnh và hoàng thân, khai quốc công thần nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc.
Xuất thân
Ông nội Thác Bạt Nghi là Thác Bạt Thập Dực Kiền, ông vua của cuối cùng của nước Đại thời Thập Lục Quốc. Cha là Tần Minh vương Hàn, con trai thứ ba của Thập Dực Kiền. Ông là anh trai của Thác Bạt Liệt, Thác Bạt Cô, là em họ và em cùng mẹ của Bắc Ngụy Đạo Vũ đế Thác Bạt Khuê.
Thác Bạt Nghi mình dài 7 thước 5 tấc, mặt mũi rất lớn, mày râu đẹp đẽ, có mưu lược, từ nhỏ đã rành việc múa kiếm.
Nghi sức lực hơn người, gương cung nặng đến 10 thạch, thời bấy giờ ca ngợi là "Vệ vương Cung, Hoàn vương Sóc", tề danh với Trần Lưu công Thác Bạt Kiền (được truy tặng Hoàn vương) sử dụng cây sóc rất lớn.
Đối đáp Mộ Dung, mưu diệt Hậu Yên
Khi Thác Bạt Khuê lánh nạn ở bộ lạc Hạ Lan, ông ở bên cạnh hầu hạ. Lúc mới dựng nước, ban tước Cửu Nguyên công; theo Thác Bạt Khuê đánh phá các bộ lạc, có công tham mưu.
Khi Thác Bạt Khuê sắp quyết chiến với Mộ Dung Thùy, sai Nghi đến Hậu Yên dò xét. Bấy giờ Thùy hỏi tại sao Khuê không tự đến, Nghi nói: "Từ tổ tiên của chúng ta đến nay, đời đời sống ở phương bắc, con cháu được kế thừa, không để mất tình cố cựu. Tổ tiên của chúng tôi được nhà Tấn chính sóc, ban tước Đại vương, cùng với nước Yên đời đời có tình anh em. Việc Nghi phụng mệnh đến đây, về lý không có gì sai!"
Thùy muốn áp đảo Nghi, nhân thế mới nói đùa rằng: "Uy danh của ta vang khắp 4 biển, chủ của ngươi không tự đến, sao gọi là không sai!?" Nghi đáp lại: "Yên nếu không sửa văn đức, muốn cậy mạnh dấy binh, đấy sẽ là việc của tướng soái bản triều, không phải việc Nghi có thể biết được!"
Ông trở về đô thành gặp Khuê, hồi báo rằng: "Thùy chết rồi mới có thể tính được, bây giờ thì chưa!" Khuê giả vờ biến sắc mặt, hỏi tại sao, Nghi nói: "Thùy tuổi đã về chiều, mà con ông ta là Bảo nhu nhược, mưu không thể quyết. Mộ Dung Đức tự phụ mình có tài năng, không phải bề tôi của 1 ông vua nhu nhược. Đợi cho bọn chúng phát sinh nội loạn, khi ấy mới có thể tính được!" Khuê đồng ý. Sau đó được cải phong làm Bình Nguyên công.
Công - danh trọn vẹn, được nhiều sủng hạnh
Thác Bạt Khuê chinh thảo Lưu Vệ Thần, Nghi theo đường riêng tấn công, bắt được đầu và thây của Vệ Thần, truyền đầu đến hành cung. Khuê rất vui, phong ông làm Đông Bình công.
Khuê mệnh cho ông làm đô đốc đóng đồn làm ruộng ở Hà Bắc, tự Ngũ Nguyên đến bên ngoài địa giới Cố Dương, chia nhau cầy cấy, rất được lòng người.
Mộ Dung Bảo xâm phạm Ngũ Nguyên, Nghi giữ lấy Sóc Phương, cắt đứt đường về của hắn ta. Bình xong Tịnh Châu, Nghi công nhiều, dời sang làm Thượng thư lệnh.
Theo Thác Bạt Khuê vây Trung Sơn, sau khi đánh bại Mộ Dung Đức, Khuê lấy Chu thị, vợ của Mộ Dung Lân ban cho Nghi, cùng với tài sản của ông ta. Ông dời sang nhận chức Đô đốc trung ngoại chư quân sự, Tả thừa tướng, tiến phong Vệ vương. Sau khi hạ được Trung Sơn, lại sai Nghi đánh Nghiệp, lại chiếm được Nghiệp. Khuê sắp trở về Đại Đô, đặt chức Trung Sơn hành đài, chiếu Nghi làm Thượng thư lệnh để trấn thủ Trung Sơn, trông nom xa gần.
Khuê triệu Nghi về triều làm Thừa tướng để phụ chính. Ông lại theo Khuê chinh thảo dân tộc Cao Xa. Nghi đi đường riêng phá được biệt bộ của họ. Ông lại theo quân thảo phạt Diêu Bình, có công, được ban lụa, vải, bông (vải), bò, ngựa, dê…
Thác Bạt Đảo ra đời, Khuê rất vui, trong đêm triệu Nghi vào cung, hỏi: "Khanh nửa đêm được gọi vào cung, không thấy lạ và sợ hay sao?" Ông đáp: "Thần lấy lòng thành phụng sự bệ hạ, bệ hạ sáng suốt, thần cũng an lòng. Chợt nhận chiếu đêm, lạ thì có, sợ thì không!" Khuê nói Đảo mới ra đời, Nghi vái lạy rồi ca múa chúc mừng, sau đó đối ẩm đến khi trời sáng. Sau khi triệu quần thần vào, ban cho ông Ngự mã, Ngự đái (đai lưng), các thứ gấm lụa…
Người Thượng Cốc là Hầu Ngập, Trương Duyện, người Đại quận là Hứa Khiêm bấy giờ rất có tiếng tăm, học rộng biết nhiều. Buổi đầu đến Bắc Ngụy, nghe nói Nghi lấy lễ đãi hiền sĩ, đầu tiên đến xin bái phỏng. Nghi lấy lễ tiếp đãi, bàn việc đương thời, tay vẽ sông núi, phân biệt thành ấp, những chỗ được mất nguy hiểm, nhanh chóng đề cập đến. Bọn Hứa Khiêm thán phục, nói với nhau rằng: "Bình Nguyên công có đại tài thao lược hơn đời, đáng để bọn ta đi theo." Khuê thấy Nghi rất có tiếng tăm, càng trọng đãi ông, khi ấy thường ghé thăm phủ đệ, đối xử với ông theo lễ người nhà.
Cậy sủng mưu phản, có tật giật mình
Nghi cậy công được sủng, bèn cùng Nghi Đô công Mục Sùng mưu phản, thu phục võ sĩ dò xét Thác Bạt Khuê, muốn làm việc bạn nghịch. Con Sùng là Toại ở trong đám võ sĩ, Khuê triệu anh ta đến, nói là có nhiệm vụ sai phái. Toại nghe triệu, chỉ sợ việc đã bị tiết lậu, trèo tường cáo giác. Khuê thấy bọn họ chưa để lộ gì, nên tạm bỏ qua.
Năm Thiên Tứ thứ 6 (409), trên trời có dị tượng, thầy bói nói đây là điềm có nghịch thần gây việc đầu rơi máu chảy, Khuê sợ lời ấy, giết rất nhiều công khanh, nhằm trấn yểm thiên tai này. Nội tâm của Nghi bất an, bèn 1 ngựa bỏ trốn. Khuê sai người đuổi theo bắt được, rồi ban chết, táng theo lễ thứ nhân.
Nghi có 15 con trai, Toản, Lương, Cán đều có truyện trong Ngụy thư.
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thác Bạt Nghi** (, ? – 409), là tướng lĩnh và hoàng thân, khai quốc công thần nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. ## Xuất thân Ông nội Thác Bạt Nghi là Thác
**Thác Bạt Cật Phần** () là một lãnh tụ Sách Đầu bộ Tiên Ti, ông được triều đình Bắc Ngụy truy tôn là thủy tổ thứ 14. Thác Bạt Cật Phần là con của Thác
Trần Lưu Hoàn vương **Thác Bạt Kiền** (chữ Hán: 拓跋虔, ? - 396), tướng lĩnh, hoàng thân, khai quốc công thần nhà Bắc Ngụy. ## Cuộc đời Ông nội là Thác Bạt Thập Dực Kiền,
**Thác Bạt Hoảng** (, 428 – 29 tháng 7 năm 451), là một hoàng thái tử của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông là trưởng tử của Bắc Ngụy Thái Vũ
**Thác Bạt Thập Dực Kiền** () (320-376), là một thủ lĩnh tối cao của người Tiên Ti và là vua của nước Đại vào thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc.
**Hạ Bạt Thắng** (chữ Hán: 贺拔胜, ? – 544), tên tự là **Phá Hồ**, người Tiêm Sơn, Thần Vũ, dân tộc Sắc Lặc, tướng lĩnh nhà Bắc Ngụy, Tây Ngụy trong lịch sử Trung Quốc.
**Phùng Bạt** () (?-430), tên tự **Văn Khởi** (文起), biệt danh **Khất Trực Phạt** (乞直伐), gọi theo thụy hiệu là **(Bắc) Yên Văn Thành Đế** ((北)燕文成帝), là một hoàng đế của nước Bắc Yên thời
**Bắc Ngụy Đạo Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏道武帝; 371–409), tên húy là **Thác Bạt Khuê** (拓拔珪), tên lúc sinh là **Thác Bạt Thiệp Khuê** (拓拔渉珪), là hoàng đế khai quốc của triều đại Bắc Ngụy
**Cuộc chính biến trong hoàng cung Bắc Ngụy** diễn ra vào năm 409, Thanh Hà vương Thác Bạt Thiệu giết chết phụ thân là Ngụy Thái Tổ Thác Bạt Khuê để tiếm ngôi nhưng cuối
**Đinh Bạt Tụy** (1516-1589) là quan triều Lê trung hưng, quê ở thôn Bùi Ngọa, xã Bùi Khổng, tổng Hải Đô, nay là xã Hưng Trung, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. ## Tiểu sử
**Chiến dịch những linh hồn phiêu bạt**, hay **Chiến Dịch Oan Hồn Vất Vưởng** (; viết tắt là **OWS**) là một chiến dịch tâm lý khai thác niềm tin của người Việt về những người
**Bắc Ngụy Thái Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏太武帝; 408 – 11 tháng 3, 452), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông thường được nhìn nhận
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế
**Nam Bắc triều** (, 420-589) là một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ năm 420 khi Lưu Dụ soán Đông Tấn mà lập nên Lưu Tống, kéo dài đến năm 589
**Nhà Bắc Ngụy** (tiếng Trung: 北魏朝, bính âm: běi wèi cháo, 386–535), còn gọi là **Thác Bạt Ngụy** (拓拔魏), **Hậu Ngụy** (後魏) hay **Nguyên Ngụy** (元魏), là một triều đại thời Nam Bắc triều trong
**Mộ Dung Thùy** () (326–396), tên tự **Đạo Minh** (道明), gọi theo thụy hiệu là **(Hậu) Yên Vũ Thành Đế** ((後)燕武成帝) là một đại tướng của nước Tiền Yên và sau này trở thành hoàng
**Nguyên Hạ** (407-479) là tướng nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. ## Thời trẻ Nguyên Hạ vốn có tên là **Thốc Phát Phá Khương**, tên Tiên Ti là **Hạ Đầu Bạt** hay **Giá
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
**Nhĩ Chu Vinh** (, 493 -530), tên tự là **Thiên Bảo** (天寶), người Bắc Tú Dung, là tướng lĩnh, quyền thần nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Ông là
**Bắc Ngụy Minh Nguyên Đế** (chữ Hán: 北魏明元帝; 392–423), tên húy là **Thác Bạt Tự** (拓拔嗣), là hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con trai
**Bắc Ngụy Văn Thành Đế** (chữ Hán: 北魏文成帝; 440–465), tên húy là **Thác Bạt Tuấn** (), là hoàng đế thứ năm của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông đăng cơ sau
**Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế** (chữ Hán: 北魏孝文帝; 13 tháng 10 năm 467 – 26 tháng 4 năm 499), tên húy lúc sinh là **Thác Bạt Hoành** (拓拔宏), sau đổi thành **Nguyên Hoành** (元宏), là
**Trận Hán Trung** (chữ Hán: 汉中之战, Hán Trung chi chiến) là cuộc chiến tranh đánh chiếm khu vực Hán Trung của nhà Nam Tề, do đại tướng nhà Bắc Ngụy là Thác Bạt Anh tiến
**Bạt Bạt Tung** (chữ Hán: 拔拔嵩) hay **Trưởng Tôn Tung** (长孙嵩, 358 – 437 ), tướng lãnh, khai quốc công thần nhà Bắc Ngụy. Ông có họ hàng gần với hoàng thất Bắc Ngụy, hộ
**Mộ Dung Lân** (, ?-398) là một tướng lĩnh và một thân vương của nước Hậu Yên trong lịch sử Trung Quốc. Ông là một trong những người con trai của hoàng đế khai quốc
**Bắc Ngụy Hiến Văn Đế** (chữ Hán: 北魏獻文帝; 454–476), tên húy là **Thác Bạt Hoằng** (), là hoàng đế thứ sáu của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Năm 471, ông trở
Nước **Đại** (tiếng Trung: 代, bính âm: Dài) là một nhà nước của thị tộc Thác Bạt của người Tiên Ty tồn tại trong thời kỳ Ngũ Hồ thập lục quốc ở Trung Quốc. Quốc
**Vương Kiến** (chữ Hán: 王建, ? - ?), người huyện Quảng Ninh, quan viên nhà Bắc Ngụy. Ông hoạt động chủ yếu trong giai đoạn hậu kỳ của thời Thập Lục Quốc, đã từng kiến
Trung Sơn Hiến Vũ vương **Thác Bạt Anh** (chữ Hán: 拓跋英, ? – 9 tháng 12 năm 510), còn gọi là **Nguyên Anh** (元英), tên tự là **Hổ Nhi**, là tướng lĩnh, hoàng thân nhà
**Chiến tranh Nam Tề-Bắc Ngụy** diễn ra vào thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Nam Tề và nhà Bắc Ngụy. Từ năm 479 đến năm 500, Nam Tề cùng Bắc Ngụy
**Bắc Ngụy Tuyên Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏宣武帝; 483 – 13/1 ÂL (12/2 DL) 515), tên húy lúc sinh là **Thác Bạt Khác** (拓拔恪), sau đổi thành **Nguyên Khác** (元恪) là hoàng đế thứ tám
**Phùng Hoằng** () (?-438), tên tự **Văn Thông** (文通), gọi theo thụy hiệu là **(Bắc) Yên Chiêu Thành Đế** ((北)燕昭成帝), là hoàng đế cuối cùng của nước Bắc Yên vào thời Ngũ Hồ thập lục
**Mộ Dung Bảo** () (355–398), tên tự **Đạo Hựu** (道佑), là hoàng đế thứ nhì của nước Hậu Yên thời Thập Lục Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Sau khi Mộ Dung Thùy kiến lập
**Trận Tham Hợp Pha** () là trận đánh giữa hai nước Hậu Yên và Bắc Ngụy, diễn ra vào giai đoạn hậu kì của Ngũ Hồ Thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc. Trận
**Cuộc chính biến trong hoàng cung Bắc Ngụy** diễn ra vào năm 452, hoạn quan Tông Ái sát hại Ngụy Thế Tổ Thác Bạt Đảo và Nam An vương Thác Bạt Dư, cuối cùng bị
**Tây Hạ** (chữ Hán: 西夏, bính âm: _Xī Xià_; chữ Tây Hạ: x20px|link= hoặc x20px|link=) (1038-1227) là một triều đại do người Đảng Hạng kiến lập trong lịch sử Trung Quốc. Dân tộc chủ thể
Năm 315 **Hán Triệu** (tiếng Trung giản thể: 汉赵, phồn thể 漢趙, bính âm: Hànzhào) 304-329 là một tiểu quốc trong thời kỳ Ngũ Hồ thập lục quốc vào cuối thời kỳ nhà Tây Tấn
**Nguyên Quân** (chữ Hán: 元均, 478 – 529), hay **Thác Bạt Quân** (拓跋均), tự **Thế Bình**, là hoàng thân, quan viên nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Ông tổ 5
**Lưu Côn** (chữ Hán: 劉琨; 271-318), tên tự là **Việt Thạch** (越石) là nhà chính trị, nhà quân sự và là nhà thơ thời Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc, người Ngụy Xương, Trung
Trương Đạo Lăng, người sáng lập tông phái **Thiên sư Đạo** (chữ Hán: 天师道), còn gọi là **Ngũ Đấu Mễ Đạo** (五斗米道, nghĩa là "đạo Năm Đấu Gạo"), **Chính Nhất Đạo** (正一道), **Chính Nhất Minh
**Thẩm Khánh Chi**, tự **Hoằng Tiên**, người Vũ Khang, Ngô Hưng, là danh tướng nhà Lưu Tống thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Thiếu thời Thẩm Khánh Chi từ nhỏ đã
**Hách Liên Bột Bột** (, tiếng Hán trung đại: quảng vận: ; 381–425), tên lúc chào đời là **Lưu Bột Bột** (劉勃勃/佛佛) , gọi theo thụy hiệu là **Hạ Vũ Liệt Đế** (夏武烈帝), là hoàng
[[Kinh Phật viết bằng chữ Đảng Hạng]] **Đảng Hạng** (, ) là tộc người được đồng nhất với triều đại **Tây Hạ** thời xưa, họ cũng được gọi là **Đảng Hạng Khương** (党項羌). Người Đảng
**Vũ Văn Hộ** (, 513–572), biểu tự **Tát Bảo** (薩保), được phong tước **Tấn Quốc công** (晉國公), là một tông thân, đại thần nhiếp chính của triều đại Bắc Chu trong lịch sử Trung Quốc.
**Nhà Lưu Tống** (; 420-479) là triều đại đầu tiên trong số bốn **Nam triều** ở Trung Quốc, tiếp theo sau nó là nhà Nam Tề. ## Quốc hiệu Triều đại này do Lưu Dụ
**Diêu Hưng** () (366–416), tên tự **Tử Lược** (子略), gọi theo thụy hiệu là **(Hậu) Tần Văn Hoàn Đế** ((後)秦文桓帝), là một hoàng đế của nước Hậu Tần trong lịch sử Trung Quốc. Ông là
**Đạt Hề Cân** (, 369 – 448) hay **Hề Cân**, người quận Đại, tướng lãnh nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Đạt Hề là một trong 10 họ của bộ tộc Thác Bạt,
Dưới đây là danh sách ghi nhận về những cuộc nhường ngôi trong lịch sử Trung Quốc: ## Tự nguyện nhường ngôi ### Nhường ngôi nhưng vẫn giữ quyền nhiếp chính # Năm 299 TCN,
Nhờ sự đam mê, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm mà nhiều nông dân tại thành phố Cao Lãnh đã chuyển đổi các ruộng lúa canh tác kém hiệu quả sang trồng các cây khác