Vương Kiến (chữ Hán: 王建, ? - ?), người huyện Quảng Ninh, quan viên nhà Bắc Ngụy. Ông hoạt động chủ yếu trong giai đoạn hậu kỳ của thời Thập Lục Quốc, đã từng kiến nghị giết sạch mấy vạn tù binh Hậu Yên trong trận Tham Hợp Pha.
Thân thế
Bà cô của Kiến là Bình Văn hậu Vương thị - tức vương hậu của Đại vương Thác Bạt Úc Luật, sanh ra Đại vương Thác Bạt Thập Dực Kiền. Ông bác là Phong, được Thác Bạt Thập Dực Kiền xem là quốc cữu, rất tôn trọng. Con Phong là Chi được gả con gái của Thác Bạt Thập Dực Kiền, rất thân thiết với Kiến.
Cuộc đời và sự nghiệp
Kiến thiếu thời được gả công chúa. Năm Đăng Quốc đầu tiên (386), được làm Ngoại triều đại nhân, cùng bọn Tố Hòa Bạt 13 người thay nhau làm Điển thứ sự, tham gia bàn bạc quốc sự. Năm thứ 2 (387), Kiến làm sứ giả đến Hậu Yên, lời lẽ, thần sắc tỏ ra cứng cỏi, được Yên Thế Tổ Mộ Dung Thùy khâm phục. Trở về được làm Tả đại phu. Kiến tòng chinh các nước, tham gia phá hơn 20 bộ tộc, nhờ công được ban vài mươi nô tỳ, vài ngàn gia súc; tòng chinh Lưu Vệ Thần, sau khi thắng lợi được ban 50 hộ nô lệ thiếu niên , làm Trung bộ đại nhân., gọi vào thành chiêu dụ rằng:
:"Mộ Dung Bảo bỏ thành chạy trốn, trăm họ chúng mày vì ai mà cố thủ? Sao không biết mệnh trời mà tự tìm chết như vậy!?"
Người trong thành đáp rằng:
:"Chúng tôi nhỏ bé vô tri, nhưng lại sợ sẽ bị giết như mọi người ở Tham Hợp, chỉ muốn giữ tính mạng thêm mươi ngày một tháng mà thôi!"
Thác Bạt Khuê nghe xong thì quay lại, trừng mắt nhìn Kiến, rồi nhổ vào mặt ông.
Cuối cùng quân Bắc Ngụy cũng chiếm được thành, Vương Kiến vẫn được ban tước Bộc Dương công.
Người tộc Ô Hoàn là Khố Nộ Quan Minh nổi dậy, Kiến nhận chiếu đánh dẹp. Được thăng Thái phó, thăng làm Chân Định công, gia Tán kỵ thường thị, Ký, Thanh 2 châu thứ sử.
Không rõ sau này Vương Kiến mất khi nào, chỉ biết ông qua đời sau Thác Bạt Khuê (bị giết năm 409). Ông được bồi táng ở Kim lăng (lăng mộ của Bắc Ngụy Đạo Vũ đế Thác Bạt Khuê)
Tính cách
Sử cũ đánh giá thấp nhân cách của Vương Kiến.
Bới móc lấy tiếng
Sau khi trở thành đại thần của nhà Bắc Ngụy, Kiến tố giác những việc phạm pháp cha con anh trai mình là Vương Hồi, khiến cha con Hồi bị xử tử, được khen là "cẩn thận, ngay thẳng". Bắc sử bình luận: Vương Kiến ngôi vị đã cao, (mà còn) bới móc lấy tiếng ngay thẳng...
Tham mà vô mưu
Ngụy vương Thác Bạt Khuê từ Tín Đô quay lại đánh Trung Sơn, đến Cự Lộc, đánh bại Yên Liệt Tông Mộ Dung Bảo ở Bách Tứ ổ, rồi vây Trung Sơn. Yên Liệt Tông bỏ thành chạy đi Hòa Long, thành không có chủ, trăm họ hoang mang, cửa đông không đóng. Thác Bạt Khuê muốn vào thành trong đêm, chiếm giữ cửa ấy. Kiến "tham mà vô mưu", có ý muốn chiếm đoạt tài vật, lại sợ sĩ tốt cướp bóc buông thả, trộm cắp bừa bãi các kho lẫm, nên đề nghị đợi trời sáng, Khuê bèn thôi. Ngay trong đêm này, người trong thành lập Mộ Dung Lân làm đế, đóng cửa cố thủ. Thác Bạt Khuê dốc quân tấn công, mấy ngày liền không hạ được.
Bình luận
Trận Tham Hợp Pha lấy đi một nửa binh lực Hậu Yên, khiến cho quốc lực không thể phục hồi; sau cái chết của Yên Thế Tổ Mộ Dung Thùy, Hậu Yên nhanh chóng suy vong về tay Bắc Ngụy. Đề xuất của Vương Kiến là tàn ác, nhưng phù hợp với bối cảnh lịch sử, và dễ dàng nhận được sự đồng thuận của chư tướng Bắc Ngụy cũng như Ngụy vương Thác Bạt Khuê.
Bắc sử bình luận: chiến dịch Tham Hợp, không phải tội của ông ta ư!
Ngụy thư bình luận: chiến dịch Tham Hợp, uy phạt quá đáng, che được tội của Vương Kiến ư!
Có thể thấy, các sử gia phong kiến đã đổ triệt trách nhiệm cho Vương Kiến.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Vương Kiến** (chữ Hán: 王建, ? - ?), người huyện Quảng Ninh, quan viên nhà Bắc Ngụy. Ông hoạt động chủ yếu trong giai đoạn hậu kỳ của thời Thập Lục Quốc, đã từng kiến
**Hầu Mạc Trần Kiến** (chữ Hán: 侯莫陈建, ? – 485), quen gọi là **Trần Kiến**, người bộ lạc Hầu Mạc Trần, dân tộc Tiên Ti, có hộ tịch ở quận Đại (nay thuộc Sơn Tây),
**Vương Túc** (chữ Hán: 王肃, 464 - 501), tên tự là **Cung Ý**, người Lâm Nghi, Lang Tà , đại thần, tướng lĩnh, ngoại thích nhà Bắc Ngụy. ## Thân thế Vương Túc là hậu
**Bắc Ngụy Đạo Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏道武帝; 371–409), tên húy là **Thác Bạt Khuê** (拓拔珪), tên lúc sinh là **Thác Bạt Thiệp Khuê** (拓拔渉珪), là hoàng đế khai quốc của triều đại Bắc Ngụy
**Bắc Ngụy Thái Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏太武帝; 408 – 11 tháng 3, 452), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông thường được nhìn nhận
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
**Nhà Bắc Ngụy** (tiếng Trung: 北魏朝, bính âm: běi wèi cháo, 386–535), còn gọi là **Thác Bạt Ngụy** (拓拔魏), **Hậu Ngụy** (後魏) hay **Nguyên Ngụy** (元魏), là một triều đại thời Nam Bắc triều trong
**Chiến tranh Nam Tề-Bắc Ngụy** diễn ra vào thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Nam Tề và nhà Bắc Ngụy. Từ năm 479 đến năm 500, Nam Tề cùng Bắc Ngụy
**Chiến tranh Lương-Ngụy, 528-529** là cuộc chiến tranh giữa hai nước Lương và Bắc Ngụy thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Cuộc chiến này là một phần của chiến tranh Lương-Bắc Ngụy, một
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
**Bắc Ngụy Hiếu Minh Đế** (chữ Hán: 北魏孝明帝; 510 – 31/3/528) tên húy là **Nguyên Hủ** (), là hoàng đế thứ chín của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Do ông chỉ
**Bắc Ngụy Tuyên Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏宣武帝; 483 – 13/1 ÂL (12/2 DL) 515), tên húy lúc sinh là **Thác Bạt Khác** (拓拔恪), sau đổi thành **Nguyên Khác** (元恪) là hoàng đế thứ tám
**Bắc Ngụy Hiến Văn Đế** (chữ Hán: 北魏獻文帝; 454–476), tên húy là **Thác Bạt Hoằng** (), là hoàng đế thứ sáu của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Năm 471, ông trở
**Bắc Ngụy Hiếu Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏孝武帝; 510 – 3 tháng 2, 535), tên húy là **Nguyên Tu** (元脩 hay 元修), tên tự **Hiếu Tắc** (孝則), vào một số thời điểm được gọi là
**Bắc Ngụy Minh Nguyên Đế** (chữ Hán: 北魏明元帝; 392–423), tên húy là **Thác Bạt Tự** (拓拔嗣), là hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con trai
**Tân Hùng** (chữ Hán: 辛雄, 485 – 534), tự Thế Tân, người Địch Đạo, Lũng Tây , quan viên cuối đời Bắc Ngụy. ## Khởi nghiệp Cha là Tân Sướng, tự Ấu Đạt, được làm
Quảng Lăng Huệ vương **Nguyên Vũ** (chữ Hán: 元羽, 470 – 19/06/501 ), tự Thúc Phiên, hoàng tử nhà Bắc Ngụy. ## Khởi nghiệp Vũ là con trai thứ tư của Bắc Ngụy Hiến Văn
**Hiếu Văn U Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文幽皇后; 469 - 499), cũng gọi **Cao Tổ U hậu** (高祖幽后), là Hoàng hậu thứ hai của Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế Nguyên Hoành của triều Bắc Ngụy
**Bắc Ngụy Hiếu Trang Đế** (chữ Hán: 北魏孝莊帝; 507–531), tên húy là **Nguyên Tử Du** (), là hoàng đế thứ 11 triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông được tướng Nhĩ Chu
**Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế** (chữ Hán: 北魏孝文帝; 13 tháng 10 năm 467 – 26 tháng 4 năm 499), tên húy lúc sinh là **Thác Bạt Hoành** (拓拔宏), sau đổi thành **Nguyên Hoành** (元宏), là
**Hồ thái hậu** (chữ Hán: 胡太后, ? - 17 tháng 5, năm 528), còn thường gọi là **Linh thái hậu** (靈太后), một phi tần của Bắc Ngụy Tuyên Vũ Đế, và Hoàng thái hậu nhiếp
**An Đồng** (chữ Hán: 安同, ? – 429), sinh quán Liêu Đông, là quan viên, khai quốc công thần nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. ## Xuất thân Tổ tiên của Đồng tên
**Sơn Vĩ** (chữ Hán: 山伟, ? – ?), tự Trọng Tài, người dân tộc Tiên Ti, tịch quán ở Lạc Dương, Hà Nam, nguyên quán ở quận Đại (nay thuộc Sơn Tây), quan viên cuối
**Cao hoàng hậu** (chữ Hán: 高皇后, không rõ tên thật) là Hoàng hậu của Bắc Ngụy Hiếu Vũ Đế Nguyên Tu trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Phụ thân của Cao Hoàng hậu
**Lý quý nhân** (chữ Hán: 李贵人; ? - 456), là phi tần của Bắc Ngụy Văn Thành Đế, hoàng đế Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Bà là sinh mẫu của Bắc Ngụy Hiến
**Bùi Tuyên** (chữ Hán: 裴宣, 454 – 511), tự Thúc Lệnh, người huyện Văn Hỷ, quận Hà Đông , là quan viên nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. ## Thiếu thời Cha là
**Bùi Tuấn** (chữ Hán: 裴骏, ? – 468), tên tự là **Thần Câu**, tên lúc nhỏ là Bì, người huyện Văn Hỷ, quận Hà Đông , là quan viên nhà Bắc Ngụy trong lịch sử
**Dương Quân** (chữ Hán: 杨钧, ? - 524), người Hoa Âm, Hoằng Nông , quan viên nhà Bắc Ngụy. ## Thân thế Quân là thành viên của sĩ tộc họ Dương ở quận Hoằng Nông.
**Vương Kiệt** (chữ Hán: 王杰, 515 – 579), tên gốc là **Vương Văn Đạt**, không rõ tên tự, người huyện Trực Thành, quận Kim Thành , tướng lãnh nhà Tây Ngụy, nhà Bắc Chu cuối
**Bắc Tề Văn Tuyên Đế** (北齊文宣帝) (526–559), tên húy là **Cao Dương** (高洋), tên tự **Tử Tiến** (子進), miếu hiệu là Hiển Tổ, là vị hoàng đế khai quốc của triều đại Bắc Tề trong
**Thư Cừ Mục Kiền** () (? 447), hoặc **Thư Cừ Mậu Kiền** (沮渠茂虔), là một người cai trị của nước Bắc Lương vào thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc. Hầu
**Bắc sử** (北史) là một quyển sách trong Nhị thập tứ sử do Lý Đại Sư viết về giai đoạn lịch sử từ năm 386 tới 618. Sau khi Lý Đại Sư mất, Lý Diên
**Đông Ngụy Hiếu Tĩnh Đế** (東魏孝靜帝) (524–552), tên húy là **Nguyên Thiện Kiến** (元善見), là hoàng đế duy nhất của triều đại Đông Ngụy, một nhà nước kế thừa triều đại Bắc Ngụy trong lịch
**Đông Ngụy** (tiếng Trung: 東魏) là triều đại xuất hiện sau khi có sự tan rã của Nhà nước Bắc Ngụy và cai trị vùng lãnh thổ Bắc Trung Quốc từ năm 534 tới năm
**Tây Ngụy Văn Đế** (西魏文帝) (507–551), tên húy là **Nguyên Bảo Cự** (元寶炬), là một hoàng đế của triều đại Tây Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Năm 534, Nguyên Bảo Cự, khi đó là
**Dương Khoan** (, ? – 561), tự Cảnh Nhân hay Mông Nhân , người Hoa Âm, Hoằng Nông, quan viên nhà Bắc Ngụy, nhà Tây Ngụy và nhà Bắc Chu. Ông sinh gặp thời loạn,
**Tây Ngụy** (tiếng Trung:西魏) là triều đại xuất hiện sau khi có sự tan rã của nhà Bắc Ngụy và cai trị vùng lãnh thổ miền Bắc Trung Quốc từ năm 535 tới năm 557.
Trần Lưu Hoàn vương **Thác Bạt Kiền** (chữ Hán: 拓跋虔, ? - 396), tướng lĩnh, hoàng thân, khai quốc công thần nhà Bắc Ngụy. ## Cuộc đời Ông nội là Thác Bạt Thập Dực Kiền,
nhỏ|Cổng Vĩnh lăng Vương Kiến tại Thành Đô nhỏ|Lăng mộ Vương Kiến **Vương Kiến** (, 847 – 11 tháng 7 năm 918), tên tự **Quang Đồ** (光圖), gọi theo thụy hiệu là **(Tiền) Thục Cao
**Cuộc chính biến trong hoàng cung Bắc Ngụy** diễn ra vào năm 409, Thanh Hà vương Thác Bạt Thiệu giết chết phụ thân là Ngụy Thái Tổ Thác Bạt Khuê để tiếm ngôi nhưng cuối
**Tề Kính vương** (chữ Hán: 齊敬王, trị vì: 264 TCN – 221 TCN), tên thật là **Điền Kiến** (田建), là vị vua thứ tám và là vua cuối cùng nước Điền Tề - chư hầu
**Cuộc chính biến trong hoàng cung Bắc Ngụy** diễn ra vào năm 452, hoạn quan Tông Ái sát hại Ngụy Thế Tổ Thác Bạt Đảo và Nam An vương Thác Bạt Dư, cuối cùng bị
**Cao hoàng hậu** (chữ Hán: 高皇后) là hoàng hậu của Đông Ngụy Hiếu Tĩnh Đế Nguyên Thiện Kiến, hoàng đế duy nhất của triều đại Đông Ngụy, một nhà nước kế thừa triều đại Bắc
**Cuộc chính biến diễn ra trong hoàng cung nhà Bắc Ngụy năm 465** sau khi Ngụy Cao Tông Thác Bạt Tuấn qua đời, vua kế vị Thác Bạt Hoằng còn nhỏ tuổi, Xa kị đại
**Nam Bắc triều** (, 420-589) là một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ năm 420 khi Lưu Dụ soán Đông Tấn mà lập nên Lưu Tống, kéo dài đến năm 589
**Lịch đại Đế Vương miếu** (chữ Hán phồn thể: 厯代帝王廟; chữ Hán giản thể: 历代帝王庙, bính âm Hán ngữ: _Lìdài Dì Wáng miào_), còn gọi là **Miếu Lịch đại Đế Vương Trung Quốc** hay **Đế
**Nhĩ Chu Vinh** (, 493 -530), tên tự là **Thiên Bảo** (天寶), người Bắc Tú Dung, là tướng lĩnh, quyền thần nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Ông là
**Vũ Văn Thái** () (507 – 556), biệt danh là **Hắc Thát** (黑獺), tước hiệu là **An Định Văn công** (安定文公) sau được nhà Bắc Chu truy tôn là miếu hiệu Thái Tổ (太祖), thụy
phải|nhỏ|Năm 560
**Bắc Chu** (tiếng Trung: 北周) là một triều đại tiếp theo nhà Tây Ngụy thời Nam Bắc triều, có chủ quyền đối với miền Bắc Trung Quốc từ năm 557 tới năm
**Thảm sát Hà Âm** là một sự kiện chính trị triều Bắc Ngụy diễn ra trong năm 528. Đại tướng Nhĩ Chu Vinh sau khi tiến binh vào kinh giết hại Hồ Thái hậu đã