✨Bắc Ngụy Văn Thành Đế

Bắc Ngụy Văn Thành Đế

Bắc Ngụy Văn Thành Đế (chữ Hán: 北魏文成帝; 440–465), tên húy là Thác Bạt Tuấn (), là hoàng đế thứ năm của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông đăng cơ sau khi hoạn quan Tông Ái (宗愛) ám sát tổ phụ Thái Vũ Đế và thúc phụ Thác Bạt Dư, ông đã cho phép người dân Bắc Ngụy nghỉ ngơi sau khi họ phải trải qua thời gian áp dụng chính sách bành trướng của tổ phụ, ông cũng tiến hành cải cách luật pháp theo hướng khoan dung hơn.

Bối cảnh

Thác Bạt Tuấn sinh năm 440, khi đó cha của ông Thác Bạt Hoảng đang là Thái tử dưới thời phụ hoàng Thái Vũ Đế. Mẹ ông là Uất Cửu Lư tiêu phòng, bà là em gái của tướng Uất Cửu Lư Bì (郁久閭毗), một thành viên của hoàng tộc Nhu Nhiên song đã đầu hàng Bắc Ngụy. Khi còn nhỏ, ông được tổ phụ Thái Vũ Đế rất yêu mến, và thường đi cùng với Thái Vũ Đế thậm chí cả trong các chiến dịch quân sự. Mặc dù không có tước hiệu chính thức nào, Thác Bạt Tuấn được biết đến như là đích hoàng tôn (嫡皇孫). Cha của ông Thác Bạt Hoảng mất vào năm 451 do lâm bệnh vì sợ hãi trước lời vu cáo của hoạn quan Tông Ái. Khoảng tết năm 452, Thái Vũ Đế lập ông là Cao Dương vương, nhưng sau đó đã xem xét lại và tin rằng một tước hiệu hoàng gia không thích hợp với người cháu đích tôn, và do đó đã hủy bỏ tước hiệu, thể hiện một cách mạnh mẽ rằng Thái Vũ Đế định để Thác Bạt Tuấn làm người kế vị mình.

Tuy nhiên, Tông Ái lo sợ rằng Thái Vũ Đế sẽ trừng phạt ông ta vì tội vu cáo Thái tử nên đã ra tay ám sát Thái Vũ Đế vào mùa xuân năm 452, sau đó bỏ qua Thác Bạt Tuấn và lập một em trai của Thác Bạt Hoảng là Nam An Vương Thác Bạt Dư lên ngôi hoàng đế. Tông Ái kiểm soát toàn bộ các vấn đề quan trọng của đất nước. Thác Bạt Dư không chịu được sự kiêu ngạo của Tông và đã cố rằng tách Tông ra khỏi quyền lực vào mùa thu năm 452, tuy nhiên, Tông đã lại ám sát Thác Bạt Dư. Tuy nhiên, các quan Độc Cô Ni (獨孤尼), Nguyên Hạ, Bạt Bạt Khát Hầu (拔拔渴侯), và Bộ Lục Cô Li (步六孤麗) sau đó đã lật đổ và giết chết Tông Ái, họ lập Thác Bạt Tuấn làm hoàng đế ở tuổi 12, tức Văn Thành Đế.

Thời kỳ đầu trị vì

Ngay sau khi Văn Thành Đế lên ngôi, các triều thần cấp cao đã bắt đầu các cuộc đấu tranh chống đối lẫn nhau, và trong nhiều năm nhiều quan đã bị sát hại. Họ bao gồm các quan cấp cao nắm quyền từ thời Thái Vũ Đế cũng như những người đã đóng góp nhiều trong việc đưa Văn Thành Đế lên ngôi: Thác Bạt Thọ Lạc (拓拔壽樂); Bạt Bạt Khát Hầu, Thổ Hề Bật (吐奚弼), Trương Lê (張黎), Thác Bạt Chu Nữu (拓拔周忸), Độc Cô Hồn Nguyên Bảo (獨孤渾元寶), Thác Bạt Sùng (拓拔崇) thúc tổ của Văn Thành Đế, và con trai ông là Thác Bạt Li (拓拔麗), Uất Cửu Lư Nhược Văn (郁久閭若文), Thác Bạt Nhân (拓拔仁), Thác Bạt Bạt (拓拔拔).

Nguyên Hạ và Bộ Lục Cô Ni có vẻ như là những người chiến thắng trong các cuộc đấu tranh này, họ không những không phải chịu những điều tồi tệ trong cuộc đấu tranh nội bộ, mà còn trở nên kỳ được tôn kính trong thời gian trị vì cuối của Văn Thành Đế. Cả hai người và Độc Cô Ni đều được phong vương. Không rõ bản thân Văn Thành Đế có tự mình tham gia vào các cuộc đấu tranh này hay không, song các chiếu chỉ được ban ra có ghi tên ông. Uất Trì Quyến (尉遲眷), là một tướng đã được phong thưởng dưới thời Thái Vũ Đế, nay cũng trở nên mạnh mẽ.

Một đặc trưng khác của Văn Thành Đế là ông thường đi kinh lý các châu trên khắp đế quốc của mình.

Mùa đông năm 452, mẹ của Văn Thành Đế là Uất Cửu Lư tiêu phòng qua đời, ông truy tôn cha và mẹ là hoàng đế và hoàng hậu.

Khoảng tết năm 453, Văn Thành Đế, một Phật tử, đã chính thức kết thúc những luật cấm chống lại Phật giáo mà Thái Vũ Đế đã lập ra vào năm 445 (là điều đầu tiên trong họa Tam Vũ), và đích thân ông đã thực hiện việc cạo đầu cho năm sư tăng. Tuy nhiên, theo truyền thống do Thái Vũ Đế đã lập ra, ông cũng công khai nhận một bùa hộ mệnh Đạo giáo vào mùa xuân năm 454.

Vào mùa xuân năm 453, Văn Thành Đế phong cho nhũ mẫu của mình là thái hậu, và đối đãi với các huynh đệ của bà như thể các thúc bác ruột của mình.

Mùa thu năm 454, chính thê của Văn Thành Đế là Lý Trường Lạc đã hạ sinh một hoàng tử, được đặt tên là Thác Bạt Hoằng. Lý phu nhân là trưởng nữ của Lý gia phủ thượng thư, là người do mẫu thân Văn Thành Đế lựa chọn năm đó cho ông. Năm 456, ông lập một thê thiếp khác, Phùng Thục Nghi làm hoàng hậu và lập Thác Bạt Hoằng làm thái tử và sau đó, theo đúng truyền thống của Bắc Ngụy, ông đã ra lệnh cho Lý phu nhân phải tự vẫn.

Mùa đông năm 458, Văn Thành Đế mở một chiến dịch lớn tấn công Nhu Nhiên, song đã tính đến việc từ bỏ khi quân của ông gặp phải một cơn bão tuyết. Tuy nhiên, do nghe lời thúc giục của Uất Trì Quyến (lập luận rằng rút quân sẽ thể hiện sự yếu đuối trước quân Nhu Nhiên), Văn Thành Đế vẫn tiếp tục chiến dịch. Mặc dù không thể giáng cho Xử khả hãn Uất Cửu Lư Thổ Hạ Chân của Nhu Nhiên một thất bại lớn, song đã có một số thành viên các bộ lạc Nhu Nhiên đầu hàng. Trong khi đó, lúc ông vắng mặt, các tướng Phong Sắc Văn (封敕文) và Bì Báo Tử (皮豹子) của Bắc Ngụy đã giao chiến với quân Lưu Tống gần Tế Thủy (濟水, nay là một phần dòng chảy của Hoàng Hà), kết quả là bất phân thắng bại.

Thời kỳ trị vì cuối

Vào mùa hè năm 460, nhũ mẫu của Văn Thành Đế qua đời.

Cũng trong mùa hè năm 460, theo lời cố vấn của Định Dương hầu Tào An (曹安), Văn Thành Đế mở một cuộc tấn công lớn nhằm vào vương quốc Thổ Dục Hồn của Mộ Dung Thập Dần (慕容拾寅), Mộ Dung Thập Dần đã khiến Bắc Ngụy nổi giận khi chấp thuận sự bổ nhiệm của cả Bắc Ngụy và Lưu Tống và do ông ta đã phô trương sự giàu có của mình. Các tướng chỉ huy là Thác Bạt Tân Thành (拓拔新成, em trai Văn Thành Đế) và Nam quận công Lý Huệ (李惠). Tuy nhiên, mặc dù quân Bắc Ngụy đã bắt được một số lượng lớn gia súc, song Mộ Dung Thập Dần đã nhận được cảnh báo từ trước và đã chạy kịp vào vùng núi, quân Bắc Ngụy cũng bị mắc bệnh.

Năm 464, khi đang kinh lý các vùng khác nhau của đất nước, Văn Thành Đế đã đích thân tham dự một buổi lễ cúng tế thượng đế của bộ lạc Cao Xa, và người dân Cao Xa đã rất hài lòng.

Vào mùa hè năm 465, Văn Thành Đế qua đời và Thái tử Thác Bạt Hoằng lên kế vị (tức Hiến Văn Đế). Tuy nhiên, quyền lực đã nhanh chóng rơi vào tay viên quan Ất Phất Hồn (乙弗渾), người này đã cố gắng độc chiếm quyền lực song đã bị các quan khác giết chết, trong số đó có Bộ Lục Cô Li, song đến năm 465, Bộ Lục Cô lại bị Phùng Thái hậu (vợ của Văn Thành Đế) phục kích.

Thông tin cá nhân

Cha: Thái tử Thác Bạt Hoảng Mẹ: Uất Cửu Lư tiêu phòng, được truy tôn Hoàng hậu Hậu phi: Văn Thành Văn Minh hoàng hậu Phùng thị, cháu nội Phùng Hoằng Quý nhân Lý thị, sau truy tôn Văn Thành Nguyên hoàng hậu. Phu nhân Lý thị Phu nhân Tào thị Phu nhân Thư Cừ thị Phu nhân Ất thị Phu nhân Duyệt thị Phu nhân Huyền thị Hậu duệ: Hiến Văn Đế Thác Bạt Hoằng, Lý quý nhân sinh An Lạc Lệ vương Thác Bạt Trường Lạc (拓跋長樂), Lý phu nhân sinh Quảng Xuyên Trang vương Thác Bạt Lược (拓跋略), Tào phu nhân sinh Tề quận Thuận vương Thác Bạt Giản (拓跋簡), Thư Cừ phu nhân sinh Hà Gian Hiếu vương Thác Bạt Nhược (拓跋若), Ất phu nhân sinh An Phong Khuông vương Thác Bạt Mãnh (拓跋猛), Duyệt phu nhân sinh **Hàn Ai vương Thác Bạt An Bình (拓跋安平), Huyền phu nhân sinh

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
**Bắc Ngụy Văn Thành Đế** (chữ Hán: 北魏文成帝; 440–465), tên húy là **Thác Bạt Tuấn** (), là hoàng đế thứ năm của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông đăng cơ sau
**Lý quý nhân** (chữ Hán: 李贵人; ? - 456), là phi tần của Bắc Ngụy Văn Thành Đế, hoàng đế Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Bà là sinh mẫu của Bắc Ngụy Hiến
**Bắc Ngụy Thái Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏太武帝; 408 – 11 tháng 3, 452), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông thường được nhìn nhận
**Bắc Ngụy Đạo Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏道武帝; 371–409), tên húy là **Thác Bạt Khuê** (拓拔珪), tên lúc sinh là **Thác Bạt Thiệp Khuê** (拓拔渉珪), là hoàng đế khai quốc của triều đại Bắc Ngụy
**Bắc Ngụy Tuyên Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏宣武帝; 483 – 13/1 ÂL (12/2 DL) 515), tên húy lúc sinh là **Thác Bạt Khác** (拓拔恪), sau đổi thành **Nguyên Khác** (元恪) là hoàng đế thứ tám
**Bắc Ngụy Minh Nguyên Đế** (chữ Hán: 北魏明元帝; 392–423), tên húy là **Thác Bạt Tự** (拓拔嗣), là hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con trai
**Bắc Ngụy Hiếu Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏孝武帝; 510 – 3 tháng 2, 535), tên húy là **Nguyên Tu** (元脩 hay 元修), tên tự **Hiếu Tắc** (孝則), vào một số thời điểm được gọi là
**Bắc Ngụy Hiếu Trang Đế** (chữ Hán: 北魏孝莊帝; 507–531), tên húy là **Nguyên Tử Du** (), là hoàng đế thứ 11 triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông được tướng Nhĩ Chu
**Bắc Ngụy Hiếu Minh Đế** (chữ Hán: 北魏孝明帝; 510 – 31/3/528) tên húy là **Nguyên Hủ** (), là hoàng đế thứ chín của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Do ông chỉ
**Bắc Ngụy Tiết Mẫn Đế** () (498 – 21/6/532), cũng gọi là **Tiền Phế Đế** (前廢帝), hay còn được gọi với tước hiệu trước khi lên ngôi là **Quảng Lăng vương** (廣陵王), tên húy là
**Cao hoàng hậu** (chữ Hán: 高皇后, không rõ tên thật) là Hoàng hậu của Bắc Ngụy Hiếu Vũ Đế Nguyên Tu trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Phụ thân của Cao Hoàng hậu
**Lý Mậu** (chữ Hán: 李茂, 432 – 502), tên tự là **Trọng Tông**, người huyện Địch Đạo, quận Lũng Tây , quan viên nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc.
**Chiêu Ai hoàng hậu** (chữ Hán: 昭哀皇后, ? - 420), họ Diêu (姚氏), là công chúa Hậu Tần và là phi tần của Bắc Ngụy Minh Nguyên Đế của nhà Bắc Ngụy trong lịch sử
**Minh Nguyên Mật hoàng hậu** (chữ Hán: 明元密皇后; ? - 420), còn gọi là **Đỗ phu nhân** (杜夫人) hoặc **Mật quý tần** (密贵嫔), là người huyện Nghiệp Nhân, Ngụy quận, là phi tần của Bắc
**Văn Thành Đế** (chữ Hán: 文成帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ. ## Danh sách *Bắc Yên Văn Thành Đế *Bắc Ngụy Văn Thành Đế
**Bắc Tề Văn Tuyên Đế** (北齊文宣帝) (526–559), tên húy là **Cao Dương** (高洋), tên tự **Tử Tiến** (子進), miếu hiệu là Hiển Tổ, là vị hoàng đế khai quốc của triều đại Bắc Tề trong
**Bắc Tề Vũ Thành Đế** (北齊武成帝) (537–569), tên húy là **Cao Đam**/**Cao Trạm** (高湛), biệt danh **Bộ Lạc Kê** (步落稽), là hoàng đế thứ tư của triều đại Bắc Tề trong lịch sử Trung Quốc.
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
**Nhà Bắc Ngụy** (tiếng Trung: 北魏朝, bính âm: běi wèi cháo, 386–535), còn gọi là **Thác Bạt Ngụy** (拓拔魏), **Hậu Ngụy** (後魏) hay **Nguyên Ngụy** (元魏), là một triều đại thời Nam Bắc triều trong
**Chiến tranh Nam Tề-Bắc Ngụy** diễn ra vào thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Nam Tề và nhà Bắc Ngụy. Từ năm 479 đến năm 500, Nam Tề cùng Bắc Ngụy
**Đông Ngụy Hiếu Tĩnh Đế** (東魏孝靜帝) (524–552), tên húy là **Nguyên Thiện Kiến** (元善見), là hoàng đế duy nhất của triều đại Đông Ngụy, một nhà nước kế thừa triều đại Bắc Ngụy trong lịch
**Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế** (chữ Hán: 北魏孝文帝; 13 tháng 10 năm 467 – 26 tháng 4 năm 499), tên húy lúc sinh là **Thác Bạt Hoành** (拓拔宏), sau đổi thành **Nguyên Hoành** (元宏), là
**Bắc Ngụy Hiến Văn Đế** (chữ Hán: 北魏獻文帝; 454–476), tên húy là **Thác Bạt Hoằng** (), là hoàng đế thứ sáu của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Năm 471, ông trở
**Hồ thái hậu** (chữ Hán: 胡太后, ? - 17 tháng 5, năm 528), còn thường gọi là **Linh thái hậu** (靈太后), một phi tần của Bắc Ngụy Tuyên Vũ Đế, và Hoàng thái hậu nhiếp
**Chiến tranh Lương-Ngụy, 528-529** là cuộc chiến tranh giữa hai nước Lương và Bắc Ngụy thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Cuộc chiến này là một phần của chiến tranh Lương-Bắc Ngụy, một
**Vương Túc** (chữ Hán: 王肃, 464 - 501), tên tự là **Cung Ý**, người Lâm Nghi, Lang Tà , đại thần, tướng lĩnh, ngoại thích nhà Bắc Ngụy. ## Thân thế Vương Túc là hậu
Quảng Lăng Huệ vương **Nguyên Vũ** (chữ Hán: 元羽, 470 – 19/06/501 ), tự Thúc Phiên, hoàng tử nhà Bắc Ngụy. ## Khởi nghiệp Vũ là con trai thứ tư của Bắc Ngụy Hiến Văn
**Phí Mục** (chữ Hán: 費穆, 477 – 529), tự Lãng Hưng, người quận Đại , tướng lãnh cuối đời nhà Bắc Ngụy. Ông có công tham gia trấn áp các lực lượng nổi dậy cuối
**Hầu Mạc Trần Kiến** (chữ Hán: 侯莫陈建, ? – 485), quen gọi là **Trần Kiến**, người bộ lạc Hầu Mạc Trần, dân tộc Tiên Ti, có hộ tịch ở quận Đại (nay thuộc Sơn Tây),
**Vương Kiến** (chữ Hán: 王建, ? - ?), người huyện Quảng Ninh, quan viên nhà Bắc Ngụy. Ông hoạt động chủ yếu trong giai đoạn hậu kỳ của thời Thập Lục Quốc, đã từng kiến
**Tân Hùng** (chữ Hán: 辛雄, 485 – 534), tự Thế Tân, người Địch Đạo, Lũng Tây , quan viên cuối đời Bắc Ngụy. ## Khởi nghiệp Cha là Tân Sướng, tự Ấu Đạt, được làm
**Bùi Tuyên** (chữ Hán: 裴宣, 454 – 511), tự Thúc Lệnh, người huyện Văn Hỷ, quận Hà Đông , là quan viên nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. ## Thiếu thời Cha là
**Bùi Tuấn** (chữ Hán: 裴骏, ? – 468), tên tự là **Thần Câu**, tên lúc nhỏ là Bì, người huyện Văn Hỷ, quận Hà Đông , là quan viên nhà Bắc Ngụy trong lịch sử
**Cao hoàng hậu** (chữ Hán: 高皇后) là hoàng hậu của Đông Ngụy Hiếu Tĩnh Đế Nguyên Thiện Kiến, hoàng đế duy nhất của triều đại Đông Ngụy, một nhà nước kế thừa triều đại Bắc
**Lý Tuấn** (chữ Hán: 李峻, ? – ?), tự Trân Chi, người huyện Mông, quận (quốc) Lương , ngoại thích, quan viên nhà Bắc Ngụy. ## Cuộc đời Cha là Lý Phương Thúc, vốn là
**Nam Bắc triều** (, 420-589) là một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ năm 420 khi Lưu Dụ soán Đông Tấn mà lập nên Lưu Tống, kéo dài đến năm 589
**Tây Ngụy Văn Đế** (西魏文帝) (507–551), tên húy là **Nguyên Bảo Cự** (元寶炬), là một hoàng đế của triều đại Tây Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Năm 534, Nguyên Bảo Cự, khi đó là
**Hiếu Văn U Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文幽皇后; 469 - 499), cũng gọi **Cao Tổ U hậu** (高祖幽后), là Hoàng hậu thứ hai của Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế Nguyên Hoành của triều Bắc Ngụy
**Nguyên Lãng** () (513–532), tên tự **Trọng Triết** (仲哲), thường được biết đến với tước hiệu trước khi lên ngôi là **An Định vương** (安定王), vào một số thời điểm được gọi là **Hậu Phế
**Nguyên hoàng hậu** (chữ Hán: 元皇后) là hoàng hậu của Bắc Tề Hiếu Chiêu Đế Cao Diễn trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Nguyên hoàng hậu thuộc dòng dõi hoàng tộc Bắc Ngụy.
**Sơn Vĩ** (chữ Hán: 山伟, ? – ?), tự Trọng Tài, người dân tộc Tiên Ti, tịch quán ở Lạc Dương, Hà Nam, nguyên quán ở quận Đại (nay thuộc Sơn Tây), quan viên cuối
**Hiếu Văn Phế Hoàng hậu Phùng thị** (chữ Hán: 孝文廢皇后馮氏) là nguyên phối Hoàng hậu của Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế Nguyên Hoành của triều Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử
**Dương Quân** (chữ Hán: 杨钧, ? - 524), người Hoa Âm, Hoằng Nông , quan viên nhà Bắc Ngụy. ## Thân thế Quân là thành viên của sĩ tộc họ Dương ở quận Hoằng Nông.
**Uất Cửu Lư hoàng hậu** (chữ Hán: 郁久閭皇后, 525–540), thụy hiệu **Điệu hoàng hậu** (悼皇后) là hoàng hậu thứ hai của Tây Ngụy Văn Đế trong lịch sử Trung Quốc. ## Hoàng hậu Phụ thân
**Lưu Huy** (chữ Hán: 刘晖, ? – 523), tự **Trọng Xương**, là phò mã nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con kế tự của Tề quận công
**Văn Mục Đế** (chữ Hán: 文穆帝) là thụy hiệu của một số người được hậu duệ làm hoàng đế truy tôn. ## Danh sách *Bắc Ngụy Văn Mục Đế (có thụy hiệu khác là Bành
**Vũ Văn Thái** () (507 – 556), biệt danh là **Hắc Thát** (黑獺), tước hiệu là **An Định Văn công** (安定文公) sau được nhà Bắc Chu truy tôn là miếu hiệu Thái Tổ (太祖), thụy
**Nhĩ Chu Vinh** (, 493 -530), tên tự là **Thiên Bảo** (天寶), người Bắc Tú Dung, là tướng lĩnh, quyền thần nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Ông là
**Nguyên Hạ** (407-479) là tướng nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. ## Thời trẻ Nguyên Hạ vốn có tên là **Thốc Phát Phá Khương**, tên Tiên Ti là **Hạ Đầu Bạt** hay **Giá