✨Đông Ngụy Hiếu Tĩnh Đế

Đông Ngụy Hiếu Tĩnh Đế

Đông Ngụy Hiếu Tĩnh Đế (東魏孝靜帝) (524–552), tên húy là Nguyên Thiện Kiến (元善見), là hoàng đế duy nhất của triều đại Đông Ngụy, một nhà nước kế thừa triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc.

Năm 524, tướng Cao Hoan của Bắc Ngụy đã đưa Hiếu Tĩnh Đế lên ngôi sau khi Hiếu Vũ Đế chạy trốn khỏi Lạc Dương và tái lập triều đình tại Trường An. Cao Hoan dời đô từ Lạc Dương đến Nghiệp Thành, do đó phân chia Bắc Ngụy làm hai nửa, và nhà nước của Hiếu Tĩnh Đế được gọi là Đông Ngụy. Mặc dù Cao Hoan đối xử tôn kính với Hiếu Tĩnh Đế, song ông ta vẫn nắm trong tay quyền lực thực tế. Các con trai Cao Hoan, những người kế thừa sự nghiệp của ông ta là Cao Trừng và Cao Dương. Năm 550, Cao Dương buộc Hiếu Tĩnh Đế phải nhường ngôi cho mình, chấm dứt triều Bắc Ngụy và lập nên Bắc Tề. Khoảng tết năm 552, Nguyên Thiện Kiến bị Bắc Tề Văn Tuyên Đế ra lệnh hạ độc giết chết.

Bối cảnh

Nguyên Thiện Kiến sinh năm 524. Cha Nguyên Thiện Kiến là Thanh Hà vương Nguyên Đản (元亶), Đản là con trai và thừa kế tước Thanh Hà vương của Nguyên Dịch (元懌), và Dịch là con trai của Hiếu Văn Đế. Mẹ của ông, Hồ vương phi, là một cháu gái của Hồ Chân (胡真), Hồ Chân là thúc bá của Hồ Thái hậu (mẹ của Hiếu Minh Đế). Nguyên Thiện Kiến là con trai cả của Nguyên Đản và cũng là người kế tự.

Năm 534, Hiếu Vũ Đế (một anh họ của Nguyên Đản) đã tìm cách chống lại quyền kiểm soát của tướng Cao Hoan, ông ta liên minh với các tướng Vũ Văn Thắng và Hạ Bạt Thắng. Khi Cao Hoan biết chuyện và hành quân về Lạc Dương, Hiếu Vũ Đế đã chạy trốn đến lãnh địa của Vũ Văn Thái. Nguyên Đãn ban đầu chạy trốn cùng với Hiếu Vũ Đế, song ngay sau đó đã đổi ý và quay trở lại Lạc Dương. Sau khi Cao Hoan tiến vào Lạc Dương, ông ta cho Nguyên Đản tạm thời đảm đương quyền lực của hoàng đế trên danh nghĩa, Nguyên Đản trở nên ngạo mạn và tự xem mình là hoàng đế kế tiếp. Cao Hoan trong thực tế cũng đang tìm một hoàng đế mới để thay thế Hiếu Vũ Đế, song ông ta cảm thấy rằng Nguyên Đản không phải là người thích hợp, và do đó đã chọn Nguyên Thiện Kiến làm hoàng đế (tức Hiếu Tĩnh Đế). (Nguyên Đản bối rối và sợ hãi nên đã quyết định chạy trốn về phía nam, có lẽ là đến Lương, song Cao Hoan đã lúc bắt và đưa Nguyên Đản về Lạc Dương.) Điều này đã chính thức phân chia Bắc Ngụy thành Đông Ngụy (với Hiếu Tĩnh Đế) và Tây Ngụy (với Hiếu Vũ Đế).

Khi Cao Hoan còn sống

Cao Hoan cho rằng Lạc Dương quá sát biên giới với Tây Ngụy và Lương nên đã dời đô đến Nghiệp Thành, một trọng thành vững chắc nằm dưới sự kiểm soát của ông ta. Cho rằng việc Hiếu Vũ Đế chạy trốn là một sự bôi nhọ đối với mình, Cao Hoan đã công khai thể hiện sẽ tôn kính hết mức với Hiếu Tĩnh Đế trong phần đời còn lại. Các thuộc hạ của Cao Hoan cũng không dám làm trái lời Cao đã tuyên bố, mặc dù vậy, quyền lực trên thực tế vẫn nằm trong tay Cao Hoan cùng những người được ông ta bổ nhiệm. Cao Hoan cũng nhiều lần tiến hành chinh phục Tây Ngụy để thống nhất Bắc Ngụy, song đều bị Vũ Văn Thái hoặc các tướng khác của Tây Ngụy đẩy lui. Cao Hoan phần lớn ở đại bản doanh của ông ta tại Tấn Dương (晉陽, nay thuộc Thái Nguyên, Sơn Tây), song thường xuyên đến thăm Nghiệp Thành. Năm 536, Cao Hoan lập con trai là Cao Trừng phụ trách triều đình Đông Ngụy. Cũng trong năm đó, Nguyên Đản qua đời, và theo một số sử gia thì Cao Hoan là thủ phạm.

Khi Hiếu Tĩnh Đế lớn hơn, ông được mô tả là một chàng trai tuấn tú và khỏe mạnh, có thể nhảy qua hàng rào trong khi giữ một con sư tử đá. Ông cũng được mô tả là có tài cưỡi ngựa, bắn cung và văn chương. Người dân so sánh ông với Hiếu Văn Đế, một tổ tiên có tiếng tăm của ông.

Năm 539, Hiếu Tĩnh Đế lấy con gái thứ hai của Cao Hoan làm hoàng hậu.

Năm 544, Cao Trừng vì muốn có một quan thần tin cẩn theo dõi Hiếu Tĩnh Đế nên đã lập thuộc hạ là Thôi Quý Thư (崔季舒) làm tổng giám cho Hiếu Tĩnh Đế. Tuy nhiên, Hiếu Tĩnh Đế đã có một mối quan hệ mật thiết với Thôi Quý Thư, Thôi thường xuyên sửa đổi các đệ trình của Cao Hoan lên Hiếu Tĩnh Đế và các chiếu chỉ mà Hiếu Tĩnh Đế ban cho Cao Hoan và Cao Trừng, nhằm cải thiện văn phong và nội dung. Hiếu Tĩnh Đế thường xuyên đưa ra nhận định, "Thôi là nhũ mẫu của trẫm."

Năm 545, theo yêu cầu của Cao Hoan, Hiểu Tĩnh Đế lấy một em họ của khả hãn Thổ Dục Hồn, Mộ Dung Khoa Lã (慕容夸呂) làm thiếp nhằm tăng cường mối quan hệ với Thổ Dục Hồn.

Năm 547, Cao Hoan mất, Cao Trừng nắm giữ toàn bộ quyền lực triều đình.

Cao Trừng nhiếp chính

Trong bối cảnh Cao Hoan chết, một tướng không tôn trọng Cao Trừng là Hầu Cảnh ban đầu đã dâng 13 châu mà ông ta kiểm soát (khu vực giữa Hoài Hà và Hoàng Hà) cho Tây Ngụy rồi sau đó lại dâng cho Lương. Tuy nhiên, tướng Mộ Dung Thiệu Tông đã đánh bại cả Tiêu Uyên Minh (cháu trai của Lương Vũ Đế, là người được Lương Vũ Đế cử đến để tăng viện cho Hầu Cảnh) và Hầu Cảnh, bắt giữ Tiêu Uyên Minh và buộc Hầu Cảnh phải chạy trốn đến Lương. Năm 548, hầu hết các châu này đã trở về dưới tầm kiểm soát của Bắc Ngụy (bốn châu bị Tây Ngụy chiếm), và đến năm 549, Đông Ngụy đã tái chiếm bốn châu còn lại sau khi Cao Trừng chiếm được Trường Xã (長社, nay thuộc Hứa Xương, Hà Nam).

Trong khi đó, trong chiến dịch chống lại Hầu Cảnh, đã bùng nổ xung đột giữa Cao Trừng và Hiếu Tĩnh Đế. Cao Trừng không tôn kính Hiếu Tĩnh Đế như cha của ông ta, và Cao Trừng lệnh cho Thôi Quý Thư phải tăng cường giám sát Hiếu Tĩnh Đế. Có một lần, khi Cao Trừng tham sự một yến tiệc, ông đã rót rượu vào chén trước Hiếu Tĩnh Đế khi nâng cốc, một cử chỉ rất thiếu tôn trọng. Hiếu Tĩnh Đế trở nên tức giận và trách mắng Hầu Cảnh, Hầu đã ra lệnh cho Thôi đấm Hiếu Tĩnh Đế ba lần, và sau đó đột ngột bỏ đi. Sau đó, Hiếu Tĩnh Đế lập mưu cùng với các giảng sư của ông là Tuân Tế (荀濟), Nguyên Cẩn (元瑾), Lưu Tư Dật (劉思逸), Hoa Sơn vương Nguyên Đại Khí (元大器), Hoài Nam vương Nguyên Tuyên Hồng (元宣洪), và Tế Bắc vương Nguyên Huy (元徽) nhằm lật đổ Cao Trừng. Họ đã đào một đường hầm từ bên trong hoàng cung ra ngoài thành, có ý định tạo ra một lối đi bí mật để các cận binh hoàng cung di chuyển, song đường hầm đã bị phát hiện, và Cao Trừng đã đưa quân vào hoàng cung, quản thúc Hiếu Tĩnh Đế, và hành quyết những người khác tham gia âm mưu này.

Vào mùa xuân năm 549, Hiếu Tĩnh Đế bị buộc phải phong cho Cao Trừng tước hiệu "Tề vương", và chức ''tướng quốc". Tuy nhiên, Cao Trừng lại chính thức từ chối các danh hiệu này, và sau đó lại thỉnh cầu chính thức với Hiếu Tĩnh Đế về việc lập một hoàng tử làm thái tử. Cuối cùng, đến mùa thu năm 549, Hiếu Tĩnh Đế đã lập Nguyên Trường Nhân (元長仁) làm thái tử. (Không rõ Cao Hoàng hậu có phải là mẫu thân của thái tử hay không.)

Cũng vào mùa thu năm 549, Cao Trừng gặp Trần Nguyên Khang (陳元康), Dương Âm (楊愔), và Thôi Quý Thư để bí mật thảo luận về khung thời gian cho việc đoạt ngôi. Tuy nhiên, nhân cơ hội này, một thuộc hạ của Cao Trừng là Lan Kinh (蘭京) đã ám sát Cao Trừng và Trần Nguyên Khang (Lan Kinh một con trai của tướng Lương Lan Khâm (蘭欽) bị Cao Trừng bắt được trong trận chiến, và nhiều lần bị Cao Trừng dọa giết). Em trai của Cao Trừng là Thái Nguyên công Cao Dương khi đó cũng ở Nghiệp Thành, ông ta đã giết chết Lan Kinh và thuộc hạ của người này, và tuyên bố rằng Cao Trừng đã bị thương. Tuy nhiên, Hiếu Tĩnh Đế tin rằng Cao Trừng đã chết nên đã bí mật bình phẩm, "Đại tướng quân (tức Cao Trừng) chết là ý trời. Quyền lực nên được trao lại cho hoàng tộc."

Cao Dương nhiếp chính

Tuy nhiên, Cao Dương ngay sau đó đã củng cố quyền lực. Ông ta đã nhanh chóng thể hiện sức mạnh bằng cách cùng với 8.000 quân tiến vào hoàng cung, và nói với Hiếu Tĩnh Đế rằng ông ta sẽ đến Tấn Dương, tức đại bản doanh của quân đội. Hiếu Tĩnh Đế nhận thấy ý định muốn nắm giữ quyền lực của Cao Dương, tái người đi và nói, "Người này không có bất kỳ dung thứ nào với ta. Ta không biết khi nào ta sẽ chết." Cao Dương lập đại bản doanh tại Tấn Dương, có ý định kiểm soát quân sự, và đến mùa xuân năm 550, Cao Dương đã buộc Hiếu Tĩnh Đế lập mình làm Tề quận vương, một tước hiệu thấp hơn chút ít so với tước hiệu mà anh trai ông đã từ chối trước khi chết. Chỉ hai tháng sau đó, tước hiệu của Cao Dương được đổi thành Tề vương.

Trong khi đó, một thuộc hạ là Cao Đức Chính (高德政) đã cố gắng thuyết phục Cao Dương đoạt ngôi. Đến mùa hè năm 550, Cao Dương đã chấp thuận, và ông ta bắt đầu tiến đến Nghiệp Thành. Hiếu Tĩnh Đế ban cửu tích cho Cao Dương, bước áp chót trước khi thoái vị. Sau khi Cao Dương đến Nghiệp Thành, ông ta đã cử các quan Phan Lạc (潘樂), Trương Lượng (張亮), và Triệu Ngạn Thâm (趙彥深) đến yêu cầu Hiếu Tĩnh Đế thoái vị, Hiếu Tĩnh Đế đã làm theo, nhường ngôi cho Cao Dương. Cao Dương trở thành Văn Tuyên Đế và lập ra triều đại Bắc Tề.

Sau khi thoái vị

Văn Tuyên Đế lập cựu hoàng làm Trung Sơn vương, và ban cho ông một đối đãi đặc biệt đó là không phải tuyên bố mình là một thần dân của hoàng đế mới. Văn Tuyên Đế lập em gái mình, tức cựu hoàng hậu, làm Thái Nguyên công chúa. Cựu hoàng đế được sống với công chúa, công chúa lo rằng anh trai bà có thể làm hại phu quân nên luôn theo sát ông, thường nếm thức ăn của ông để đảm bảo rằng không có thuốc độc.

Tuy nhiên, Văn Tuyên Đế vẫn lo sợ cựu hoàng đế. Khoảng tết năm 552, Văn Tuyên Đế mời Thái Nguyên công chúa đến một yến tiệc trong hoàng cung. Ngay sau khi bà dời khỏi tư gia, Tuyên Vũ Đế đã cử sát thủ đến buộc cựu hoàng đế phải uống rượu độc, và cũng sát hại luôn ba người con trai của ông. Tuyên Vũ Đế truy thụy cho cựu hoàng đế là "Hiếu Tĩnh", và cũng chôn cất ông với vinh dự hoàng đế. Tuy nhiên, sau một thời gian, không rõ vì lý do gì, Tuyên Văn Đế đã cho mở lăng mộ và ném áo quan của Hiếu Tĩnh Đế xuống Chương Thủy (漳水).

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Đông Ngụy Hiếu Tĩnh Đế** (東魏孝靜帝) (524–552), tên húy là **Nguyên Thiện Kiến** (元善見), là hoàng đế duy nhất của triều đại Đông Ngụy, một nhà nước kế thừa triều đại Bắc Ngụy trong lịch
**Cao hoàng hậu** (chữ Hán: 高皇后) là hoàng hậu của Đông Ngụy Hiếu Tĩnh Đế Nguyên Thiện Kiến, hoàng đế duy nhất của triều đại Đông Ngụy, một nhà nước kế thừa triều đại Bắc
**Cao hoàng hậu** (chữ Hán: 高皇后, không rõ tên thật) là Hoàng hậu của Bắc Ngụy Hiếu Vũ Đế Nguyên Tu trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Phụ thân của Cao Hoàng hậu
**Hiếu Tĩnh Đế** (_chữ Hán_ 孝靖帝 hay 孝靜帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ. ## Danh sách Hiếu Tĩnh Đế (孝靖帝) * Nam triều Tây Lương Hiếu Tĩnh Đế (thường được gọi
**Đông Ngụy** (tiếng Trung: 東魏) là triều đại xuất hiện sau khi có sự tan rã của Nhà nước Bắc Ngụy và cai trị vùng lãnh thổ Bắc Trung Quốc từ năm 534 tới năm
**Bắc Ngụy Hiếu Minh Đế** (chữ Hán: 北魏孝明帝; 510 – 31/3/528) tên húy là **Nguyên Hủ** (), là hoàng đế thứ chín của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Do ông chỉ
**Bắc Ngụy Hiếu Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏孝武帝; 510 – 3 tháng 2, 535), tên húy là **Nguyên Tu** (元脩 hay 元修), tên tự **Hiếu Tắc** (孝則), vào một số thời điểm được gọi là
**Bắc Ngụy Hiếu Trang Đế** (chữ Hán: 北魏孝莊帝; 507–531), tên húy là **Nguyên Tử Du** (), là hoàng đế thứ 11 triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông được tướng Nhĩ Chu
**Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế** (chữ Hán: 北魏孝文帝; 13 tháng 10 năm 467 – 26 tháng 4 năm 499), tên húy lúc sinh là **Thác Bạt Hoành** (拓拔宏), sau đổi thành **Nguyên Hoành** (元宏), là
**Hiếu Văn U Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文幽皇后; 469 - 499), cũng gọi **Cao Tổ U hậu** (高祖幽后), là Hoàng hậu thứ hai của Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế Nguyên Hoành của triều Bắc Ngụy
**Hiếu Tĩnh Vương** (_chữ Hán_:孝靖王 hoặc 孝静王) trong Tiếng Việt là thụy hiệu của một số vị phiên vương, quận vương hoặc thân vương trong lịch sử các vương triều phong kiến Trung Quốc. ##
**Bắc Tề Văn Tuyên Đế** (北齊文宣帝) (526–559), tên húy là **Cao Dương** (高洋), tên tự **Tử Tiến** (子進), miếu hiệu là Hiển Tổ, là vị hoàng đế khai quốc của triều đại Bắc Tề trong
**Bắc Tề Hiếu Chiêu Đế** (chữ Hán: 北齊孝昭帝; 535–561), tên húy là **Cao Diễn** (高演), tên tự là **Diên An** (延安), là hoàng đế thứ ba của triều Bắc Tề trong lịch sử Trung Quốc.
**Nhà Bắc Ngụy** (tiếng Trung: 北魏朝, bính âm: běi wèi cháo, 386–535), còn gọi là **Thác Bạt Ngụy** (拓拔魏), **Hậu Ngụy** (後魏) hay **Nguyên Ngụy** (元魏), là một triều đại thời Nam Bắc triều trong
**Tây Ngụy Văn Đế** (西魏文帝) (507–551), tên húy là **Nguyên Bảo Cự** (元寶炬), là một hoàng đế của triều đại Tây Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Năm 534, Nguyên Bảo Cự, khi đó là
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
**Bắc Ngụy Tuyên Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏宣武帝; 483 – 13/1 ÂL (12/2 DL) 515), tên húy lúc sinh là **Thác Bạt Khác** (拓拔恪), sau đổi thành **Nguyên Khác** (元恪) là hoàng đế thứ tám
**Lý Mậu** (chữ Hán: 李茂, 432 – 502), tên tự là **Trọng Tông**, người huyện Địch Đạo, quận Lũng Tây , quan viên nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc.
**Phí Mục** (chữ Hán: 費穆, 477 – 529), tự Lãng Hưng, người quận Đại , tướng lãnh cuối đời nhà Bắc Ngụy. Ông có công tham gia trấn áp các lực lượng nổi dậy cuối
**Sơn Vĩ** (chữ Hán: 山伟, ? – ?), tự Trọng Tài, người dân tộc Tiên Ti, tịch quán ở Lạc Dương, Hà Nam, nguyên quán ở quận Đại (nay thuộc Sơn Tây), quan viên cuối
**Ngụy thư** (chữ Hán giản thể: 魏书; phồn thể: 魏書) là một sách lịch sử theo thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ sử_) do Ngụy Thâu, người Bắc
**Bắc Ngụy Đạo Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏道武帝; 371–409), tên húy là **Thác Bạt Khuê** (拓拔珪), tên lúc sinh là **Thác Bạt Thiệp Khuê** (拓拔渉珪), là hoàng đế khai quốc của triều đại Bắc Ngụy
**Bắc Ngụy Thái Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏太武帝; 408 – 11 tháng 3, 452), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông thường được nhìn nhận
**Nguyên Trọng Hoa** (chữ Hán: 元仲华; ? - ?) là một Hoàng hậu của Bắc Tề, nguyên là Công chúa Đông Ngụy, em gái Đông Ngụy Hiếu Tĩnh Đế Nguyên Thiện Kiến. Sau trở thành
**Bắc Ngụy Tiết Mẫn Đế** () (498 – 21/6/532), cũng gọi là **Tiền Phế Đế** (前廢帝), hay còn được gọi với tước hiệu trước khi lên ngôi là **Quảng Lăng vương** (廣陵王), tên húy là
**Tư Mã Tử Như** (chữ Hán: 司馬子如, ? - ?), tên tự là **Tuân Nghiệp**, người huyện Ôn, quận Hà Nội , là quan viên nhà Bắc Ngụy, Đông Ngụy, Bắc Tề cuối đời Nam
**Bắc Ngụy Hiến Văn Đế** (chữ Hán: 北魏獻文帝; 454–476), tên húy là **Thác Bạt Hoằng** (), là hoàng đế thứ sáu của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Năm 471, ông trở
**(Lưu) Tống Hiếu Vũ Đế** (chữ Hán: 劉宋孝武帝; 19 tháng 9 năm 430 – 12 tháng 7 năm 464), tên húy là **Lưu Tuấn** (), tên tự là **Hưu Long** (休龍), tiểu tự **Đạo Dân**
**Tiêu Uyên Minh** (, ?-556), tên tự **Tĩnh Thông** (靖通) còn gọi là **Lương Mẫn Đế** (梁閔帝), là một hoàng đế có thời gian trị vì ngắn ngủi của triều đại Lương trong lịch sử
**Bắc Tề Phế Đế** (chữ Hán: 北齊廢帝; 545–561), tên húy là **Cao Ân** (高殷), tên tự **Chính Đạo** (正道), là một hoàng đế có thời gian trị vì ngắn ngủi của triều đại Bắc Tề
**Bắc Ngụy Văn Thành Đế** (chữ Hán: 北魏文成帝; 440–465), tên húy là **Thác Bạt Tuấn** (), là hoàng đế thứ năm của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông đăng cơ sau
Bành Thành Cảnh Tư vương **Cao Du** (chữ Hán: 高浟, 533 – 564), tên tự là **Tử Thâm**, hoàng thân, quan viên nhà Bắc Tề cuối thời Nam bắc triều trong lịch sử Trung Quốc.
**Trương Lượng** (chữ Hán: 张亮, ? – ?) tự **Bá Đức**, người Thấp Thành, Tây Hà , tướng lãnh nhà Đông Ngụy, nhà Bắc Tề cuối đời Nam bắc triều trong lịch sử Trung Quốc.
**Tiết Cô Duyên** (chữ Hán: 薛孤延), người thị tộc Tiết Cô, dân tộc Thổ Dục Hồn Tiên Ti, sinh quán là quận Đại , là mãnh tướng các nhà Bắc Ngụy, Đông Ngụy, Bắc Tề
**Triều đại trong lịch sử Trung Quốc**, hay **triều đại Trung Quốc**, ý chỉ các chế độ quân chủ thế tập cai trị Trung Quốc trong phần lớn chiều dài lịch sử nước này. Kể
Con [[Họ Muỗm|châu chấu đang ngụy trang]] Một con thằn lằn đang lẫn vào đất **Cách thức phòng vệ của động vật** hay việc **thích ứng chống động vật ăn thịt** (_Anti-predator adaptation_) là thuật
**Vũ Văn Thái** () (507 – 556), biệt danh là **Hắc Thát** (黑獺), tước hiệu là **An Định Văn công** (安定文公) sau được nhà Bắc Chu truy tôn là miếu hiệu Thái Tổ (太祖), thụy
**Tống Hiếu Tông** (chữ Hán: 宋孝宗, 27 tháng 11 năm 1127 – 28 tháng 6 năm 1194), tên thật là **Triệu Bá Tông** (趙伯琮), **Triệu Viện** (趙瑗), **Triệu Vĩ** (趙瑋) hay **Triệu Thận** (趙昚), tên
**Nhĩ Chu Vinh** (, 493 -530), tên tự là **Thiên Bảo** (天寶), người Bắc Tú Dung, là tướng lĩnh, quyền thần nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Ông là
**Cao Trừng** (, 521–549), tên tự **Tử Huệ** (子惠), hiệu **Bột Hải Văn Tương vương** (勃海文襄王), sau này được triều Bắc Tề truy thụy hiệu **Văn Tương hoàng đế** (文襄皇帝) cùng miếu hiệu **Thế Tông**
**Hà Nam** (), là một tỉnh ở miền trung của Trung Quốc. Tên gọi tắt là _Dự_ (豫), đặt tên theo Dự châu, một châu thời Hán. Tên gọi Hà Nam có nghĩa là _phía
**Chiến tranh Nam Tề-Bắc Ngụy** diễn ra vào thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Nam Tề và nhà Bắc Ngụy. Từ năm 479 đến năm 500, Nam Tề cùng Bắc Ngụy
**Hồ thái hậu** (chữ Hán: 胡太后, ? - 17 tháng 5, năm 528), còn thường gọi là **Linh thái hậu** (靈太后), một phi tần của Bắc Ngụy Tuyên Vũ Đế, và Hoàng thái hậu nhiếp
**Bắc sử** (北史) là một quyển sách trong Nhị thập tứ sử do Lý Đại Sư viết về giai đoạn lịch sử từ năm 386 tới 618. Sau khi Lý Đại Sư mất, Lý Diên
**Lý Cảo** (; 351 – 417), tên tự **Huyền Thịnh** (玄盛), biệt danh là **Trường Sinh** (長生), là vị vua khai quốc của nước Tây Lương trong lịch sử Trung Quốc. Trong thời gian cai
**Sự lừa dối ở động vật** (_Deception_) là sự phơi bày, phô diễn những thông tin sai lệch của một con vật sang loài khác (có thể là cùng loài hoặc các loài khác nhau)
**Tân Hùng** (chữ Hán: 辛雄, 485 – 534), tự Thế Tân, người Địch Đạo, Lũng Tây , quan viên cuối đời Bắc Ngụy. ## Khởi nghiệp Cha là Tân Sướng, tự Ấu Đạt, được làm
**Tây Ngụy Phế Đế** (西魏廢帝) (525-554), tên húy là **Nguyên Khâm** (元欽), là một hoàng đế của triều đại Tây Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông thậm chí còn có ít quyền lực thực
nhỏ|phải|[[Hổ, động vật được biết đến là đã tấn công người rùng rợn trong lịch sử]] **Động vật tấn công** hay đôi khi còn được gọi là **thú dữ tấn công** chỉ về các vụ
**Nguyên Quân** (chữ Hán: 元均, 478 – 529), hay **Thác Bạt Quân** (拓跋均), tự **Thế Bình**, là hoàng thân, quan viên nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Ông tổ 5