✨Cách thức phòng vệ của động vật

Cách thức phòng vệ của động vật

Con [[Họ Muỗm|châu chấu đang ngụy trang]] Một con thằn lằn đang lẫn vào đất Cách thức phòng vệ của động vật hay việc thích ứng chống động vật ăn thịt (Anti-predator adaptation) là thuật ngữ sinh thái học đề cập đến cơ chế phòng vệ của động vật được hình thành, phát triển và hoàn thiện theo thời gian thông qua quá trình tiến hóa giúp những loài động vật bị coi là con mồi hoặc kẻ yếu thế trong cuộc đấu tranh sinh tồn không ngừng nghỉ chống lại kẻ thù là những kẻ săn mồi hoặc những động vật gây hại đến bản thân hoặc giống loài của chúng. Trong thế giới động vật, sự thích nghi tiến hóa cho mọi giai đoạn của cuộc đấu tranh này để tối đa hóa sự sống con mồi và cuối cùng là dẫn đến sự cân bằng sinh thái theo phương trình con mồi và kẻ săn mồi và đây cũng chính là một trong những điều kỳ diệu của quá trình tiến hóa và sự sống. Sự tương tác giữa động vật ăn thịt hay động vật săn mồi và con mồi có ảnh hưởng đến quá trình tiến hóa của chính con mồi, nhất là những sinh vật nằm ở đáy của chuỗi thức ăn. Phương thức tự vệ của động vật có thể được chia thành hai loại phòng vệ chính yếu là tự bảo vệ bằng hình thái cơ thể và hành vi (tập tính) tự phòng vệ.

Bảo vệ hình thái cơ thể liên quan đến sự thích nghi cấu trúc cơ thể như sự phát triển của sừng, gai, nọc, móng vuốt, răng, nanh và độc tố. Một số hình thái phòng thủ sử dụng các khía cạnh của sự xuất hiện của con mồi để tránh bị phát hiện. Những chiến lược này bao gồm ngụy trang và bắt chước. Những tập tính tự vệ liên quan đến hành vi thích ứng chống lại sự săn mồi được các con mồi thực hiện để tránh bị ăn thịt như một bản năng tự bảo toàn. Có hai chiến lược chủ đạo là chiến lược phòng vệ một cách chủ động (phủ đầu) và cách phòng vệ thụ động, trong đó chiến lược phủ đầu là sự phòng ngự tầm xa của con mồi trước kẻ thù của chúng, còn cách phòng vệ thụ động phát xuất từ những tình huống hiểm nghèo. Từ chiến lược phủ đầu đến phòng vệ thụ động, từ cách dùng vũ khí hóa học đến khoanh vùng lãnh thổ cho đến các cách thức và hình thức khác thì các sinh vật đều chứng tỏ sự lão luyện trong việc luồn tránh sự săn đuổi của kẻ thù, nhất là các sinh vật biển. Cả hai loại phòng thủ đã tiến hóa qua chọn lọc tự nhiên vì chúng làm tăng thể lực, sức sinh tồn và sự lanh lợi của con mồi dẫn đến sự thành công sinh sản tốt hơn của các cá thể sở hữu những đặc điểm có lợi, được đào luyện, trui rèn trong tự nhiên và do đó, dẫn đến sự tồn tại của các đặc tính trong quần thể theo thời gian.

Tổng quan

nhỏ|Một con [[Sâu bướm|sâu đo đang ngụy trang thành nhánh của quả roi hoa trắng Syzygium samarangense]] Trong tự nhiên, mỗi lợi thế đều làm tăng cơ hội sinh tồn của động vật, cũng như cơ hội sinh sản, phát triển bầy đàn. Thực tế đơn giản này cũng là nguyên nhân khiến động vật phát triển một số điểm thích nghi đặc biệt có thể giúp chúng tìm mồi và không phải biến thành con mồi của loài thú khác. Một trong những sự thích nghi đó chính là khả năng ngụy trang, khả năng giấu mình của động vật tránh xa thú dữ và hiểm nguy rình rập, các động vật bị săn đuổi nhờ đó trốn tránh kẻ săn mồi và động vật săn mồi thì có thể tấn công mà không bị phát hiện.

Những phòng thủ bao gồm các hoạt động như tín hiệu theo đuổi răn đe, và hợp quần hay chiến thuật đám đông, chiến thuật canh gác, đánh động, bản năng bám theo mẹ như hình với bóng của con non, bản năng đứng im, giữ im lặng. Các loài thú ăn cỏ như thú móng guốc luôn hiền lành, chăm chú ăn uống thì số phận của chúng là dễ trở thành mồi ngon cho các loài ăn thịt bất cứ lúc nào, vì thế, chúng có mắt ở hai bên sẽ tạo ra tầm nhìn rộng rãi (có con có tầm nhìn tới 360 độ), giúp chúng nhanh chóng phát hiện ra kẻ địch và chạy trốn. Vượn và khỉ tuy không hung dữ như các loài thú ăn thịt, nhưng cũng có mắt mọc ở chính trước mặt vì cấu trúc này có lợi cho chúng trong việc xác định khoảng cách giữa các cành cây, từ đó chúng có thể nhanh chóng tẩu thoát kịp thời trước kẻ thù. nhỏ|trái|Một con bướm [[Satyrinae có cánh hình mắt lớn]] Nhiều loại động vật sở hữu những dấu chấm phòng vệ để tránh bị ăn thịt, bao gồm có các mẫu hoa văn, họa tiết nhằm giảm bớt nguy cơ bị phát hiện, để cảnh báo rằng con vật này có chứa độc tố hay không thể ăn thịt được, hay để bắt chước giả làm con vật khác hay vật thể khác ("bắt chước" và "giả dạng"). Bên cạnh đó, nhiều loài như bướm, ngài và cá đều có hơn hai cặp dấu chấm tròn, thường được gọi là "những đốm mắt", nhiều đốm mắt rất hữu hiệu khi hăm dọa được hay làm cho động vật ăn thịt giật mình và có thể giúp chặn đứng được một cuộc tập kích bất thình lình Những dấu chấm tròn ở các loài vật như ở bướm chống lại các loài động vật ăn thịt hiệu quả vì chúng là những nét riêng nổi bật, chứ không phải chúng bắt trước hình thù con mắt của chính kẻ thù của động vật ăn thịt.

Ở một số loại con mồi khi phát hiện ra kẻ thù thì có tập tính lẩn trốn, bỏ chạy hoặc tự vệ. Trong đa số trường hợp con mồi bị truy đuổi quá gần thì lập tức nó chuyển từ trạng thái trốn chạy sang tư thế tấn công, khi gặp kẻ thù thường biểu hiện tư thế dọa nạt, thú ăn thịt thì nhe nanh, dương vuốt, thú móng guốc thì dậm chân, thở phì phì. Một số loài thì xù lông, sửng cồ lên và dựng đứng người. Các loài khỉ thường có tập tính rung lắc cành cây, bẻ cành ném xuống thậm chí phóng uế vào mặt kẻ thù. Đôi khi là những phản ứng bất động như phản ứng tự vệ của con bọ que hoặc hành vi giả chết chờ kẻ thù bỏ đi. Một số sử dụng màu sắc để đe dọa (cảnh báo màu sắc). Những con thông minh hơn thì thè lưỡi và nằm bất động để giả chết.

Các phản ứng tập tính đều mang tính cách thích nghi, thích ứng nghĩa là làm cho cơ thể sinh vật tiếp tục tồn tại, các phản ứng này giúp con vật tránh xa các mối nguy hiểm hoặc giảm thiểu tối đa những sự đe dọa trước mắt nhờ sử dụng một loạt các phản ứng điều hòa. Chẳng hạn như thỏ bỏ chạy khi bị chó tấn công, nhím xù lông để tự vệ trước kẻ thù (phản ứng chiến hay chạy), hay có những loài chọn những cách tự vệ kì dị, như giả chết, cuộn tròn thân mình hay biến mình thành vũ khí khó nuốt. Để sinh tồn được trong thế giới tự nhiên đầy hiểm họa rình rập, một số động vật đã tự phát triển cơ chế phòng vệ quái dị như thằn lằn bắn máu từ mắt, ếch lông tự bẻ gãy xương sườn để biến thành gai hay kiến tự biến mình thành bom cảm tử để thổi bay kẻ thù, động vật còn có nhiều cách thức tự vệ khác như xù gai để de dọa kẻ thù như chuột gai, hoặc tiết ra chất keo dính chặt kẻ thù như loài ếch, hoặc một số loài sên tiết ra dịch nhầy làm đông cứng những cặp hàm của bầy kiến khi bị bâu lại tấn công.

Chiến thuật

Ngụy trang

Một con sâu bướm đang ngụy trang thành một nhành cây Bọ muỗm (bọ lá Katydid) đang ngụy trang Ngụy trang tự nhiên là một trong những biện pháp phòng vệ của con mồi chống lại những kẻ săn mồi, đây là một trong những chiến lược phổ biến, những cách thức cụ thể gồm sử dụng màu sắc, hoa văn hay hòa trộn, mô phỏng. Trong tự nhiên, rất nhiều loài động vật sử dụng màu sắc cơ thể để ngụy trang tránh động vật săn mồi. Ở sinh vật còn có trường hợp thay đổi ngoại hình để nó trở nên lẫn vào môi trường xung quanh gọi là ngụy trang, trá hình. Đây là hành vi (tập tính) của sinh vật nhằm trốn tránh khỏi khả năng quan sát của đối tượng khác. Tập tính này có thể giúp sinh vật trốn tránh kẻ thù, ngụy trang cho phép một con vật trở nên bí ẩn (Crypsis). Luôn có sự tiến hóa liên tục trong khả năng phát hiện sự trá hình và tương tự năng lực ẩn trốn cũng biến đổi luôn luôn. Ở mỗi cặp động vật săn đuổi-trốn tránh, cấp độ tiến hóa trá hình và phát hiện khác nhau.

Có một số cách để làm điều này, một là động vật hòa mình vào môi trường xung quanh, cách khác là động vật biến hình thành thứ gì khác hấp dẫn hoặc có vẻ ngoài nguy hiểm. Một số động vật ẩn trốn làm giả chuyển động trong tự nhiên, ví dụ chiếc lá trong gió, điều này gọi là hành vi ẩn mình theo môi trường. Các động vật khác gắn liền hoặc lấy những vật liệu trong tự nhiên đắp lên thân mình để ẩn náu. Ngụy trang có thể là động vật hòa mình vào môi trường xung quanh thông qua sự biến đổi màu sắc động động. Sự thay đổi nhanh chóng của màu da, bộ lông là một trong những điều kỳ lạ có thể thấy ở vương quốc động vật, nhiều loài động vật tự biến đổi màu sắc và hình dạng của mình trông giống y như một chiếc lá, một khúc cây hay một khối rong biển để ngụy trang và trốn tránh kẻ thù. Ngụy trang không chỉ là sự thay đổi màu sắc tạm thời của những con vật khi muốn lẩn trốn hiểm nguy mà chính là sự biến đổi lâu dài về hệ gen của chúng trong quá trình đấu tranh sinh tồn để sao cho phù hợp với môi trường sống xung quanh.

Sự thay đổi nhanh chóng của màu da là đặc biệt nổi bật nhất của tắc kè hoa, tắc kè hoa hoàn toàn có thể pha trộn với môi trường xung quanh bằng cách ngụy trang màu sắc của chúng. Việc thay đổi màu da của tắc kè hoa lại gây ra bởi sự thay đổi tâm trạng, nhiệt độ và cường độ của ánh sáng xung quanh. Một số loài tắc kè hoa có thể biến thành bất kỳ màu sắc nào. Nó là kết quả trong việc thay đổi màu sắc của da. Sự thay đổi này sẽ xảy ra chỉ trong vòng 16-20 giây. Nó cũng cho phép chúng hoàn toàn hòa nhập với môi trường xung quanh. Loài thằn lằn quỷ gai cũng có khả năng biến đổi màu sắc trên cơ thể. Trong thời tiết ấm áp, những con thằn lằn thường có màu vàng nhạt và đỏ, nhưng nó có thể nhanh chóng thay đổi màu sắc tối hơn trong thời tiết lạnh hoặc khi gặp kẻ thù. Chúng trải qua sự thay đổi màu sắc này hàng ngày.

Loài cóc sống trong các khu rừng nhiệt đới ở Panama có hình dạng giống như những chiếc lá khô đã ngả màu vàng. Vì sống trong các khu rừng nhiệt đới, nơi dễ bị tấn công và trở thành con mồi của những loài động vật to lớn khác, nên đặc điểm này giúp chúng ẩn mình vào những đám lá và tránh được sự tìm kiếm của kẻ thù. Loài côn trùng lá ở Malaysia có vẻ bề ngoài rất giống một loài thực vật, với phần thân có màu sắc và hình dáng của một chiếc lá. Nhờ vào lợi thế này, chúng có thể đánh lừa thị giác của những kẻ săn mồi một cách dễ dàng. Để tránh sự tấn công của chim, thằn lằn hoặc những loài động vật săn mồi khác, sâu bọ nhảy có thể khiến kẻ thù giật mình bằng cách xoay người, làm lộ hai đốm đỏ, gây nhầm lẫn với đôi mắt của các loài động vật lớn hơn. Khi quay người vào trong, đôi cánh của con bọ sẽ có màu trùng với màu sắc của vỏ cây. Một con ếch đang ngụy trang Cách ngụy trang của một loài côn trùng thuộc họ muỗm được gọi là katydid, sống ở rừng nhiệt đới của Panama, là bám vào những cây địa y có màu sắc tương tự như màu da của chúng. Vào ban ngày, loài côn trùng này nằm im bất động trên các thân cây. Chúng thường đi kiếm ăn vào ban đêm. Một loài côn trùng tận dụng màu sắc bắt mắt và dễ bị lẫn với các bông hoa lạc tiên để ẩn mình khi gặp nguy hiểm. Khả năng ngụy trang giúp chúng đánh lạc hướng kẻ thù khá hiệu quả. Một loài muỗm khác có bộ chân buông dài giống như những nhánh cây con. Để lẩn trốn, loài này thường bám vào các thân cây mảnh có nhiều nhánh cây nhỏ. Tuy nhiên, cách ngụy trang này đôi khi vẫn bị một số loài động vật như khỉ, chim, thằn lằn, ếch, rắn, phát hiện.

Bướm đêm ngụy trang thành hình lá màu cam để lẫn vào những chiếc lá thu hay san hô xung quanh các đảo ở Indonesia là nơi lý tưởng để cá ngựa nhỏ ngụy trang, trong khi san hô cũng là nơi để loài cá bọ cạp tránh kẻ thù. Cá chìa vôi tận dụng thân hình có màu giống tảo để đánh lừa con mồi tại Eo biển Manche, ngoài ra, trên sống lưng cá có một cái vây dài cứng thon nhọn y hệt cái chìa vôi, chiếc vây này chính là vũ khi tự vệ của cá. Con ếch nâu gần như không bị phát hiện khi nó hòa lẫn với môi trường xung quanh ở Tây Australia, Ếch cây châu Á ngụy trang hoàn hảo thành màu lá trong khu bảo tồn Thung lũng Danum, Borneo, Malaysia. Màu sắc bí ẩn và hình dáng giống như một chiếc lá sẽ bảo vệ loài bướm nhiệt đới Geometridae khỏi nguy cơ bị tấn công. Trong khi vỏ cây giúp bảo vệ một con bướm trắng đốm đen ở Cornwal, Anh.

Đậu trên cây trong rừng ở Tây Malaysia, những con côn trùng lá không lổ rất khó bị phát hiện. Sao biển nằm lẫn với san hô mềm tại vùng biển quanh Papua New Guinea. Đáy biển ở ngoài khơi Tobago là nơi lý tưởng để cá bơn đuôi công lẩn tránh kẻ thù và săn mồi hay Một con cá bọ cáp ngụy trang dưới đáy biển ở Thái Bình Dương. Cú xám lớn lẫn với màu vỏ cây trong rừng. Cỏ dài trên các thảo nguyên ở châu Phi cho phép loài linh dương Kudu dễ dàng lẩn tránh kẻ thù. Lớp lông trắng muốt của thỏ Bắc cực giúp nó gần như không bị kẻ thù phát hiện trên tuyết ở Canada. Loài thằn lằn quỷ gai Thorny Devil (Moloch horridus) sống ở vùng đất đá khô cằn miền trung nước Úc, cơ thể loài này có thể đạt tới chiều dài 20,32 cm. Toàn thân nó được bao phủ bởi gai cứng và sắc nhọn, cản trở các động vật ăn thịt tới gần. Nó cũng có thể tự ngụy trang bằng cách thay đổi màu sắc giống với môi trường xung quanh. Đặc biệt hơn, loài thằn lằn này còn biết đánh lừa kẻ thù. Nó có một cái đầu giả đằng sau cổ để khi một kẻ thù ăn thịt lượn lờ xung quanh, con thằn lằn có gai sẽ vùi cái đầu thật xuống cát, còn cái đầu thật của nó vẫn sẽ được bảo toàn.

Nhiều loài áp dụng chiến thuật giả chết nhất là những loài vật láu cá, giỏi mánh mung. Hầu hết các loài ăn thịt thích giết ngay con mồi của mình để nhấp nháp miếng thịt sống (ăn tươi nuốt sống) nên sẽ không còn có hứng thú với những con vật đã chết từ lâu và thối rữa, bốc mùi hôi thối. Chính điều này giúp nhiều con mồi thoát chết nếu chúng biết giả chết. Dưa chuột biển giả chết mình để tự vệ, khi bị đe dọa, dưa chuột biển sẽ tự moi ruột mình ra khỏi cơ thể, chúng sẽ tự va đập thân thể cho đến khi một số nội tạng trong cơ thể văng ra ngoài bằng đường hậu môn. Sau khi kẻ thù nghĩ rằng con mồi đã chết, dưa chuột biển sẽ tái tạo lại phần cơ thể đã mất và tiếp tục cuộc sống.

Loài thú có túi Opssum châu Mỹ, nếu tình thế trở nên cực kỳ nguy hiểm chúng sẽ thực hiện việc giả chết. Con vật sẽ thả rơi mình xuống đất, miệng nhỏ dãi như thể bị ốm, nằm bất động với cái miệng mở ra, bên cạnh đó, nó tiết ra một chất có mùi như xác chết từ tuyến hậu môn của mình là như xác bị thối rữa. Khi có sợ hãi, thú có túi ôpốt rơi vào trạng thái hôn mê có thể kéo dài nhiều giờ, đủ lâu để thuyết phục bất kỳ loài động vật ăn thịt nào rằng chúng đã chết. Nỗi sợ hãi cũng khiến loài vật này phát ra một mùi hôi như mùi xác chết càng giúp chúng ngụy trang tốt hơn bởi xác chết thối cũng không ngon miệng.

Một số loài động vật có chiến thuật làm cho chúng to lớn hơn để hù họa kẻ tấn công hoặc quấy rầy, những loài chim thường xù lông lên làm chúng trông to lớn hơn, một số loài thằn lằn có mào thì xòe mào ra, các loài ếch, nhái, cóc thì cố bơm không khí vào và làm chúng phình to ra. Chim công trống rực rỡ với cái đuôi xòe ra những họa tiết phức tạp cùng con mắt màu ngọc xanh, nó còn là vũ khí tự vệ cho chim công khi gặp kẻ thù, chúng sẽ thị uy và mê hoặc kẻ thù, và kích thước to hơn nhờ xòe lông cùng những con mắt như mê hoặc kẻ thù sẽ giúp chim công an toàn. Loài cá nóc nhím (Diodon nicthemerus) trông từa tựa như loài cá phồng, có điều, gai của chúng bao phủ hết các vùng da trên cơ thể. Khi bị một loài cá lớn hơn đe dọa, chúng sẽ phồng mình lên giống như loài cá phồng nhằm làm sụp đổ ý đồ của kẻ thù.

Khi một con linh cẩu uy hiếp đàn con báo săn mẹ sẽ cố gắng chống lại, dọa dẫm và có thể đuổi được con linh cẩu đi, chúng có thể dọa và đuổi linh cẩu đi trong khi linh cẩu là một mãnh thú lớn hơn, khỏe hơn, nguy hiểm hơn và là một chiến binh giỏi hơn, nó được giúp sức bởi hai vệt đen hình giòng lệ ở bên dưới mắt, báo săn là loài vật duy nhất thuộc họ mèo có vệt dài hình dòng lệ từ khóe mắt đến khóe miệng, các vệt dài này khuếch đại các đường nét trên khuôn mặt và trông chúng như dữ tợn hơn. Do đó nếu nó gầm gừ, khè khè hay giận dữ thì những vệt hình dòng lệ sẽ khiến nó trông có vẻ hung tợn và có thể làm cho con linh cẩu to hơn bỏ đi.

Loài cóc khổng lồ châu Phi là món ăn ngon cho bất kỳ động vật ăn thịt nào, vì thế nó đã sử dụng khả năng của mình để bắt chước, cải trang thành loài rắn hổ lục Gaboon có nọc độc cao để thoát khỏi bị ăn thịt. Mô hình màu sắc và hình dạng của cơ thể con cóc giống với đầu của rắn hổ lục, hai đốm nâu sẫm và một dải màu nâu sẫm kéo dài xuống lưng, hình dạng tam giác của cơ thể, một ranh giới sắc nét giữa lưng nâu và sườn nâu sẫm và làn da của loài cóc này, rắn hổ lục Gaboon có khả năng gây ra những vết cắn chết người, những kẻ săn mồi có thể sẽ tránh những con cóc trông tương tự để bảo đảm chúng không phạm sai lầm chết người, con cóc khổng lồ Congo dường như không có mặt ở những khu vực không có loài rắn có nọc độc Gaboon, với sự xuất hiện, hành vi tương tự và phân bố địa lý chồng chéo của chúng, những con cóc và rắn hổ lục có thể kết hợp với nhau, và điều này tiếp tục ủng hộ giả thuyết bắt chước.

Đoạn chi

nhỏ|phải|Thằn lằn đứt đuôi nhỏ|phải|Mực nang có tuyệt chiêu phun mực để tẩu thoát Thạch sùng hay thằn lằn thường cắn đuôi để tìm cách chạy trốn mà thôi, khi đuôi rơi ra còn đang quằn quại sẽ làm kẻ thù chú ý, còn chủ nhân của đuôi thì đã chạy xa. Nhiều con thằn lằn có thể tự vứt bỏ chiếc đuôi của mình khi bị kẻ thù săn đuổi. Bằng cách chấp nhận hy sinh một phần thân thể của mình, chúng có thể giải thoát cho mình và đánh lạc hướng sự chú ý của kẻ săn mồi. Kể cả khi cái đuôi đã bị tách ra, sự co thắt của dây thần kinh cũng khiến chiếc đuôi ngọ nguậy như thế nó vẫn đang sống để gây chú ý.

Vật thể không đầu kỳ dị này sẽ khiến kẻ thù giật mình và giúp con thằn lằn cụt đuôi có cơ hội quý giá để chạy trốn. Một chiếc đuôi mới sẽ được mọc ra từ sụn, chiếc đuôi nguyên gốc thì bắt nguồn từ xương sống Còn ở loài thằn lằn màu xanh lá cây Anole (Anolis carolinensis) có thể hy sinh phần đuôi đề thoát khỏi động vật ăn thịt và sau đó mọc trở lại vì chúng có ít nhất 326 gene ở các khu vực cụ thể của đuôi tái tạo, gồm cả những gene liên quan đến sự phát triển của phôi thai, phản ứng các tín hiệu nội tiết tố và chữa lành vết thương.

Ngoài khả năng phun mực để tạo ra một đám mây đen cho phép nó thoát khỏi kẻ thù thì loài mực cũng có thể tự cắt phần chi (xúc tu) của mình để chạy trốn theo kiểu "bỏ của chạy lấy người", kèm theo đó nó sẽ phun ra một luồng ánh sáng để đánh lạc hướng kẻ thù hay con mồi tạo điều kiện cho con mực tấn công hoặc trốn thoát. Phần "cánh tay" (xúc tu) bị mất sau đó sẽ được mực tái sinh nhưng phải mất một thời gian. Sau khi tấn công đối phương, con mực ống bỏ trốn và để lại một đoạn xúc tu của nó. Việc con mực dùng vật thế thân để đánh lạc hướng của đối thủ được tin là cách giúp nó có đủ thời gian thoát khỏi kẻ thù trong tình thế hiểm nghèo.

Giống như loài thằn lằn, con mực sau đó tái tạo đoạn xúc tu bị mất. Loài mực ống Octopoteuthis deletron có khả năng tự cắt bỏ một phần tua tay của mình khi tấn công hoặc khi bị kẻ thù tấn công để phòng vệ. Điều này khác với bạch tuộc là loài luôn tung ra toàn bộ xúc tu của mình khi ở trong tình thế căng thẳng, mực O.deletron cắt phần cánh tay ở gần đối tượng tấn công hơn nên giảm thiểu được sự mất mát của cơ thể. Ở trên cạn, khi những con thú, thường là dã thú bị trúng bẫy của thợ săn, nhiều con dã thú sẽ tự gặm chân mình để thoát khỏi cái bẫy kẹp, bất chấp sự đau đớn và thương tật.

Một cơ chế tự vệ dị thường nhất tự nhiên được ghi nhận ở nhện, khi nhện mẹ mang bầu bị tấn công, các nhện con đã đột ngột thoát khỏi túi thai trên lưng nó ra ngoài cùng lúc. Khi người ta bắt nhốt ba con nhện trưởng thành vào một cái bình thủy tinh. Một trong số những con nhện này là cá thể cái đang mang bầu. Một con nhện khác có vẻ hiếu chiến, hung hăng tiến lại gần nhện mẹ trước khi nhảy xổ vào vồ nó. Khi cuộc đụng độ bắt đầu, nhện mẹ dường như "phun trào" lũ con ra khỏi túi thai trên lưng, khiến chúng bò rải rác khắp chiếc bình đựng. con nhện gây hấn đơn giản có thể đã xé toạc túi thai mà các nhện cái thường phát triển trên lưng để chứa con, nhện mẹ đã tạo cho các con cơ hội sống sót tốt nhất khi gặp nguy hiểm, bằng cách thả chúng ra thế giới bên ngoài. Loài nhện vẫn cho phép con cái của chúng sống trên lưng mẹ khi còn nhỏ, nhằm tạo cho chúng cơ hội tránh bị ăn thịt tốt hơn.

Gây nhiễu

nhỏ|phải|Một con [[Ngựa vằn Grevy|ngựa vằn với những sọc vằn để đánh lạc hướng kẻ thù]] Ngựa vằn có bộ lông sọc đen trắng là để đánh lừa thị giác các loài động vật săn mồi, nó sẽ làm hoa mắt đối phương dẫn đến không tập trung vào con mồi, các loài ngựa vằn châu Phi đã sử dụng các sọc trên bộ lông chúng để làm lóa mắt những kẻ thù săn mồi. Các sọc trắng - đen xen kẽ trên bộ lông có tác dụng tạo ra ra ảo giác che giấu cử động của một con ngựa vằn và bảo vệ nó trước việc bị tấn công. Các sọc chạy theo hướng dễ nhận biết trên phần hông và các sọc chạy dọc hẹp hơn trên lưng và cổ của một con ngựa vằn đã tạo ra những tín hiệu chuyển động bất ngờ, gây nhầm lẫn cho các đối tượng quan sát, đặc biệt là trong một đàn ngựa vằn. Những vạch đen trên da ngựa vằn khiến rất khó phân biệt từng cá thể làm kẻ thù khó tấn công.

Để đối phó với kẻ thù là loài dơi, loài bướm đêm đã phát triển một cơ chế phòng vệ dùng cơ quan sinh dục phóng ra các luồng sóng siêu âm. Trong những hang động tối tăm và các khu rừng rậm rạp trên thế giới, một cuộc chiến tiến hóa dai dẳng và kịch tích kéo dài 65 triệu năm đang diễn ra giữa loài dơi với bướm đêm. Rõ ràng bướm đêm là kẻ yếu, nhưng oài này đã tìm được những biện pháp tài tình để chống lại vũ khí lợi hại của kẻ thù, loài bướm đêm lớn có khả năng làm nhiễu tín hiệu định vị mà dơi sử dụng trong cuộc rượt đuổi trường kỳ trong bóng đêm.

Khi bị dơi truy đuổi, chúng chà xát bộ phận sinh dục vào bụng để tạo ra sóng siêu âm, có tác dụng làm nhiễu khả năng xác định phương hướng của kẻ thù. Tín hiệu siêu âm của loài côn trùng này có thể đóng vai trò như một lời cảnh báo rằng chúng cũng đang có vũ khí, như chân đầy gai, hoặc khiến dơi bị xáo trộn. Trước đó, bướm hổ là loài duy nhất được ghi nhận có khả năng làm nhiễu sóng của dơi. cả bướm đêm lớn lẫn bướm hổ đều sở hữu đôi tai phát hiện được sóng định vị của dơi, đồng thời có luôn khả năng phản ứng bằng cách phát trả lại dạng sóng tương tự. Điểm khác nhau ở đây là tai của bướm đêm lớn ở trên mặt, còn tai bướm hổ ở phần ngực, và bướm hổ cũng phát tín hiệu siêu âm bằng cách dùng các màng ở vùng ngực.

Bắt chước

nhỏ|phải|Một con côn trùng có ngoại hình giả dạng như một con rắn lớn Bạch tuộc biến hình là một loài động vật thủy sinh thông minh có khả năng bắt chước các động vật biển khác nhau bao gồm cả cá, sư tử, rắn biển, cá đuối gai độc và sứa. Ngoài chuyển động cơ thể, chúng cũng có thể biến thành màu sắc của động vật chúng chọn để bắt chước. Chúng cũng sử dụng thay đổi màu sắc để pha trộn với môi trường xung quanh. Loài bạch tuộc có thể bắt chước hình dáng của hơn 15 loài khác nhau bao gồm rắn biển, cá mao tiên hay cá thờn bơn, cỏ chân ngỗng. Chúng sử dụng những khớp xoắn có sẵn trong xúc tu để biến đổi cơ thể trong khoảng thời gian ngắn. Sự thay đổi hình dáng bên ngoài được loài bạch tuộc thực hiện khi chúng nhận thấy có mối đe dọa và phản ứng đầu tiên là bắt chước thành chính kẻ thù mình. Bạch tuộc bắt chước còn có khả năng nhận biết động vật để mạo danh, khi bạch tuộc bị tấn công bởi loài cá biển chuyên sống ở rạn san hô, nó sẽ biến mình thành một chú rắn biển dài, có màu vàng đen để đe dọa rồi sau đó lẩn trốn.

Một loài nhộng bướm ở Costa Rica thường trú trong các chiếc lá cuộn tròn. Khi nhìn ngước lên, đôi mắt giả trên cơ thể con nhộng khiến những con chim nhỏ có ý định tiến lại gần phải sợ hãi và tránh xa. Một loài côn trùng được gọi là Hyalymenus nymph có hình dáng và hành động giống như các con kiến ăn nhựa cây. Nhờ đó, các loài có ý định tấn công chúng sẽ tránh xa vì cho rằng đây là những con kiến hung dữ. Tuy nhiên, nếu đàn kiến phát hiện được cách ngụy trang này, chúng sẽ tấn công các con côn trùng Sâu Cyphonia clavata có điểm đặc biệt là có thêm một phần thừa hình con kiến trên lưng. Phần thừa này khiến kẻ thù của chúng chán nản mà bỏ đi. Hoặc loài rắn chúa ở Mỹ (không có độc) nhưng bắt chước màu sắc của rắn san hô (loài kịch độc) để lừa các loài ăn thịt. Với ngoại hình khá giống với rắn san hô đỏ cực độc, nhưng rắn sữa hoàn toàn vô hại. Để phân biệt rắn sữa và rắn san hô đỏ, người ta căn cứ vào màu sắc của thân: sọc đỏ nằm cạnh sọc đen là rắn sữa, sọc đỏ nằm cạnh sọc vàng là rắn san hô đỏ. Hoặc các loài trong họ ruồi giả ong thường có ngoại hình giả dạng thành các loài ong vò vẽ để làm các con vật săn mồi thôi ý định tấn công.

Cảnh báo

Một số loài động vật không chỉ có cơ chế phòng vệ thụ động như bỏ trốn hoặc tự cuộn mình mà chúng còn chủ động cảnh báo cho các loài động vật khác về sự nguy hiểm của bản thân. Các động vật biển này được vũ trang chu đáo, nhưng để tránh bớt xung đột, chúng chọn cách cảnh báo kẻ thù bằng màu sắc rực rỡ của cơ thể, với ý nghĩa: "Nguy hiểm, đừng động vào tôi/tránh xa tôi ra". Tín hiệu xua đuổi là sự đổi màu cảnh báo đến các loài săn mồi tiềm năng nhằm xua chúng đi. Ở sinh vật biển, những loài nguy hiểm thường có màu sắc đặc trưng: những đốm xanh dương trên nền vàng. Khi bị đe dọa, khỉ đột đực sẽ đứng thẳng người và dùng hai tay đấm thình thịch vào bụng để cảnh báo trước khi chiến đấu. nhỏ|trái|Màu sắc sặc sở của một con ếch là dấu hiệu cảnh báo về độc tố Các loài chồn hôi thường cảnh báo đối phương trước rồi mới ra tay, trước khi xì hơi, những con chồn sẽ cong đuôi và giậm chân để kẻ lạ mặt có thời gian rút lui. Khi chồn hôi sọc (Mephitis mephitis) giậm chân trước và gầm gừ có nghĩa là nó đang giận dữ, nó muốn cảnh báo là sặp xịt mùi hôi bởi nó có những tuyến mồ hôi tiết ra một loại chất lỏng có mùi cực kỳ khó chịu, chồn hôi luôn nhắm thẳng vào mặt con thú đe dọa mình. Bộ lông với những màu sắc tương phản đậm nét khiến cho những con thú săn thịt nào đã từng một lần bị trúng đòn nước thối sẽ dễ dàng nhận ra bóng dáng chồn hôi và nhanh chóng tránh xa.

Với loài sên biển, chúng hấp thu các chất độc và khó chịu thải ra từ bọt biển và trữ lại trong tuyến hôi của chúng (nằm ở xung quanh lớp vỏ bì), các động vật ăn thịt sên biển đã học cách tránh những loài sên biển nhất định này dựa trên các mảng màu sặc sỡ của chúng. Hải sâm liếm ngón có thân dài, mềm, quanh là các xúc tu phân nhánh, ở mút có các phần tử và vi sinh vật ăn được bám vào, theo định kỳ, hải sâm gập từng xúc tu một về phía miệng trung tâm và mút (vì vậy chúng được đặt tên là hải sâm liếm ngón), trong khi đa số đồng loại có màu nâu nhạt, loài này lại có nhiều màu sắc, nổi bật trong môi trường sống như một cách lưu ý các loài khác. Con vật đẹp rực rỡ ấy ít thấy trong các hồ cá cảnh, vì mỗi lần bị quấy rầy, nó thải chất độc vào nước, làm nhiễm độc cư dân trong hồ cá. Các loài ếch phi tiêu độc có màu sắc rất sặc sở và sê gửi lời cảnh báo đến các động vật khác là chúng có độc.

Các loài rắn bên cạnh việc cảnh báo bằng màu sắc sặc sỡ (như rắn san hô), một số loài còn cảnh báo bằng hành vi, chẳng hạn như rắn hổ mang trước khi tấn công, chúng sẽ ngóc đầu, bạnh mang (phồng mang) và rít phì phì, hay rắn đuôi chuông luôn cảnh báo xung quanh bằng những tiếng rung lắc từ cái đuôi chúng kêu lên những âm thanh chết người, con rắn đuôi chuông sẽ liên tục rung đuôi để cảnh báo những kẻ xâm nhập nên tránh xa, một tín hiệu dễ nhận biết từ khoảng cách xa. Nếu chúng sống dưới đất và ngụy trang tài giỏi thì nguy cơ bị tấn công sẽ rất cao, và nếu kẻ khác phớt lờ lời cảnh báo thì điều không hay sẽ đến đơn giản vì chúng có đủ độc đố chết người.

Thói quen của loài rắn mamba là ngóc một phần ba cơ thể trước lên khỏi mặt đất, nghĩa là một con rắn dài 4 mét có thể đứng lên và cắn vào một người cao gần 2m. Khi bị đe doạ, con rắn sẽ ngóc mình lên không trung, uốn cong lưng rồi sau đó cân bằng trên phần cơ thể còn lại. Nó bò rất nhanh về phía trước và há to miệng để lộ phần màu đen ở bên trong nên mới có tên gọi là rắn Mamba đen chứ bề ngoài chúng không hoàn toàn đen, đợt tấn công của một con rắn mamba sẽ là đợt tấn công dài nhất và kinh khủng nhất vì lượng độc tố khủng khiếp của chúng, nếu bỏ quan dấu hiệu cảnh báo này hoặc cố tình làm phiền, các loài rắn sẽ tấn công bằng nọc độc chết người của chúng.

Đáp trả

Chiến lược đáp trả của các loài động vật cũng là một trong những vũ khí phòng vệ hiệu quả, chúng là những loài động vật có thể bị săn đuổi nhưng có thể đánh trả một cách cần thiết. Loài thú có túi Opssum châu Mỹ bình thường chúng vẫn có những phản ứng khi gặp nguy hiểm giống như các loài có túi khác như kêu rít lên, cào cấu và nhe răng, nếu tình thế nguy hiểm hơn chúng có thể cắn ác ý. Đà điểu đầu mèo thường rất nhút nhát, nhưng nếu bị đe dọa, nó sẽ tấn công, chúng sẽ nổi cơn điên và cố giết chết con người theo cách tàn bạo nhất có thể, chúng sẽ tiến đến với móng vuốt nhọn sắc to lớn, trong đó, ngón bên trong hay ngón thứ hai trong ba ngón chân có móng đáng sợ, thẳng, dài có thể cắt lìa cánh tay hay moi ruột một cách dễ dàng.

Nhím là loài vốn hiền lành nên rất dễ bị các con vật khác lấn lướt, tấn công nhưng bù lại thì cách duy nhất để chúng xua đuổi kẻ thù là dùng bộ lông rậm rạp, sắc nhọn của mình. Khi bị đe dọa, nhím sẽ giữ khoảng cách an toàn với kẻ thù và gồng mình lên để lộ ra những chiếc gai nhọn cứng cáp. Nếu kẻ thù chưa bỏ cuộc, nhím sẽ chờ kẻ thù lao vào tấn công để trả đũa. Chúng sẽ nằm im, xù gai lên bao bọc khắp cơ thể. Khi kẻ thù lao vào sẽ bị gai nhọn cắm sâu vào thịt gây đau đớn, thậm chí là tê liệt. Đã có những con thú ăn thịt như báo hoa mai, chó hoang phải trả giá vì những chiếc gai tủa này.

Một số loài cá lại có chất độc ở gai bảo vệ, với nhiều loại cá có chất độc ở gai bảo vệ. Chúng có các gai nhọn, sắc ở vây lưng, vây bụng, ngực và mang, sống nhiều ở biển. Một số sống ở nước ngọt như cá mó còn gọi là cá chép hoa Trung Quốc với trên vây lưng có 12 chiếc gai không bằng nhau, gai thứ 4, 5, 6 dài hơn. Khi bị gai cá này đâm vào cơ thể, chỗ bị đâm sưng tấy, mưng mủ và đau nhức, toàn thân sốt, biến chứng sẽ nguy hiểm khi có các chất độc, dịch nhày do cơ thể cá bài tiết qua chỗ gai đâm và thấm vào trong cơ thể. Hoặc như loài cá ngát sọc, chúng có những cái ngạnh sắc nhọn có độc và có thể tấn công những ai bắt lấy chúng.

Cá đuôi chấm xanh dương có mối nguy hiểm nằm ở những gai chắc, có đốt, ngạnh, mang nọc ở vị trí giữa đuôi. Trong trường hợp bị con người đe dọa, đuôi cá quất về phía trước như cái roi, gây vết thương rách thịt vô cùng đau đớn, dễ nhiễm trùng với triệu chứng như sốt, co rút, và điều này cũng đương nhiên là đáng sợ đối với các loài vật khác. Cá hộp ít di động, cơ thể được bọc trong một khung xương như chiếc hộp, chỉ để nhô ra những phần linh hoạt như đuôi, vây, mắt, chất độc dưới da rất mạnh, tiết ra mỗi khi cá toan cắn, chúng là cá nhỏ, thân màu vàng, đuôi xanh dương trông rất đẹp mắt nhưng cho thấy sự nguy hiểm của mình.

Cá mù làn bay bơi lừ đừ, vênh vang với bộ da vằn, vẻ tự tin do nó có một sức mạnh đáng sợ, đó là nọc cá có độc tố rất mạnh, chúng mang một loại gai lưng rất dài với các rãnh khía xoè ra hai bên như hai cánh, ngoài cảm giác đau buốt, nọc có thể gây sốc, đặc biệt nguy hiểm với thợ lặn, chỗ bị thương sưng phù, lâu lành, trong một số trường hợp, nhiễm độc có thể đưa đến rối loạn tổng trạng, gây tai biến tim hay hô hấp và cả tử vong, chúng sẽ tấn công đáp trả khi bị xâm phạm hoặc cố bắt lấy chúng.

Mực vòng xanh là loài mực tí hon, tầm vóc không quá 10 cm, nhưng vết cắn rất độc, có thể gây tử vong, "kẻ sát thủ tí hon" này thường hiện diện trong các vũng nước khi thủy triều xuống. Lấy tay nhặt nó để ngắm là tiếp cận với cái chết. Vết cắn không đau, nhưng gây tê cóng tại chỗ rồi lan ra toàn thân, trong vòng 1-2 giờ từ tê chuyển sang trạng thái liệt các chi, rồi cơ hô hấp. Giun lửa là loài giun có đốt dễ nhận ra nhờ màu sắc rực rỡ như phát lửa, một lớp tơ mịn màu trắng giương quanh thân, nhọn, có ngạnh và dễ gãy, tơ ấy xuyên sâu vào da, gây cảm giác bỏng rát và ngứa, đôi khi rất đau, hiện tượng này mang tính vật lý, vì không tìm ra nọc trên tơ.

Chiến lược dùng vỏ đáp trả đòn tấn công của loài ốc sên cũng đã được ghi nhận thông qua việc phát hiện hai loài ốc sên có khả năng tấn công kẻ thù bằng cách đung đưa lớp vỏ qua lại, đó là cơ chế phòng thủ của các loài ốc sên thuộc chi Karaftohelix trước kẻ săn mồi là bọ cánh cứng Carabid. Ốc sên đã dùng vỏ đối phó đòn tấn công của bọ cánh cứng, loài ốc sên Karaftohelix gainesi sống ở Hokkaido, Nhật Bản, và Karaftohelix selskii sống ở vùng Viễn Đông của Nga, có phản ứng rất độc đáo trước cuộc tấn công của bọ cánh cứng. Thay vì rút lui cơ thể mềm mại vào lớp vỏ bảo vệ, chúng đung đưa lớp vỏ qua lại như một cây gậy để tấn công bọ cánh cứng đang tiến đến gần. Hành vi của những con ốc sên và hình dạng lớp vỏ của chúng có mối tương quan với nhau để tối ưu hóa chiến lược phòng thủ ưu tiên, hai phương pháp phòng thủ thụ động (chui vào trong vỏ) và phòng thủ chủ động (sử dụng vỏ để tấn công kẻ thù) tiến hóa độc lập với nhau trong các loài ốc sên sống tại Nhật Bản và Nga.

Các loài thú móng guốc cũng có những chiến lược đáp trả kẻ địch một cách đích đáng, chẳng hạn như loài ngựa, tuy chúng không có sừng nhọn nhưng quá trình tiến hóa chúng đã hình thành một kỹ năng tự vệ sở trường là những cú đá hậu trời giáng để chống lại các loài dã thú ăn thịt thường tấn công vào phần lưng và mông nhạy cảm của nó. Ở thảo nguyên châu Phi, không ít lần, sư tử đã nhận thất bại đau đớn khi bị ngựa vằn phản đòn, tung các cú đá hậu như trời giáng, không ít lần, bản năng sinh tồn đã giúp ngựa vằn lật ngược tình thế và hạ sư tử bằng những cú đá hậu sở trường. Khi sư tử nhảy thẳng lên lưng ngựa vằn định ra đòn chí mạng, nhưng không ngờ lại bị con mồi tung ra cú đá hậu hiểm hóc, tung cước trúng hàm khiến sư tử đau đớn thậm chí là trọng thương.

Gây hấn

nhỏ|phải|Voi châu Phi đang lên cơn hăng Sự hung hăng hay tính hiếu chiến là hành vi phòng vệ chủ động của các loài để loại trừ các mối nguy hiểm hay sự bất an của chúng. Điển hình là loài trâu rừng châu Phi. Trâu rừng châu Phi có xu hướng loại bỏ mối nguy hiểm thay vì trốn tránh chúng, chúng đôi khi hung hăng, nóng nảy một cách vô cớ và là một sát thủ quả quyết. Với tính tình nóng nảy, dễ bị kích động cộng với tốc độ chạy có thể lên đến 58 km/h cùng cặp sừng lớn đây là một động vật nguy hiểm. Vì tính tình hung dữ này, đây là loài động vật chưa bao giờ được thuần hóa thành công. Ngay cả khi người ta nhìn chúng qua ống nhòm ở khoảng cách xa, những con đực dường như đang nhìn chăm chăm vào với sự thù ghét. Chúng là một sinh vật rất khó lường và là một trong những động vật nguy hiểm nhất trên đất liền. Trâu rừng châu Phi sẽ hung hăng tấn công nếu có thú săn mồi nào dám bắt con của chúng.

Trâu rừng châu Á vốn rất kỵ với hổ và bản tính thì trâu rừng vốn ghét hổ nên hễ thấy mùi hổ là trâu liền giậm chân, lồng lộn lên và cuồng loạn lạ thường đồng thời khi trâu rừng đánh hơi được chỗ hổ đang rình rập thì lao tới. Hai con trâu rừng châu Á khỏe mạnh có thể dễ dàng hạ gục được một con hổ Mặc dù vậy, hổ vẫn là loài đe dọa đến sự sinh tồn của loài trâu rừng, một con hổ có thể đánh hạ được một con trâu rừng trưởng thành để ăn thịt chúng So với bò rừng, bò tót dữ hơn, nguy hiểm cho người hơn. Khi bị bắn, bò rừng phân tán chạy trốn nhưng bò tót sẵn sàng tấn công kẻ thù. Bò tót khá hung dữ, chúng hay húc tung những chướng ngại vật và có thể húc chết người.

Tê giác không thường tấn công con người hoặc các loài vật khác, tuy nhiên do sở hữu thị lực kém, chúng rất dễ bị giật mình và một khi đối tượng trong tầm ngắm của chúng, sẽ bị truy đuổi đến tận cùng. Một tường thuật về vụ một phụ nữ trẻ bị tê giác húc chết ở Nam Phi cho thấy con vật này đáng sợ và không thể đoán trước như thế nào. Một con tê giác trắng trưởng thành có thể nặng tới 6.000 pound và là loài động vật nặng thứ hai trong số các loài có vú sống trên cạn (sau voi). Tê giác thiển cận, tính rất hung dữ, thất thường, điều đó làm chúng rất nguy hiểm. Chúng sẽ xông vào với toàn bộ sức lực và dùng sừng để làm bị thương hay giết chết những gì chúng cho là mối nguy hay làm phiền chúng. Đừng bao giờ ở giữa một con tê giác và con của chúng, hoặc ở gần bất kỳ một con tê giác đực già nào. Nai sừng tấm thường chủ động tránh người, nhưng khi bị đe dọa hoặc làm phiền, chúng sẽ trở nên rất hung hăng, nhất là trong giai đoạn nuôi con.

Voi có trọng lượng cơ thể lên tới 16 tấn (12.000 pound), tiềm ẩn những nguy hiểm cho con người, nên tránh những va chạm hay tiếp xúc với voi đực trưởng thành hay voi cái đang nuôi con nhỏ. Trong số các mối nguy hiểm nhất là voi độc (voi sống một mình), chúng là những con voi sống riêng lẻ và rất hiếu chiến, hành vi của loài vật này rất khó đoán biết, đặc biệt là khi chúng tức giận và điên tiết, lên cơn (cơn hăng), khi đó với trọng lượng to lớn của mình, chúng có thể nghiền nát bất cứ thứ gì Trong tự nhiên, lợn rừng là loài thú hung dữ là lì lợm, khi bị thương nó có thể liều lĩnh húc cả trâu khiến trâu bật ngã Với bản tính của mình, lợn rừng rất thích phá phách và tấn công, do đặc tính của lợn lòi rất hung dữ, chúng có nhiều vũ khí tự nhiên lợi hại, đặc biệt khi sùng máu, nó có thể quay trở lại tấn công bất chấp thương tích.

Lợn rừng nổi tiếng là sống dai, ngay cả khi bị hạ nó cũng có thể vùng dậy tấn công bất thình lình, điều này khiến chúng trở thành con mồi cứng đầu, ương ngạnh, lì lợm và khó xơi tái kể cả đối với những siêu dã thú như hổ, báo, sư tử. Với độ lỳ đòn, lỳ lợm của mình thì heo rừng lục chiếc thường hung hãn tấn công bất ngờ bất kỳ con vật nào ngay khi vừa giáp mặt, khi đã chiến đấu thì nó không bao giờ bỏ chạy trước bất kỳ đối thủ nào, chiến đấu cho đến chết mới chịu thôi

Lửng mật là một loài thú ăn thịt to khỏe, với lớp da dày và khả năng phòng vệ dữ dội, dù trọng lượng trung bình chỉ đạt gần 14 kg nhưng chúng được trang bị hàm răng và móng vuốt sắc nhọn. Trong tự nhiên, lửng mật hiếu chiến hiếm khi gặp rắc rối, ít bị ăn thịt trong tự nhiên vì lớp da dày của nó và khả năng phòng vệ rất dữ dội, chúng nổi tiếng là loài động vật hung dữ, bặm trợn, liều lĩnh không chùn bước, lửng mật còn có khả năng đề kháng độc tốt ngay chất kịch độc cả rắn hổ mang. Chúng từng chiến đấu với sư tử, trăn khổng lồ, rắn độc và hiếm khi chịu thua, chúng dường như không hề biết sợ và chịp lép vế trước bất cứ động vật nguy hiểm nào.

Không chỉ có khả năng phòng vệ, lửng mật còn rất hung hăng và bất chấp, khi đối đầu với những động vật nguy hiểm hoặc mãnh thú, chúng không hề sợ hãi, chùn bước và nổi tiếng là "gã điên" của tự nhiên, dám chống lại cả sư tử nếu bị khiêu khích, với bản tính hung hăng không biết sợ, từng có con lửng mật dám lừng lững xông vào giữa bầy sư tử. Thậm chí dù to hơn gấp nhiều lần lửng mật, trăn đá châu Phi khổng lồ vẫn phải chịu thua trước sự liều lĩnh và linh hoạt của đối thủ nhỏ bé và nhờ bản tính liều lĩnh và linh hoạt, lửng mất đã giành phần thắng

Việc trực diện đối đầu một cách tự tin còn là một biện pháp tự vệ hữu hiệu thay vì bỏ chạy càng làm kích thích bản năng săn mồi của các con dã thú. Sự liều lĩnh và tự tin đôi khi còn tạo ra bất ngờ, thậm chí những con linh dương đầu bò còn non cũng có thể tấn công trở lại và đuổi báo săn đi, với cặp sừng nhọn hoắt, nếu đấu trực diện, nó không hê thua kém. Thậm chí báo săn còn phải tháo chạy trước sự to khỏe của các con linh dương đầu bò trong trường hợp bị báo săn tấn công, các con linh dương đầu bò có thể liều lĩnh chống trả và đuổi báo săn đi, ngay cả những động vật nhỏ hơn như cáo tai dơi nếu liều lĩnh và dữ tợn trong cuộc đối đầu với báo săn cũng khiến cho báo phải bỏ chạy ngay cả khi đã rượt và bắt được.

Chiến lược

Xa tầm với

nhỏ|phải|Một con sơn dương đang đứng trên vách núi cheo leo nhỏ|phải|Một con vượn chọn môi trường sống trên cây, tránh xa tầm với của các loài dã thú Một trong những chiến lược của con mồi để thoát khỏi nguy cơ đối mặt với những kẻ săn mồi là cố gắng ở ngoài tầm với của kẻ thù. Chúng có thể thực hiện chiến lược này bằng cách tiến hóa, chủ động chọn môi trường sống, chẳng hạn như các loài chim yến thường làm tổ yến ở những vách đá, hang đá cheo leo, dựng đứng đầy nguy hiểm Một số loài chọn cách sống ở những vùng khắc nghiệt ít có động vật sinh tồn để không phải cạnh tranh, chẳng hạn như những động vật sa mạc, trên sa mạc, vào ban ngày trời nóng như thiêu đốt còn ban đêm thì lạnh giá băng, chính sức nóng rực lửa vào ban ngày đã giúp con mồi tồn tại.

Các loài dê có cấu tạo cơ thể đặc biệt bẩm sinh, giúp trở thành bậc thầy về leo trèo, phần móng guốc chẵn, chẻ đôi thành 2 phần (móng chẻ) với các cạnh chắc chắn và cứng cáp. Ở giữa bộ móng guốc có khoảng trống đủ rộng và phần đệm thịt êm, cơ thể rắn chắc và rất cơ bắp. Phần thân trước chắc khỏe, đặc biệt là cơ vai, giúp chúng có thể kéo toàn bộ cơ thể lên phía trước khi leo trèo ở độ cao lớn, phần chi sau tuy không chắc khỏe bằng nhưng vẫn đủ mạnh mẽ để giúp chúng có những bước nhảy chính xác và nhanh gọn. Guốc đôi giúp khả năng giữ thăng bằng tốt, đặc biệt ở địa hình hiểm trở và phần đệm thịt đóng vai trò giống lớp đế cao su tăng độ ma sát, bám chắc vào những diện tích tiếp xúc dù nhỏ nhất, chúng không hề sợ hãi, có khả năng giữ thăng bằng rất tốt.

Một số loài khỉ phát triển khả năng phòng vệ liên quan đến việc leo trèo. Chúng là một trong những loài có khả năng leo trèo tốt nhất thế giới và hầu hết chúng chọn môi trường sống trên những tán cây. Đối với loài khỉ, cái đuôi đóng vai trò rất quan trọng. Hầu hết loài khỉ sống trên cây, vì thế, để giữ thăng bằng khi nhảy từ cành cây này sang cành cây khác, khỉ sẽ phải nhờ đến cái đuôi của mình, cái đuôi có chức năng tương tự như bàn tay, có thể cầm nắm được, giúp chúng leo trèo qua các cành cây. Trong khi đó, khi ở trên cây, chúng chỉ dùng 2 chi trước để chuyền từ cành cây này sang cành cây khác. Trong trường hợp di chuyển trên cây, cái đuôi của loài khỉ giúp chúng giữ thăng bằng rất tốt.

Hầu hết các loài động vật hoạt động vào ban ngày trong khi đó các loài ăn đêm (nocturnal) thi hoạt động vào ban đêm, buổi tối khi các loài ăn thịt đã ngủ say. Chúng chủ yếu là kiếm ăn và ngủ vào ban ngày như thế sẽ giảm nguy cơ bị ăn thịt, hoặc do nhiệt độ ban ngày quá nóng và sự cạnh tranh của các loài động vật khác. Các loài động vật sống về đêm thường có các giác quan phát triển cao đối với thính giác, khứu giác, thị giác, xúc giác và đặc biệt là khả năng cảm nhận, đặc điểm này có thể giúp loài vật có thể lẩn tránh kẻ thù. Nhiều động vật có vú hoạt động vào ban đêm hay kiếm ăn đêm, để tránh loài săn mồi vào ban ngày, hoặc bởi vì ban ngày quá nóng không hoạt động được, sống về đêm giúp ong như Apoica flavissima tránh bị săn bắt trong ánh sáng mặt trời dữ dội. Tuy vậy, nhiều loài săn mồi như hổ, báo, sư tử cũng là các loài động vật hoạt động về đêm và thường đi săn đêm.

Số đông

nhỏ|phải|Một đàn cá đang bơi cùng nhau Sống quần tụ theo bầy đàn là một loại tập tính quan trọng của các loài thú hoang dã, đoàn kết luôn là biểu tượng của sức mạnh. Sống theo bầy đàn giúp các loài thú tự bảo vệ trước kẻ thù hay thú ăn thịt cũng dễ dàng tìm bắt và tiêu diệt được nhiều con mồi hơn. Những con mồi cũng có thể tự bảo vệ bằng sự đoàn kết được đặc trưng bởi một lối sống theo bầy, theo đó giúp chúng gia tăng sự cảnh giác đối với kẻ thù chẳng hạn như một bầy nai sẽ có sự cảnh giác, chú ý cao hơn vì có nhiều cá thể quan sát hơn so với một cá thể nai đi lạc, tuy có bản năng cảnh giác và sợ sệt nhưng có thể chúng không bao quát như khi đi theo bầy. Thông thường những con thú ăn cỏ (thú móng guốc) có xu hướng tập hợp thành những đàn lớn và thậm chí có quy mô rất lớn, trong đó lý do tự vệ là nguyên nhân quan trọng.

Những đàn bò rừng, đàn trâu rừng khi gặp hổ, sói chúng sẽ tự vệ bằng các quây vòng, những con non và già yếu ở vòng trong, những con khỏe mạnh ở vòng ngoài và chĩa sừng ra như một đội hình chiến đấu, khiến cho hổ, sói phải kinh sợ mà rút lui. Loài trâu vốn sống tự nhiên trong rừng hoang, chúng thường bị thú dữ như hổ, báo săn đuổi, ăn thịt, nên để tự vệ, trâu dùng cặp sừng cong và nhọn chống trả, một con trâu thì không đủ sức đánh lại hổ nhưng bản năng sinh tồn đã mách bảo cả đàn trâu cùng hợp sức chống hổ dữ nên chúa sơn lâm nhiều phen phải chịu thua, không bắt được trâu, hổ sẽ quay sang rình nghé, và để bảo vệ nghé, khi đêm xuống cả đàn trâu gồm trâu đực, trâu cái, trâu choai đứng thành vòng tròn, đầu và sừng chĩa ra ngoài, cho nghé ở giữa, cách tự vệ cộng đồng đó rất hiệu quả, hổ ít khi vồ được nghé, có khi còn bị trâu húc cho lòi ruột.

Hoặc việc tụ thành đàn lớn khi di chuyển cũng gia tăng sự sống sót của các cá thể, chẳng hạn như khi di chuyển các cá thể chạy theo đàn sẽ có cơ hội sống sót cao hơn những cá thể bị bỏ lại, lạc bầy hoặc tách khỏi đàn, những cá thể lạc bầy, lẻ bạn dễ bị săn bắt hơn. Những loài thú móng guốc khi chạy trốn theo bầy thường chạy sát nhau, nhiều cá thể có chen vào giữa để được an toàn hơn. Loài cừu, mặc dù cũng nhút nhát giống như các loài hươu nai, nhưng chúng lại có bản năng bầy đàn mù quáng, khi hoảng sợ, loài cừu có xu hướng xích lại gần nhau điều này khiến chúng luôn tụ lại với nhau khi hoảng sợ theo kiểu hiệu ứng bầy cừu nhưng đôi khi mang lại hiệu quả vì gây khó cho kẻ ăn thịt khi phải chọn ra một con trong số chúng để tấn công.

Ngoài ra, việc chạy sát nhau tạo nên một dòng di chuyển khí thế không gì cản nổi, có thể thấy điều này ở những đàn ngựa hoang di chuyển, những con sói hay động vật săn mồi khác nếu cố chen vào hoặc ngáng đường thì có nguy cơ bị giẫm đạp, giày xéo không thương tiếc. Hay những con linh dương đầu bò khi di cư chúng tụ lại lên đến hàng triệu con, khi chúng vượt sông, những con cá sấu đang chờ chực, linh dương sẽ đi sát nhau, nếu bị tấn công cả đàn sẽ hoảng loạn và giẫm đạp lung tung, sức mạnh của những vụ giẫm đạp hoảng loạn này có thể làm trọng thương, nhấn chìm cá sấu, làm gãy xương sống của chúng. Hoặc những đàn bò rừng châu Mỹ hoặc đàn trâu rừng châu Phi với số lượng lớn khi di chuyển thì tạo nên một trận cuồng phong không gì cản nổi, mọi thứ ngáng đường đều bị thổi bay, đá phăng đi.

Ngựa là loài to khỏe, chạy nhanh, thường gặm cỏ thành bầy trên các đồng cỏ, chúng tránh kẻ thù bằng cách phi nước đại, với xương bàn chân, ngón chân ít hơn nên các chân trở nên nhẹ hơn vì vậy chạy nhanh hơn để trốn tránh kẻ thù. Chúng thường tụ tập thành bầy để an toàn hơn, đời sống bầy đàn giúp ngựa tránh kẻ thù nhất là đối với ngựa con. Ngựa giao tiếp với nhau để tập hợp đàn, báo nguy cho đồng loại, khi hốt hoảng, chúng đầu ngẩng, đuôi cong, cổ vươn, mũi phồng báo hiệu cho đồng loại. Lợn rừng cũng giống như nhiều loài động vật sống bầy đàn khác là thường liên hệ với nhau bằng âm thanh, lợn rừng sống bầy đàn thường có tập tính cọ xát thân mình vào nhau nhằm tạo mối quan hệ thân thiện, tăng sự tự tin, tính đoàn kết, sức mạnh tập thể và cảm giác an toàn trong bầy. nhỏ|trái|Đàn linh dương đầu bò trên đồng cỏ khô Nhiều động vật khác loài cũng tụ lại với nhau theo kiểu quan hệ cộng sinh, hội sinh để chống lại kẻ thù, thông thường những con khỉ đầu chó hay nhũng con sóc đất, rái cá cạn thường lẫn vào giữa những đám linh dương, dù sao thì nhiều con mắt trông chừng vẫn an toàn hơn là một vài cặp mắt, nhất là thảo nguyên châu Phi có nhiều dã thú. Ngựa vằn cũng thường trà trộn ra vào đàn sơn dương khi đi kiếm ăn. Các con cua đấm bốc tăng cường sức mạnh bằng cách dụ hải quỳ sống bám trên càng của chúng như găng tay đấm bốc, những vết chích của hải quỳ sẽ giúp cua xua đuổi kẻ thù. Nhiều loài cá cam thích bơi quanh cá mập vì chúng biết sẽ được an toàn trước các loài cá ngừ do cá ngừ thường e sợ cá mập.

Cá mòi thường di cư theo đàn, chúng thường bơi với số lượng hàng triệu con, khi gặp kẻ thù hay chướng ngại vật, đàn cá khổng lồ nhanh chóng biến hình. Để chống lại những loài cá lớn như cá mập, cá heo, cá voi hay chim ó bao quanh, đàn cá mòi kết thành khối cầu khổng lồ, đường kính 20m, cuồn cuộn lao đi. Việc di chuyển theo đàn giúp chúng tránh kẻ thù và tăng khả năng sống sót hơn so với việc di chuyển một mình. Đây có thể được coi là bữa tiệc của những loài săn cá mòi, tuy nhiên, bữa tiệc đó không hề dễ để thưởng thức bởi việc di chuyển thành đàn khiến những loài săn cá mòi khó để tấn công chính xác con mồi, dù vây quanh nó toàn là thức ăn, những con cá nhỏ thường bơi quanh kẻ săn mồi như một biện pháp tự vệ nếu chúng cảm thấy bị đe dọa.

Những con cá sống theo bầy đàn để chống lại những kẻ ăn thịt, di chuyển theo bầy đàn là cách tốt nhất đối với cá mòi nếu chúng muốn sống sót giữa biển cả bao la. Sống thành bầy là một phương pháp tự vệ rất hữu hiệu của cá mòi, vì bầy cá không thể bị cá lớn ăn thịt đến tuyệt giống, chúng sẽ trình diễn một cơ chế phòng vệ đủ để làm nản lòng sự đánh phá ban đầu của kẻ thù, nhưng chỉ một thời gian ngắn. Bằng cách xếp lại gần nhau, toàn bộ khối cá mòi làm giảm thiểu khả năng bị bắt, mỗi cá nhân dễ bị ăn hơn một nhóm lớn và chiến thuật này đủ ngăn cản nhiều kẻ đi săn tiềm năng. Thậm chí chúng còn vây bủa cá cá mập khiến cá mập hoàn toàn không tìm được lối đi sau khi bị đàn cá mòi bao vây trong cuộc di cư thường niên của cá mòi dọc theo bờ biển Nam Phi

Kiến là loài vật đông đảo, chúng có thể cắn người do phản ứng phòng vệ, kiến đốt rất đau và ngứa lâu khỏi, vết cắn thường sưng tấy. Loài kiến khủng khiếp khác được biết đến là Kiến quân đội châu Phi hay kiến lính châu Phi. Kiến quân đội càn quét khắp châu Phi với những đội quân hùng hậu, nuốt trọn bất kỳ sinh vật sống nào trên đường đi của chúng. Ong là loài vật có hệ thống tổ chức khá chặt chẽ và bài bản. Cách thức tự vệ của ong thì dựa vào sức mạnh cả đàn lớn giúp chúng tồn tại. Mỗi tổ ong sẽ chia ra nhiều bộ phận như ong gác tổ, ong thợ, ong chiến đấu, trong đó, quan trọng hơn cả chính là đội quân chiến đấu để bảo vệ tổ. Khi nhận được tín hiệu có kẻ xâm nhập tổ từ ong canh gác, đội chiến đấu lập tức ùa ra bên ngoài và dùng chiếc đuôi có chứa kim nhọn tấn công kẻ thù.

Đánh động

Chồn đất Châu Phi (hay còn gọi là cầy vằn, cầy đất) là một loài động vật có v

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Con [[Họ Muỗm|châu chấu đang ngụy trang]] Một con thằn lằn đang lẫn vào đất **Cách thức phòng vệ của động vật** hay việc **thích ứng chống động vật ăn thịt** (_Anti-predator adaptation_) là thuật
**Phong trào quyền động vật** (_Animal rights movement_) hay **phong trào bảo vệ quyền động vật** và đôi khi được gọi là **phong trào giải phóng động vật** hay **phong trào bảo vệ động vật**
nhỏ|phải|Một con [[hổ đang cắn cổ con linh dương mặt trắng, vết cắn từ những chiếc nanh dài của nó có thể xuyên vào tận xương và tổn thương đến hệ thần kinh dẫn đến
**Tính nết của động vật** (_Personality in animal_) hay **tính tính khí của loài vật** đã được nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau bao gồm khoa học nông nghiệp, hành vi
**Thần kinh học động vật** (_Neuroethology_) là phương pháp tiếp cận so sánh và tiến hóa để nghiên cứu hành vi của động vật cùng sự kiểm soát cơ học cơ bản của nó từ
nhỏ|phải|Một con [[bò tót đực với sắc lông đen tuyền bóng lưỡng và cơ thể vạm vỡ. Màu sắc và thể vóc của nó cho thấy sự cường tráng, sung mãn của cá thể này,
nhỏ|phải|Một con thú lông nhím (Hemicentetes semispinosus) đang xù lông đầy vẻ đe dọa, thực tế chúng là loài vô hại và nhút nhát nhỏ|phải|Một con tắc kè phồng mang trông dữ tợn **Hành vi
nhỏ|phải|Một con thiên nga đang cất cánh bay **Động vật bay lượn** hay **động vật biết bay** là các loài động vật có khả năng chuyển động hay di chuyển trên không trung bằng cách
**Ngôn ngữ động vật** là hình thức giao tiếp ở động vật không phải của con người nhưng cho thấy sự tương đồng với ngôn ngữ của con người. Động vật giao tiếp với nhau
**Mặt trận giải phóng động vật** (tiếng Anh: **Animal Liberation Front**) viết tắt là **ALF**, là một nhóm hoạt động quốc tế không người lãnh đạo của phong trào giải phóng động vật, tham gia
**Việc thuần hóa động vật** là mối quan hệ, tương tác lẫn nhau giữa động vật với con người có ảnh hưởng đến sự chăm sóc và sinh sản của chúng. Thuần hóa động vật
**Phim về động vật** là thể loại phim có liên quan đến chủ đề, đề tài về các loài động vật, trong đó, các loài động vật có thể là nhân vật chính hoặc không.
**Tín ngưỡng thờ động vật** hay **tục thờ cúng động vật** hay còn gọi **thờ phượng động vật** hay còn gọi đơn giản là **thờ thú** là thuật ngữ đề cập đến các nghi thức
**Động vật trong Phật giáo** chỉ về quan niệm của Phật giáo về các loài động vật, trong đó có lý thuyết về bảo vệ quyền của động vật thông qua quan niệm "_Chúng sinh
**Sự lừa dối ở động vật** (_Deception_) là sự phơi bày, phô diễn những thông tin sai lệch của một con vật sang loài khác (có thể là cùng loài hoặc các loài khác nhau)
nhỏ|phải|Chăm sóc cho ngựa thể hiện tình cảm gắn kết với động vật **Phúc lợi động vật** hay **quyền lợi động vật** (tiếng Anh: _Animal welfare_) theo nghĩa chung nhất là một thuật ngữ đảm
nhỏ|phải|[[Hổ, động vật được biết đến là đã tấn công người rùng rợn trong lịch sử]] **Động vật tấn công** hay đôi khi còn được gọi là **thú dữ tấn công** chỉ về các vụ
nhỏ|phải|Vận chuyển bò bằng xe máy qua biên giới Việt Nam-Campuchia nhỏ|phải|Chuyên chở gia cầm bằng xe máy ở Thành phố Hồ Chí Minh **Vận chuyển động vật** (_Transportation of animals_) hay **vận chuyển vật
**Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản**, tên chính thức trong tiếng Nhật là , là lực lượng vũ trang của Nhật Bản, được thành lập căn cứ Luật Lực lượng phòng vệ năm 1954. Lực
nhỏ|phải|Những con [[Bò tót Tây Ban Nha|bò tót sẽ điên tiết và húc thẳng vào bất cứ thứ gì màu đỏ, đây là một định kiến phổ biến, trên thực tế, bò bị mù màu,
nhỏ|phải|[[Nai sừng xám hay còn gọi là hươu Canada (Cervus _canadensis_), một trong những động vật ăn cỏ phổ biến trên các thảo nguyên đồng bằng ở Canada]] nhỏ|phải|Loài ếch xanh ở Canada **Hệ động
nhỏ|Pork packing in Cincinnati 1873 **Tái chế phụ phẩm động vật** hay **tái chế phụ phẩm giết mổ** là một quá trình chế biến, xử lý mô động vật phụ phẩm từ giết mổ thành
nhỏ|phải|Lửng châu Âu (Meles meles) cũng có chứa những thành phần hóa học khiến chúng có mùi **Phòng vệ hóa học** (_Chemical defense_) là một chiến lược sinh tồn của các sinh vật trong lịch
nhỏ|Thử nghiệm mỹ phẩm trên động vật **Thử nghiệm mỹ phẩm trên động vật** là một loại thử nghiệm trên động vật được sử dụng để kiểm tra độ an toàn và tính chất [https://en.m.wikipedia.org/wiki/Hypoallergenic
**Nghiên cứu động vật** (_Animal studies_) là một lĩnh vực học thuật được công nhận gần đây, trong đó, chủ đề về các loài động vật được nghiên cứu theo nhiều cách khác nhau, nghiên
**Quyền động vật trong các tôn giáo Ấn Độ** là quan điểm, quan niệm, giáo lý, học thuyết của các tôn giáo lớn ở Ấn Độ bao gồm Ấn Độ giáo (Hindu giáo), Phật giáo
**Hệ động vật ở Việt Nam** là tổng thể các quần thể động vật bản địa sinh sống trong lãnh thổ Việt Nam hợp thành hệ động vật của nước này. Việt Nam là nước
nhỏ|phải|Một con [[cá mập Galapagos được móc vào một tàu đánh cá]] **Đau đớn ở động vật** là một trải nghiệm cảm giác sợ hãi gây ra bởi chấn thương thực thể hoặc tiềm năng
nhỏ|phải|Cảnh [[moi ruột của con heo]] **Giết mổ động vật** là việc thực hành giết chết các loại động vật nói chung, thường đề cập đến việc giết mổ gia súc và gia cầm, ước
nhỏ|phải|Loài khỉ Macaque biết sử dụng công cụ đá để đập vỡ vỏ hạt hay vỏ sò, chúng là được nhờ học tập, đó được xem là biểu hiện của cái gọi là văn hóa
nhỏ|phải|[[Hổ là loài vật ăn thịt người nhiều nhất trong họ nhà mèo.]] **Động vật ăn thịt người** dùng để chỉ về những động vật săn bắt và ăn thịt con người như là một
nhỏ|phải|Một cảnh huấn luyện ngựa, huấn luyện ngựa là một trong những nội dung huấn luyện cơ bản của động vật từ thời cổ xưa để buộc những con ngựa phục vụ cho con người
nhỏ|phải|Nai Ấn Độ **Hệ động vật Ấn Độ** phản ánh về các quần thể động vật tại Ấn Độ cấu thành hệ động vật của quốc gia này. Hệ động vật Ấn Độ rất đa
**Chủ nghĩa bảo vệ động vật** (_Animal protectionism_) là một quan điểm trong lý thuyết về quyền động vật, theo đó thuyết này ủng hộ, cổ xúy cho sự thay đổi theo chiều hướng gia
nhỏ|phải|Những con [[hươu sao Nhật Bản ở Công viên Nara ở Nhật Bản, chúng là loài hoang dã nhưng đã được dạy thuần và thường tiếp xúc với con người]] **Động vật dạy thuần** hay
nhỏ|phải|Thịt, có lẽ là một trong những sản phẩm động vật quan trọng bậc nhất đối với con người nhỏ|phải|Kho trữ thịt ở Luân Đôn **Sản phẩm động vật** hay còn gọi là **dẫn xuất
nhỏ|phải|Một con ngựa bị bỏ đói đến mức gầy còm trơ xương **Sự tàn ác đối với động vật** (_Cruelty to animal_) hay còn được gọi là **ngược đãi động vật** là việc cố ý,
**Hệ động vật châu Á** (_Fauna of Asia_) là tổng thể tất cả các loài động vật sinh sống ở châu Á và các vùng biển và đảo xung quanh nó, chúng được coi là
nhỏ|phải|Một con hươu duôi trắng đang đánh hơi để cảm nhận môi trường và tình hình **Đánh hơi** (_Sniffing_) hay **ngửi mùi** là một hành vi liên quan đến nhận thức, được định nghĩa là
**Động vật ăn lá** hay **động vật ăn thảo mộc** (tiếng Latin: Folivore) là các loài động vật ăn cỏ (thực vật) nhưng đã có sự chuyên biệt hoá trong chế độ ăn chủ yếu
nhỏ|[[Bò nhà là một loài động vật được nhắc đến rất nhiều trong Kinh Thánh, chúng là loài chứng kiến cảnh Chúa Giê-su giáng sinh]] nhỏ|phải|Con cừu được nhắc đến trong Kinh thánh như là
nhỏ|phải|[[Linh dương Eland (Taurotragus oryx), loài đặc hữu của thảo nguyên châu Phi]] nhỏ|phải|Sư tử châu Phi, vị vua của thảo nguyên châu Phi và là sinh vật biểu tượng của lục địa này **Hệ
nhỏ|phải|Một cảnh âu yếm với con [[thỏ nuôi]] **Đạo đức với động vật** (tiếng Anh: _animal ethics_) là một nhánh của triết học đạo đức có mục đích xem xét mối quan hệ giữa con
**Nuôi động vật hoang dã** (_Wildlife farming_) hay còn gọi gọn là **nuôi thú rừng** là hoạt động nuôi nhốt động vật với đối tượng là các loài động vật hoang dã chưa thuần hóa
**Lực lượng Phòng vệ Mặt đất Nhật Bản** (tiếng Anh: _Japan Ground Self-Defense Force_, , Hán-Việt: _Lục thượng tự vệ đội_), thường được gọi tắt là **JGSDF** (, Hán-Việt: _Lục tự_), là lực lượng lục
**Dấu vết của động vật** (_Animal track_) hay còn gọi là **dấu chân thú** là bất kỳ các vết tích, dấu vết nào mà con vật đã để lại trong đất, tuyết, bùn, hoặc trên
nhỏ|phải|Bản đồ nhiệt phát ra từ một con nai khi về đêm, nhiệt độ phát ra tự thân của chúng cung cấp năng lượng để hoạt động trong đêm mà không cần phải "ngủ đông"
nhỏ|phải|Một con dê đực cùng lãnh thổ và đàn dê cái của nó Trong tập tính học, **lãnh thổ** là một khu vực thuộc quyền kiểm soát của một cá thể động vật hoặc một
nhỏ|phải|Một con dê đang gặm cỏ **Tập tính ăn** là quá trình mà các sinh vật, thường là động vật tiêu thụ thực phẩm để nuôi dưỡng bản thân thông qua các hành vi, thói
nhỏ|phải|Một con [[bê đang được nuôi nhốt]] **Nuôi nhốt động vật** hay **gây nuôi động vật**, chăm sóc động vật là thuật ngữ chỉ khái quát nhất để mô tả việc nuôi giữ hoặc gây