✨Thuyết nguyên tử

Thuyết nguyên tử

right|thumb|Mô hình lý thuyết của nguyên tử hiện tại gồm một nhân đặc bao quanh bởi một "đám mây" xác suất các hạt electron Trong hóa học và vật lý học, thuyết nguyên tử là một lý thuyết khoa học về bản chất của vật chất, cho rằng vật chất bao gồm các đơn vị rời rạc được gọi là các nguyên tử. Nó bắt đầu như là một khái niệm triết học trong Hy Lạp cổ đại và đi vào xu thế chủ đạo trong những năm đầu thế kỷ 19 khi những khám phá trong lĩnh vực hóa học cho thấy rằng vật chất thực sự hoạt động như thể nó được tạo thành từ các nguyên tử.

Các nguyên tử từ xuất phát từ tính từ atomos trong tiếng Hy Lạp cổ đại, có nghĩa là "không thể chia cắt được". Các nhà hóa học thế kỷ 19 bắt đầu sử dụng thuật ngữ này liên hệ với số lượng ngày càng tăng của các yếu tố hóa học không thể rút gọn. Trong khi dường như thích hợp, khoảng đầu thế kỷ 20, thông qua các thí nghiệm khác nhau với điện từ, phóng xạ, các nhà vật lý đã phát hiện ra rằng cái gọi là "nguyên tử không thể chia cắt được" thực sự là một tập đoàn các hạt dưới nguyên tử khác nhau (chủ yếu là electron, proton và neutron) có thể tồn tại độc lập với nhau. Trong thực tế, trong môi trường khắc nghiệt nhất định, chẳng hạn như ở các ngôi sao neutron, nhiệt độ và áp suất cực cao ngăn cản không cho các nguyên tử tồn tại. Kể từ khi các nguyên tử được tìm thấy có thể phân chia được, các nhà vật lý sau này phát minh ra thuật ngữ "hạt cơ bản" để thay cho cụm từ "không thể chia cắt được", mặc dù không thể phá hủy, các bộ phận của một nguyên tử. Các lĩnh vực khoa học mà nghiên cứu các hạt dưới nguyên tử là vật lý hạt, và chính trong lĩnh vực này mà các nhà vật lý hy vọng sẽ khám phá ra bản chất cơ bản thực sự của vấn đề.

Lịch sử

Nguyên tử luận triết học

Ý tưởng cho rằng vật chất được tạo thành từ các đơn vị rời rạc là một trong những lý thuyết rất cũ, xuất hiện trong nhiều nền văn hóa cổ đại như Hy Lạp và Ấn Độ. Tuy nhiên, những ý tưởng này đã được thiết lập trong lý luận của triết học và thần học hơn là nghiên cứu và thử nghiệm. Bởi vì điều này, họ không thể thuyết phục được tất cả mọi người, vì vậy nguyên tử luận chỉ là một trong một số các lý thuyết cạnh tranh về bản chất của vấn đề. Mãi cho đến thế kỷ 19, các ý tưởng đã được chấp nhận và tinh chế bởi các nhà khoa học, là ngành khoa học nở hóa học sản xuất những khám phá rằng có thể dễ dàng được giải thích bằng cách sử dụng các khái niệm về nguyên tử.

Dalton

thumb|John Dalton Gần cuối thế kỷ 18, hai định luật về phản ứng hóa học nổi lên mà không đề cập đến khái niệm về một lý thuyết nguyên tử. Định luật đầu tiên là định luật bảo toàn khối lượng của Antoine Lavoisier năm 1789, cho rằng tổng khối lượng trong một phản ứng hóa học vẫn không đổi (có nghĩa là, các chất phản ứng có khối lượng tương đương các sản phẩm). Định luật thứ hai là định luật tỷ lệ nhất định. Đầu tiên đã được chứng minh bởi nhà hóa học người Pháp Joseph Louis Proust năm 1799, định luật này cho rằng nếu một hợp chất được chia thành các yếu tố cấu thành của nó, sau đó khối lượng của các thành phần sẽ luôn luôn có các tỷ lệ giống nhau, không phụ thuộc vào số lượng hoặc nguồn chất ban đầu.

John Dalton đã nghiên cứu và mở rộng công trình trước đó và phát triển định luật bội số tỷ lệ: nếu hai yếu tố có thể được kết hợp để tạo thành một số hợp chất khả dĩ, thì các tỷ lệ khối lượng của các yếu tố thứ hai mà kết hợp với một khối lượng nhất định của đầu tiên phần tử sẽ là các tỷ lệ của toàn bộ các số lượng nhỏ. Ví dụ: Proust đã nghiên cứu các oxit thiếc và thấy rằng khối lượng của chúng hoặc là 88,1% thiếc và 11,9% oxy hoặc 78,7% thiếc và 21,3% oxy (đây là những oxit thiếc (II) và dioxide thiếc). Dalton ghi nhận từ các tỷ lệ phần trăm 100g thiếc sẽ kết hợp hoặc với 13.5g hoặc 27g oxy; 13,5 và 27 hình tỷ lệ 1: 2. Dalton thấy rằng một lý thuyết nguyên tử của vật chất có thể giải thích một cách súc tích mô hình phổ biến này trong hóa học. Trong trường hợp của các oxit thiếc của Proust, một nguyên tử thiếc sẽ kết hợp với một hoặc hai nguyên tử oxy.

Dalton cũng tin rằng thuyết nguyên tử cũng có thể giải thích tại sao nước hấp thụ các loại khí khác nhau theo tỷ lệ khác nhau - ví dụ, ông phát hiện rằng nước hấp thụ carbon dioxide tốt hơn nhiều so nó hấp thụ nitơ. Dalton đưa ra giả thuyết này là do sự khác biệt về khối lượng và độ phức tạp của. các hạt tương ứng của các khí. Thật vậy, các phân tử carbon dioxide (CO2) là nặng hơn và lớn hơn so với các phân tử nitơ (N2)

Dalton đề xuất rằng mỗi nguyên tố hóa học bao gồm các nguyên tử loại đơn nhất và duy nhất, và mặc dù chúng không thể bị thay đổi hoặc phá hủy bằng các phương tiện hóa học, chúng có thể kết hợp để tạo thành các cấu trúc phức tạp hơn (các hợp chất hóa học). Điều này đánh dấu sự thuyết thực sự khoa học đầu tiên của nguyên tử, kể từ Dalton đạt kết luận của mình bằng cách thử nghiệm và kiểm tra các kết quả trong một thời trang thực nghiệm.

right|thumb|Các nguyên tử và phân tử khác nhau như mô tả trong một hệ thống mới John Dalton của Triết học Hóa học (1808) Năm 1803 Dalton đã trình bày bằng phát biểu danh sách đầu tiên của ông về khối lượng nguyên tử tương đối cho một số chất. Bài viết này đã được xuất bản vào năm 1805, nhưng ông đã không nói chính xác làm thế nào để ông có được những con số này Điều này, cùng với sự thô sơ của thiết bị ông sử dụng, đã khiến các kết quả của ông bị thiếu sót. Ví dụ, vào năm 1803 ông tin rằng các nguyên tử oxy nặng hơn 5,5 lần so với các nguyên tử hydro, bởi vì trong nước ông đo 5,5 gram oxy cho mỗi 1 gram hydro và tin tưởng rằng công thức đối với nước là HO. Thông qua dữ liệu tốt hơn, trong năm 1806, ông kết luận rằng trọng lượng nguyên tử oxy thực sự phải là 7 chứ không phải là 5,5, và ông giữ trọng lượng này cho phần còn lại của cuộc đời mình. Những người khác lúc này đã kết luận rằng các nguyên tử oxy phải cân nhắc 8 so với hydro bằng 1, nếu một giả định công thức của Dalton cho các phân tử nước (HO), hoặc 16 nếu một giả định công thức nước hiện đại (H2O).

Mẫu hành tinh nguyên tử Rutherford

Năm 1910, nhà vật lý người New Zealand Ernest Rutherford cho rằng các điện tích dương của nguyên tử đã được tìm thấy chủ yếu ở trung tâm của nó, trong hạt nhân và các electron (e-) xoay xung quanh nó.

Rutherford cho thấy điều này khi ông sử dụng một nguồn bức xạ alpha (từ helium) để bắn vào các tấm vàng rất mỏng, được bao bọc bởi một chụp đèn kẽm sulfide tạo ra ánh sáng nhìn thấy được khi bị chiếu xạ tia alpha. Thí nghiệm này được gọi là thí nghiệm Geiger-Marsden hoặc thí nghiệm lá vàng.

Đến giai đoạn này, các yếu tố chính của nguyên tử là rõ ràng, cộng với việc khám phá ra rằng các nguyên tử của một nguyên tố có thể xảy ra trong các đồng vị. Đồng vị khác nhau về số lượng các neutron có trong hạt nhân. Mặc dù mô hình này đã được hiểu rõ, vật lý hiện đại đã phát triển hơn nữa, và những ý tưởng ngày nay không thể được thực hiện dễ dàng để hiểu được.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
right|thumb|Mô hình lý thuyết của nguyên tử hiện tại gồm một nhân đặc bao quanh bởi một "đám mây" xác suất các hạt electron Trong hóa học và vật lý học, **thuyết nguyên tử** là
|} **Nguyên tử** là đơn vị cơ bản của vật chất chứa một hạt nhân ở trung tâm bao quanh bởi đám mây điện tích âm các electron (âm điện tử). Hạt nhân nguyên tử
nhỏ|Hình ảnh minh họa nguyên tử heli. Trong hạt nhân, proton có màu hồng và neutron có màu tía **Hạt nhân nguyên tử** là cấu trúc vật chất đậm đặc chiếm khối lượng chủ yếu
phải|nhỏ|350x350px|[[Electron nguyên tử và các orbital phân tử. Biểu đồ orbital (trái) được sắp xếp theo mức năng lượng tăng dần (xem quy tắc Madelung). Lưu ý rằng các orbital nguyên tử là hàm của
right|thumb|Hình minh họa nguyên tử [[lithium-7: 3 proton, 4 neutron, và 3 electron (electron chiếm ~ khối lượng hạt nhân). Nó có khối lượng là 7,016 **amu**. Đồng vị hiếm Lithium-6 (khối lượng 6.015 **amu**) chỉ có
phải|nhỏ|200x200px|Mô phỏng một nguyên tử hydro cho thấy đường kính bằng xấp xỉ hai lần bán kính [[mô hình Bohr. (Ảnh mang tính minh họa)]] Một **nguyên tử hydro** là một nguyên tử của nguyên
phải|nhỏ|300x300px| Một lời giải thích về các số viết ở trên và ở dưới được thấy trong ký hiệu số nguyên tử. Số nguyên tử là số proton, và do đó cũng là tổng điện
**Lý thuyết thứ tự** là một nhánh trong toán học nghiên cứu thuật ngữ thứ tự bằng cách sử dụng các quan hệ hai ngôi. Nó cho một khung hình thức để có thể mô
nhỏ|[[Nguyên tử heli chứa 2 proton (đỏ), 2 neutron (lục) và 2 electron (vàng).]] Trong khoa học vật lý, các **hạt hạ nguyên tử** (tiếng Anh: _subatomic particle_) là các hạt nhỏ hơn nhiều lần
**Vụ ném bom nguyên tử Hiroshima và Nagasaki** là sự kiện hai quả bom nguyên tử được Quân đội Hoa Kỳ, theo lệnh của Tổng thống Harry S Truman, sử dụng trong Chiến tranh thế
**Nguyên tử heli** là nguyên tử đơn giản nhất kế tiếp sau nguyên tử hydro. Nguyên tử heli được cấu tạo từ hai electron quay quanh một hạt nhân chứa hai proton cùng với một
thumb|right|Sơ đồ của nguyên tử heli, thể hiện mật độ xác suất điện tử minh họa bằng vùng màu xám. **Bán kính nguyên tử** của một nguyên tố hóa học là kích thước nguyên tử
nhỏ|Nguyên tử phản protonic-heliMột **nguyên tử ngoại lai** là một nguyên tử cũng giống như các nguyên tố bình thường khác nhưng trong đó một hoặc nhiều hạt nguyên tử phụ đã được thay thế
**Trường phái nguyên tử ** (tiếng Hy Lạp: ἄτομον, **atomon**, dịch ra tiếng Việt có nghĩa là "không thể cắt được", "không thể chia tách được"") là một trường phái triết học cổ đại. Nó
**Giả thuyết UFO tự nhiên** hay **giả thuyết tự nhiên** cho rằng UFO được diễn giải kém bằng những quan sát về hiện tượng tự nhiên hoặc vật thể có nguồn gốc nhân tạo. ##
**Thuyết lượng tử cũ** là tập hợp của các kết quả nghiên cứu về Cơ học lượng tử trong giai đoạn 1900 - 1925 trước khi Cơ học lượng tử hiện đại ra đời. Lí
**Nguyễn Tư Giản** (阮思僩, 1823–1890), trước có tên: **Văn Phú**, **Địch Giản**, sau mới đổi lại là **Tư Giản**, tự: **Tuân Thúc**(洵叔), **Hy Bật**, hiệu: **Vân Lộc**(雲麓) và **Thạch Nông**(石農). Ông là một danh sĩ
**Nguyễn Tự Cường** (sinh 25 tháng 12 năm 1951) là giáo sư tiến sĩ khoa học, nghiên cứu viên cao cấp tại Viện Toán học Việt Nam, ông được trao giải thưởng Hồ Chí Minh
thumb|upright=1.3|Các [[hàm sóng của electron trong một nguyên tử hydro tại các mức năng lượng khác nhau. Cơ học lượng tử không dự đoán chính xác vị trí của một hạt trong không gian, nó
**Vật lý vật chất ngưng tụ** là một trong các nhánh của vật lý học nghiên cứu các tính chất vật lý trong pha ngưng tụ của vật chất. Các nhà vật lý vật chất
Tác phẩm Một lý thuyết về tự do On Liberty Tác giả John Stuart Mill Biên dịch Phạm Nguyên Trường Chu Hảo hiệu đính Viện IRED phát hành Nhà xuất bản Tổng hợp Một lý
right|thumb|upright=1.15|**Hình 1.** [[Hasse diagram|Biểu đố Hasse của tập hợp các tập con của tập ba phần tử \{x, y, z\}, dưới thứ tự là tập con của. Các tập hợp nối với nhau theo đường
nhỏ|Phân đoạn của macrocosm cho thấy một quả cầu với nguyên tố Đất (terra), Nước (aqua), Khí (aer) và Lửa (ignis), Robert Fludd, 1617 nhỏ| [[Rococo|Bộ Rococo gồm các bức tượng nhân cách hóa của
Một **lý thuyết khoa học** là một cách giải thích một lĩnh vực nào đó của thế giới tự nhiên mà có thể, căn cứ theo phương pháp khoa học, được kiểm nghiệm lặp lại
**Vật lý nguyên tử, phân tử, và quang học (atomic, molecular, and optical physics - AMO)** là môn khoa học nghiên cứu về tương tác vật chất-vật chất và tương tác ánh sáng-vật chất; ở
**Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam** (tiếng Anh: _Vietnam Atomic Energy Institute_, viết tắt VINATOM, tiền thân là Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt) là tổ chức sự nghiệp khoa học hạng đặc
**Số lượng tử xung lượng** là một số lượng tử mô tả hình dạng mật độ phân bố của electron trong nguyên tử. Các hàm sóng của electron được đưa ra bởi lý thuyết của
**Nguyễn Tự Tân** (1848-1885) là Phó quản lực lượng hương binh trong phong trào Cần Vương tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam. ## Tiểu sử **Nguyễn Tự Tân** sinh ra trong một gia đình khá giả
**Số lượng tử chính** là một số lượng tử, chủ yếu thể hiện mức năng lượng của electron trong nguyên tử. Mô hình nguyên tử Bohr chỉ miêu tả được trạng thái năng lượng thấp
**Niels Henrik David Bohr** (; 7 tháng 10 năm 1885 – 18 tháng 11 năm 1962) là nhà vật lý học người Đan Mạch với những đóng góp nền tảng về lý thuyết cấu trúc
thế=Groups of two to twelve dots, showing that the composite numbers of dots (4, 6, 8, 9, 10, and 12) can be arranged into rectangles but the prime numbers cannot|nhỏ| Hợp số có thể được
**Lịch sử của thuyết tương đối hẹp** bao gồm rất nhiều kết quả lý thuyết và thực nghiệm do nhiều nhà bác học khám phá như Albert Abraham Michelson, Hendrik Lorentz, Henri Poincaré và nhiều
[[Phương trình nổi tiếng của Einstein dựng tại Berlin năm 2006.]] **Thuyết tương đối** miêu tả cấu trúc của không gian và thời gian trong một thực thể thống nhất là không thời gian cũng
Trong vật lý học, **thuyết tương đối hẹp** (**SR**, hay còn gọi là **thuyết tương đối đặc biệt** hoặc **STR**) là một lý thuyết vật lý đã được xác nhận bằng thực nghiệm và chấp
Mô phỏng dựa theo thuyết tương đối rộng về chuyển động quỹ đạo xoáy tròn và hợp nhất của hai hố đen tương tự với sự kiện [[GW150914. Minh họa hai mặt cầu đen tương
**Tiểu thuyết** (chữ Hán: 小說) là một thể loại văn xuôi có hư cấu, thông qua nhân vật, hoàn cảnh, sự việc để phản ánh bức tranh xã hội rộng lớn và những vấn đề
Thí nghiệm kiểm tra lý thuyết tương đối tổng quát đạt độ chính xác cao nhờ tàu thăm dò không gian [[Cassini–Huygens|Cassini (ảnh minh họa): Các tín hiệu radio được gửi đi giữa Trái Đất
**Lịch sử tư tưởng kinh tế** là lịch sử của các nhà tư tưởng và học thuyết kinh tế chính trị và kinh tế học từ thời cổ đại đến ngày nay. Lịch sử tư
nhỏ|Lý thuyết biểu diễn nghiên cứu cách các cấu trúc đại số "biến đổi" các đối tượng toán học. Ví dụ đơn giản nhất là cách [[Nhóm nhị diện|nhóm đối xứng của các đa giác
**Tự Lực văn đoàn** (chữ Hán: , tiếng Pháp: ) là tổ chức văn học mang tính hội đoàn, một nhóm nhà văn đã tạo nên một trường phái văn học, một phong trào cách
**Nguyễn Văn Tường** (chữ Hán: 阮文祥; 1824–1886), là đại thần phụ chính của nhà Nguyễn. ## Tên họ và thi cử Ông xuất thân từ một gia đình lao động nghèo thuộc làng An Cư,
Trong vật lý lý thuyết, **Lý thuyết trường lượng tử** (tiếng Anh: **quantum field theory**, thường viết tắt QFT) là một khuôn khổ lý thuyết để xây dựng các mô hình cơ học lượng tử
**Thuyết nhị nguyên**, hay **nhị nguyên luận**, là một học thuyết triết học thừa nhận sự tồn tại độc lập của hai thực thể. Có nhiều dạng nhị nguyên, một trong số đó là thuyết
**Chủ nghĩa tự do** là một hệ tư tưởng, quan điểm triết học, và truyền thống chính trị dựa trên các giá trị về tự do và bình đẳng. Chủ nghĩa tự do có nguồn
**_Một chín tám tư_** (tiếng Anh: **_Nineteen Eighty-Four_**) là tên một tiểu thuyết dystopia (phản địa đàng) phát hành năm 1949 của nhà văn người Anh George Orwell. Kể từ khi ra đời vào năm
**Bệnh tự kỷ (tiếng Anh là Autism)** là sự rối loạn phức tạp trong quá trình phát triển tự nhiên của con người. Có rất nhiều nguyên nhân của bệnh được đưa ra nhưng nguyên
Trong hóa học **lý thuyết liên kết hóa trị** (tiếng Anh: VB, _Valence Bond_) là một trong hai lý thuyết cơ bản, cùng với lý thuyết quỹ đạo phân tử (MO, _Molecular Orbital_) được phát
**_Sói Thảo Nguyên_** (tựa gốc ) là cuốn tiểu thuyết thứ mười của tác giả người Thụy Sĩ gốc Đức Hermann Hesse. Sách được xuất bản lần đầu tiên ở Đức vào năm 1927 và
Từ trường của một thanh [[nam châm hình trụ.]] **Từ trường** là môi trường năng lượng đặc biệt sinh ra quanh các điện tích chuyển động hoặc do sự biến thiên của điện trường hoặc
**Chủ nghĩa tự do cá nhân** hay **chủ nghĩa tự do ý chí** (tiếng Anh: _libertarianism_, từ tiếng Latinh: _liber_, tự do) là học thuyết triết học chính trị ủng hộ tự do như là