✨Ngụy Văn hầu

Ngụy Văn hầu

Ngụy Văn hầu (chữ Hán: 魏文侯; trị vì: 403 TCN - 387 TCN hoặc 403 TCN-396 TCN), tên thật là Ngụy Tư (魏斯), là vị quân chủ khai quốc của nước Ngụy - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.

Thân thế

Ngụy Tư là cháu nội của Ngụy Hoàn tử, tức Ngụy Câu. Vốn họ Ngụy là quan khanh ở nước Tấn, đến đời của Hoàn tử hợp sức với hai nhà Hàn, Triệu diệt họ Trí, trở nên ngày càng hùng mạnh, không còn lệ thuộc vào vua Tấn nữa. Năm thứ 6 đời Tấn Ai công, tức 446 TCN, Ngụy Hoàn tử chết, Ngụy Tư thế tập làm thủ lĩnh họ Ngụy.

Niên đại

Sử sách đề cập không thống nhất về niên đại của Ngụy Văn hầu. Theo Sử ký Tư Mã Thiên, năm đầu khi ông lên kế tục dòng họ Ngụy là năm 424 TCN, trong khi các sử gia hiện đại xác định là năm 446 TCN.

Năm ông được Chu Uy Liệt vương phong làm chư hầu, chính thức được gọi là "vua Ngụy" được thống nhất là năm 403 TCN.

Năm ông mất, Sử ký ghi là năm thứ 38, tức là 387 TCN, các sử gia hiện đại lại xác định năm ông mất là 397 TCN – trước đó 10 năm. Như vậy Sử ký xác nhận niên đại Ngụy Văn hầu (3 mốc: bắt đầu ở gia tộc Ngụy – phong chư hầu – mất): là 446 TCN – 403 TCN – 387 TCN; còn các sử gia hiện đại xác định là 424 TCN – 403 TCN – 397 TCN; từ năm 396 được coi là năm đầu của Ngụy Vũ hầu.

Chiêu hiền đãi sĩ

Ngụy Tư chú trọng thu dụng hiền tài để chấn hưng họ Ngụy. Năm đó Ngụy Tư nghe có người học trò của Khổng Tử là Tử Hạ, dạy học ở Tây Hà, bèn tự mình đến gặp bái làm thầy. Tử Hạ bị lòng chân thành của Ngụy Tư làm cảm động, nên đồng ý theo giúp Ngụy. Tử Hạ khuyên Ngụy Tư chú tâm phát triển kinh tế, lo cho nhân dân, học theo cái đạo Nghiêu Thuấn thời xưa. Ngụy Tư đối với Tử Hà hết lòng cung kính. Sau đó nghe tiếng người tài là Điền Tử Phương, bèn tự thân đến mới, khi Tử Phương đến, Văn hầu cho đãi yến tiệc, lễ nhạc linh đình, Điền Tử Phương thấy thế cười lớn, Ngụy Tư hỏi nguyên do, Tử Phương đáp:

Làm vua mà không lấy đại tâm mà xem xét cái đạo lý của người xưa, không biết dùng trí mà trị nước, mà chỉ ngồi đây nghe âm nhạc, thần thường nghĩ vua như thế làm sao mà trị nước được.

Ngụy Tư nghe lời Tử Phương, bảo con là thái tử Kích theo học Điền Tử Phương.

Ngụy Tư lại nghe nói Đoàn Cam Mộc ở Tây Hà là người trí tuệ uyên thâm, bèn tự mình đến Tây Hà bái yết, Cam Mộc có ý tránh mặt, bèn ở lại, ngày nào cũng xin vào gặp, không dám ngồi trong xe nữa, Đoàn Cam Mộc cảm động, cũng theo giúp nước Ngụy. Các hiền sĩ thấy Ngụy Tư trọng đãi người hiền, bèn đua nhau đến Ngụy.

Nước Tần xuất binh đánh Ngụy, Đoàn Cam Mộc đích thân ra thuyết vua Tần, nước Tần chẳng mấy chốc lui binh.

Sau đó Ngụy Tư trọng dụng người hiền tài là Lý Khôi, phong làm tướng quốc ban hành cải cách làm cho nước Ngụy phát triển lớn mạnh.

Giữa chiến tranh Hàn, Triệu

Bấy giờ hai đất Hàn, Triệu phát sinh chiến tranh, quân Hàn sai sứ đến cầu cứu Ngụy Tư, đánh họ Triệu. Văn hầu đáp: "Quả nhân với Triệu hầu tình thân tựa thủ túc, nên không thể giúp quý quốc được."

Đến khi sứ nước Triệu đến, Ngụy Tư cũng nói như thế. Hai nước không ai được Ngụy giúp, đành phải cùng lui binh. Đời sau vẫn khen Ngụy Văn hầu biết khéo dùng lời lẽ phân giải mà giúp hai nước tránh được chiến tranh.

Chiếm Hà Tây

Đất Hà Tây nằm ở ranh giới Tần, Ngụy, là vùng đất chiến lược quan trọng, là con đường để đi vào Trung Nguyên. Thấy nước Tần suy yếu, Ngụy Tư lại dòm ngó đến đất Hà Tây. Quân Ngụy liên tục tấn công vào lãnh thổ nước Tần, trong khi đó Tần chỉ bị động phòng thủ. Đến năm 408 TCN, quân Ngụy chiếm được Hà Tây, Ngụy Văn hầu thấy Ngô Khởi giỏi dùng binh, thanh liêm công bằng, được lòng quân sĩ, nên cho làm quan thú Tây Hà để chống lại nước Tần và nước Hàn.

Diệt Trung Sơn

Năm 410 TCN, Ngụy Văn hầu muốn đánh nước Trung Sơn, bèn sai sứ đến xin nước Triệu hợp sức. Triệu Liệt hầu định từ chối, nhưng đại thần Triệu Khắc khuyên nên giúp vì nghĩ rằng Trung Sơn ở gần Triệu hơn, nếu Ngụy không chiếm được thì binh lực suy yếu sẽ có lợi cho Triệu, còn chiếm được thì cũng khó giữ, bởi đất Trung Sơn quá xa, do đó Trung Sơn sẽ về tay Triệu chứ không phải về Ngụy.

Vua Triệu nghe lời. Ngụy Văn hầu theo lời Địch Hoàng, cử Nhạc Dương làm tướng đánh Trung Sơn. Nguyên con trưởng Nhạc Dương là Nhạc Thư đang ở Trung Sơn, nên khi Địch Hoàng tiến cử, các quan đều phản đối, nói Nhạc Dương đến Trung Sơn sẽ thương con mà đầu hàng. Địch Hoàng lấy gia tộc ra bảo đảm, Ngụy Tư mới đồng ý cho Nhạc Dương đánh Trung Sơn.

Nhạc Dương bao vây Trung Sơn đến ba năm, Trung Sơn Vũ công sai giết Nhạc Thư rồi đem thịt cho Nhạc Dương ăn, vậy mà Nhạc Dương vẫn ăn thịt con, sau đó xuất binh tổng tấn công Trung Sơn và diệt nước này.

Nhạc Dương đem quân hồi triều, Văn hầu bèn phong cho đất Linh Thọ, nhưng không dùng nữa, rồi cho con là Ngụy Kích trấn giữ Trung Sơn.

Được phong chư hầu

Năm 424 TCN, Ngụy Tư xưng hầu, tức Ngụy Văn hầu. Năm 422 TCN, Tấn U công ra ngoài thông dâm với đàn bà nhà dân, bị kẻ trộm trong ấp giết chết. Ngụy Tư mang quân trấn dẹp bọn cướp và lập con U công là Cơ Chỉ lên nối ngôi, tức là Tấn Liệt công. Năm 405 TCN, Ngụy và Hàn, Triệu xin Chu thiên tử phong cho mình làm chư hầu.

Năm 403 TCN, Chu Uy Liệt Vương chính thức thừa nhận Ngụy Văn cùng Hàn Cảnh hầu, Triệu Liệt hầu làm chư hầu ngang hàng với vua Tấn. Từ đó trên lãnh thổ nước Tấn cũ có 4 nước cùng tồn tại là Tấn, Hàn, Triệu, Ngụy.

Qua đời

Năm 396 TCN, Ngụy Văn hầu bệnh nặng, gọi Ngô Khởi và Tây Môn Báo về phó thác thái tử. Sau đó Văn hầu qua đời, thái tử Kích nối ngôi, tức Ngụy Vũ hầu.

Gia đình

Cha: Ngụy Hoàn tử (Ngụy Câu) Anh em: *Ngụy Thành (Ngụy Thành tử) Con cái Ngụy Vũ hầu Trung Sơn quân Ngụy Chí Công tử Khuynh (公子倾), con gái (nhắc đến trong Trung Sơn sách, chương 1) Công thúc Toạ

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ngụy Văn hầu** (chữ Hán: 魏文侯; trị vì: 403 TCN - 387 TCN hoặc 403 TCN-396 TCN), tên thật là **Ngụy Tư** (魏斯), là vị quân chủ khai quốc của nước Ngụy - chư hầu
**Ngụy Vũ hầu** (chữ Hán: 魏武侯; trị vì: 395 TCN - 370 TCN), là vị vua thứ hai của nước Ngụy - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông tên thật là
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
**Tây Ngụy Văn Đế** (西魏文帝) (507–551), tên húy là **Nguyên Bảo Cự** (元寶炬), là một hoàng đế của triều đại Tây Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Năm 534, Nguyên Bảo Cự, khi đó là
**Bắc Ngụy Văn Thành Đế** (chữ Hán: 北魏文成帝; 440–465), tên húy là **Thác Bạt Tuấn** (), là hoàng đế thứ năm của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông đăng cơ sau
**Văn Hầu** (chữ Hán: 文侯) là thụy hiệu của một số vị quân chủ và quan lại tướng lĩnh. ## Danh sách * Thương Ân Tây Bá Văn hầu Cơ Xương (sau ly khai tự
**Uất Cửu Lư hoàng hậu** (chữ Hán: 郁久閭皇后, 525–540), thụy hiệu **Điệu hoàng hậu** (悼皇后) là hoàng hậu thứ hai của Tây Ngụy Văn Đế trong lịch sử Trung Quốc. ## Hoàng hậu Phụ thân
**Lý quý nhân** (chữ Hán: 李贵人; ? - 456), là phi tần của Bắc Ngụy Văn Thành Đế, hoàng đế Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Bà là sinh mẫu của Bắc Ngụy Hiến
nhỏ|phải|Ngụy quốc
([[triện thư, 220 TCN)]] **Ngụy** (Phồn thể: 魏國; Giản thể: 魏国) là một quốc gia chư hầu trong thời kỳ Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Lãnh thổ của quốc gia này hiện
**Chiến tranh Ngụy-Trung Sơn** hay **Trận Ngụy diệt Trung Sơn** (chữ Hán: 魏滅中山之戰, Hán Việt: _Ngụy diệt Trung Sơn chi chiến_), là cuộc chiến tranh diễn ra từ năm 408 TCN đến năm 406 TCN
**Tần Huệ Văn hậu** (chữ Hán: 秦惠文后, ? - 305 TCN) là một Vương hậu nước Tần thời Chiến Quốc, chính thất của Tần Huệ Văn vương, mẹ đẻ của Tần Vũ vương. ## Tiểu
**Ngụy vương Giả** (chữ Hán: 魏王假, trị vì: 227 TCN – 225 TCN), tên thật là **Ngụy Giả** (魏假), là vị vua thứ tám và là vua cuối cùng nước Ngụy - chư hầu thời
**Hàn Văn hầu** (chữ Hán: 韩文侯; trị vì: 386 TCN – 377 TCN), tên thật là **Hàn Du** (韓猷) hay **Hàn Sơn Bích** (寒山碧), là vị vua thứ ba của nước Hàn - chư hầu
**Nhà Bắc Ngụy** (tiếng Trung: 北魏朝, bính âm: běi wèi cháo, 386–535), còn gọi là **Thác Bạt Ngụy** (拓拔魏), **Hậu Ngụy** (後魏) hay **Nguyên Ngụy** (元魏), là một triều đại thời Nam Bắc triều trong
**Vũ Văn Thái** () (507 – 556), biệt danh là **Hắc Thát** (黑獺), tước hiệu là **An Định Văn công** (安定文公) sau được nhà Bắc Chu truy tôn là miếu hiệu Thái Tổ (太祖), thụy
**Bắc Tề Văn Tuyên Đế** (北齊文宣帝) (526–559), tên húy là **Cao Dương** (高洋), tên tự **Tử Tiến** (子進), miếu hiệu là Hiển Tổ, là vị hoàng đế khai quốc của triều đại Bắc Tề trong
**Bắc Ngụy Đạo Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏道武帝; 371–409), tên húy là **Thác Bạt Khuê** (拓拔珪), tên lúc sinh là **Thác Bạt Thiệp Khuê** (拓拔渉珪), là hoàng đế khai quốc của triều đại Bắc Ngụy
**Bắc Ngụy Thái Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏太武帝; 408 – 11 tháng 3, 452), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông thường được nhìn nhận
**Hậu chấn tâm lý** hay **rối loạn căng thẳng sau sang chấn/chấn thương** (tiếng Anh: **_p**ost-**t**raumatic **s**tress **d**isorder_ – PTSD) là một rối loạn tâm thần có thể phát triển sau khi một người tiếp
**Ngụy Huệ Thành vương** (chữ Hán: 魏惠成王; trị vì: 369 TCN - 319 TCN) hay 369 TCN - 335 TCN) còn gọi là **Ngụy Huệ vương** (魏惠王) hay **Lương Huệ vương** (梁惠王), tên thật là
**Hạ Hầu Mậu** (chữ Hán: 夏侯楙; bính âm: Xihou Mao), tự **Tử Lâm**, là một vị tướng lĩnh và quan chức của nhà Tào Ngụy trong thời kỳ Tam Quốc của lịch sử Trung Quốc.
**Hồ thái hậu** (chữ Hán: 胡太后, ? - 17 tháng 5, năm 528), còn thường gọi là **Linh thái hậu** (靈太后), một phi tần của Bắc Ngụy Tuyên Vũ Đế, và Hoàng thái hậu nhiếp
**Ất Phất hoàng hậu** (chữ Hán: 乙弗皇后) (510–540), thụy hiệu: **Văn hoàng hậu** (文皇后) là hoàng hậu thứ nhất của Tây Ngụy Văn Đế (西魏文帝) Nguyên Bảo Cự (元寶炬) trong lịch sử Trung Quốc. ##
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
**Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 皇太后; Kana: こうたいごうKōtaigō; Hangul: 황태후Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Dowager Empress_, _Empress Dowager_ hay _Empress Mother_), thường được gọi tắt là **Thái hậu** (太后), là một tước vị được quy
**Minh Nguyên hoàng hậu** (chữ Hán: 明元皇后; ? - 263), họ Quách, là Hoàng hậu thứ hai của Tào Ngụy Minh Đế Tào Duệ, và là Hoàng thái hậu dưới thời Tào Ngụy Phế Đế
**Hiếu Văn Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文竇皇后; 205 - 135 TCN), còn gọi là **Đậu Thái hậu** (竇太后), kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị duy nhất của Hán Văn Đế Lưu Hằng,
**Hạ Hầu Thượng** (chữ Hán: 夏侯尚, ? – 226) là tướng lãnh, sủng thần nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Xuất thân Thượng tự Bá Nhân, là cháu họ
**Hạ Hầu Bá** (; ? – 259?), tự **Trọng Quyền** (仲權), là tướng lĩnh Tào Ngụy và Quý Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Phục vụ Tào Ngụy Hạ Hầu Bá
**Vương Minh** (chữ Hán: 王盟, ? – 545), tự **Tử Ngỗ**, người quận Lạc Lãng, tướng lãnh nhà Tây Ngụy. Ông là cậu của Vũ Văn Thái – quyền thần nhà Tây Ngụy. ## Thân
**Hiếu Cảnh Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝景王皇后; 178 - 126 TCN), thường gọi **Hiếu Cảnh Thái hậu** (孝景太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Cảnh Đế Lưu Khải. Bà là sinh mẫu của
**Văn Sính** (chữ Hán:文聘, bính âm: Wen Ping) tự **Trọng Nghiệp** (仲業) là một tướng lĩnh thủy quân nhà Tào Ngụy trong thời kỳ Tam Quốc của Lịch sử Trung Quốc. Ông phục vụ dưới
**Thái Vũ Hách Liên Hoàng hậu** (chữ Hán: 太武赫連皇后; ? - 453) là Hoàng hậu duy nhất của Bắc Ngụy Thái Vũ Đế, hoàng đế Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Sinh thời bà
**Vũ Văn hoàng hậu** (chữ Hán: 宇文皇后) (? - 554?) là hoàng hậu của Tây Ngụy Phế Đế (西魏廢帝) Nguyên Khâm (元欽) trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Phụ thân bà là Thượng
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Lý Mậu** (chữ Hán: 李茂, 432 – 502), tên tự là **Trọng Tông**, người huyện Địch Đạo, quận Lũng Tây , quan viên nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc.
**Vương Kiến** (chữ Hán: 王建, ? - ?), người huyện Quảng Ninh, quan viên nhà Bắc Ngụy. Ông hoạt động chủ yếu trong giai đoạn hậu kỳ của thời Thập Lục Quốc, đã từng kiến
**Vương Túc** (chữ Hán: 王肃, 464 - 501), tên tự là **Cung Ý**, người Lâm Nghi, Lang Tà , đại thần, tướng lĩnh, ngoại thích nhà Bắc Ngụy. ## Thân thế Vương Túc là hậu
**Ngụy Phế Đế Chân Hoàng hậu** (chữ Hán: 魏廢帝甄皇后; ? - 22 tháng 8, 251), là Hoàng hậu của Tào Ngụy Phế Đế Tào Phương thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu
**Hạ Hầu Huyền** (chữ Hán: 夏侯玄; 209-254), biểu tự **Thái Sơ** (泰初 hay 太初), là một quan viên Tào Ngụy thời Tam Quốc. Hạ Hầu Huyền là một trong những lãnh tụ đầu tiên của
**Vương Mậu** (chữ Hán: 王懋, ? – ?), tự **Tiểu Hưng**, người quận Lạc Lãng, tướng lãnh nhà Tây Ngụy. Ông là em họ bên ngoại (biểu đệ) của quyền thần Vũ Văn Thái. ##
**Hạ Hầu Uy** (; 201? – 249?), tên tự là **Quý Quyền** (季權), là quan viên Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Hạ Hầu Uy là người huyện
**Văn Tử** (chữ Hán: 文子) là thụy hiệu của một số vị vua chư hầu và khanh đại phu thời Xuân Thu Chiến Quốc và những nhân vật quan trọng khác đời sau trong lịch
**Dương Quân** (chữ Hán: 杨钧, ? - 524), người Hoa Âm, Hoằng Nông , quan viên nhà Bắc Ngụy. ## Thân thế Quân là thành viên của sĩ tộc họ Dương ở quận Hoằng Nông.
**Đông Ngụy** (tiếng Trung: 東魏) là triều đại xuất hiện sau khi có sự tan rã của Nhà nước Bắc Ngụy và cai trị vùng lãnh thổ Bắc Trung Quốc từ năm 534 tới năm
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Ngụy Tương vương** (chữ Hán: 魏襄王, trị vì: 318 TCN – 296 TCN), hay **Ngụy Tương Ai vương**, tên thật là **Ngụy Tự** (魏嗣) hay **Ngụy Hách** (魏赫), là vị vua thứ tư của nước
Di vật đèn thuyền [[Văn hóa Đông Sơn- sản phẩm của nền Văn minh lúa nước]] **Văn minh lúa nước** là một dạng văn minh nông nghiệp, xuất hiện cách đây khoảng 13.000 năm tại
**Ngụy Chiêu vương** (chữ Hán: 魏昭王, trị vì: 295 TCN – 277 TCN), tên thật là **Ngụy Sắc** (魏遫) hay **Ngụy Chính**, là vị vua thứ năm nước Ngụy - chư hầu nhà Chu thời
**_Lục Vân Tiên_** (chữ Nôm: 蓼雲仙) là một tác phẩm truyện thơ Nôm của Nguyễn Đình Chiểu, được sáng tác theo thể lục bát vào đầu những năm 50 của thế kỷ 19. Đây là