✨Sơn Tây

Sơn Tây

Sơn Tây (, ; bính âm bưu chính: Shansi) là một tỉnh ở phía bắc của Trung Quốc. Năm 2018, Sơn Tây là tỉnh đứng thứ mười tám về số dân, đứng thứ hai mươi hai về kinh tế Trung Quốc với 37 triệu dân, tương đương với Canada và GDP đạt 1.682 tỉ NDT (254,2 tỉ USD) tương ứng với Việt Nam.

Giản xưng của Sơn Tây là "Tấn" (晋), theo tên của nước Tấn tồn tại trong thời kỳ Tây Chu và Xuân Thu. Tên gọi Sơn Tây có nghĩa là "phía tây núi", ý đề cập đến vị trí của tỉnh ở phía tây của Thái Hành Sơn. Sơn Tây giáp Hà Bắc về phía đông, Hà Nam về phía nam, Thiểm Tây về phía tây và Nội Mông về phía bắc. Tỉnh lỵ của Sơn Tây là thành phố Thái Nguyên.

Lịch sử

Từ thời cổ đến Tiên Tần

Sơn Tây được xem là một trong những phát địa của dân tộc Trung Hoa, có lịch sử thành văn trong ba nghìn năm. Các di chỉ văn hóa Tây Hà Độ và văn hóa Đinh Thôn thể hiện rằng ngay từ thời đại đồ đá cũ, loài người đã có nhiều hoạt động sinh hoạt trên địa bàn Sơn Tây ngày nay. Trong truyền thuyết, Sơn Tây là khu vực hoạt động chủ yếu của Hoàng Đế thủy tổ của tộc Hoa Bắc và Viêm Đế- thủy tổ của dân tộc Bách Việt. Ba vị vua thời thượng cổ nổi tiếng của Trung Quốc là Nghiêu, Thuấn, Vũ đều kiến đô lập nghiệp trên đất Sơn Tây: kinh đô của Nghiêu nằm ở Bình Dương (nay thuộc Lâm Phần), kinh đô của Thuấn nằm ở Bồ Bản (nay thuộc Vĩnh Tế), kinh đô của Vũ nằm ở An Ấp (nay thuộc huyện Hạ)., Khúc Ốc , Giáng (còn gọi là Dực), Tân Giáng (nguyên gọi là Tân Điền) Đầu thời Đông Chu, hai chi trưởng – thứ nước Tấn tại đất Dực và đất Khúc Ốc đã nổ ra chiến tranh giành ngôi vị quân chủ. Chiến tranh kéo dài gần 100 năm, trải qua 4 thế hệ mới kết thúc bằng thắng lợi của chi thứ Khúc Ốc với kết quả 5 vua Tấn ngành trưởng bị giết. Các khanh tộc tại nước Tấn về sau tiến hành tranh chấp quyền lực với nhau, lấn át cả vua Tấn. Năm 453 TCN, trong trận Tấn Dương, ba Nhà Triệu, Hàn, Ngụy hợp binh đánh bại quân họ Trí, ba nhà này sau đó cùng chia đất của họ Trí và nắm quyền nước Tấn. Nước Tấn sau đó hình thành cục diện bị chia ba, đến năm 403 TCN thì nước Tấn diệt vong, đây cũng là mốc thời gian mà nhiều học giả nhận định là khởi đầu thời kỳ Chiến Quốc, cũng vì nguyên do này mà Sơn Tây còn được gọi là "Tam Tấn".

Thời Chiến Quốc, nước Triệu đặt kinh đô tại Tấn Dương, nước Hàn đặt kinh đô tại Bình Dương, nước Ngụy trong thời gian 403 TCN-361 TCN đặt đô thành tại An Ấp Sau trung kỳ Chiến Quốc, kinh đô của Triệu và Ngụy phân biệt di dời đến địa phận Hà Bắc và Hà Nam ngày nay.

Thời Tần, Hán đến Nam-Bắc triều

Sau khi thống nhất Trung Quốc, Tần Thủy Hoàng phân thiên hạ thành 49 quận, ban đầu trên địa bàn Sơn Tây có Thái Nguyên quận và Thượng Đảng quận, về sau phân tách thành 5 quận: Nhạn Môn quận, Đại quận, Thái Nguyên quận, Thượng Đảng quận, Hà Đông quận. Trong những năm Nguyên Phong thời Hán Vũ Đế, triều Hán thiết lập Tịnh châu thứ sử bộ trên địa phận Sơn Tây. Đến thời Hán Quang Vũ Đế, người Hung Nô tiến gần hơn vào Trung Nguyên, nuôi ngựa trên Lã Lương Sơn (呂梁山) và lưu vực Phần Hà. Thời Đông Hán, Tịnh châu được phân thành 9 quận: Thái Nguyên, Thượng Đảng, Tây Hà, Vân Trung, Định Tương, Nhạn Môn, Sóc Phương, Ngũ Nguyên, đến những năm cuối Đông Hán thì được nhập vào Ký châu.

Năm 216, Tào Tháo phân người Hung Nô ở Sơn Tây ngày nay thành 5 bộ: Tịnh châu Tư thị (tại Phần Dương ngày nay) là tả bộ, Kì (tại huyện Kỳ ngày nay) là hữu bộ, Bồ Tử (tại huyện Thấp ngày nay) là nam bộ, Tân Hưng (tại Hãn Châu ngày nay) là bắc bộ, Đại Lăng (tại Văn Thủy ngày nay) là trung bộ, nhân khẩu đạt vài trăm nghìn người. Ngoài ra, trên địa bàn Sơn Tây còn có người Yết ở Vũ Hương, bộ lạc Thát Bạt của người Tiên Ti cư trú tại huyện đại và Đại Đồng. Năm 220, Tào Ngụy thiết lập Tịnh châu trên địa phận Sơn Tây, chia làm 6 quận: Thái Nguyên, Thượng Đảng, Tây Hà, Nhạn Môn, Nhạc Bình, Tân Hưng. nhỏ|phải|[[Hang đá Vân Cương tại Đại Đồng, được tạc từ thời Bắc Ngụy]] Đến thời Tây Tấn, Sơn Tây thuộc về Tịnh châu: Thượng Đảng quận, Thượng Cốc quận. Sau khi triều Tấn suy yếu do loạn bát vương, vào năm 304, thủ lĩnh Hung Nô là Lưu Uyên đã lập quốc, đặt quốc hiệu là Hán, định đô tại Li Thạch, năm 305, sau một nạn đói, ông dời đô đến Lê Đình Sau đó, khu vực Sơn Tây trước sau thuộc nước Hậu Triệu của tộc Yết, nước Nhiễm Ngụy của tộc Hán, nước Tiền Yên của người Tiên Ti, nước Tiền Tần của tộc Đê, nước Hậu Tần của tộc Khương. Do chiến loại trong thời Ngũ Hồ thập lục quốc, kinh tế Sơn Tây bị phá hoại nghiêm trọng.

Thác Bạt Khuê đã lập ra Bắc Ngụy vào năm 386, hai năm sau, để gần hơn về mặt địa lý với các lãnh thổ mới chinh phục được, ông đã thiên đô Bắc Ngụy đến Bình Thành. Bắc Ngụy sau đó thống nhất phương bắc Trung Quốc, mở ra thời kỳ Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Sau đó, đến năm 534, Bắc Ngụy phân liệt thành Đông Ngụy và Tây Ngụy. Thực quyền Đông Ngụy nằm trong tay đại tướng Cao Hoan. Năm 543, nhà Đông Ngụy cho đắp thêm Trường thành tại Sơn Tây dài 150 dặm. Năm 550, con của Cao Hoan là Cao Dương tiếm vị Đông Ngụy, lập ra Bắc Tề, cha con Cao Hoan lấy Tấn Dương làm biệt đô. Thực quyền Tây Ngụy nằm trong tay Vũ Văn Thái, đến năm 557 thì hậu duệ của Vũ Văn Thái là Vũ Văn Giác cũng tiếm vị Tây Ngụy, lập ra Bắc Chu. Thời Bắc Ngụy, Phật giáo lần đầu tiên có được sự hưng thịnh tại Trung Quốc, có tới ba vạn chùa viện, tăng ni lên đến 200 vạn, nhà sư Pháp Hiển bắt đầu chuyến đi huyền thoại tới Ấn Độ của ông từ Sơn Tây. Việc xây đục hang đá Vân Cương đã được hoàn thành trong khoảng thời gian 453-495.

Từ thời Tùy đến Kim

nhỏ|phải|Tháp Thích Ca của chùa Phật Cung ở huyện [[Ứng (huyện)|Ứng, được Liêu Đạo Tông cho xây vào năm 1056]] Thời Tùy, Sơn Tây thuộc về Ký châu, có vị thế quan trọng về mặt kinh tế. Tháng 9 năm 617, Lý Uyên từ nơi khởi binh tại Thái Nguyên đã vượt qua Hoàng Hà, đến tháng 11 thì công chiếm kinh đô Trường An. Năm 618, Lý Uyên lập nên triều Đường, bảy năm sau thì thống nhất toàn Trung Quốc. Triều đình Nhà Đường có thái độ trọng thị với Sơn Tây, xem đây là đất "Long Hưng", định Thái Nguyên làm Bắc Đô, kinh tế của Sơn Tây cũng đứng vào hàng đầu tại Trung Quốc. Khi đó, toàn Đại Đường có 18 hồ muối, vùng Hà Đông có 5 hồ, một hồ sản xuất được cả vạn hộc muối, cung cấp cho kinh thành, được Liễu Tông Nguyên gọi là "quốc chi đại bảo". Thời Đường, xuất hiện nhiều danh nhân là người Sơn Tây, như Tiết Nhân Quý, Võ Tắc Thiên, Địch Nhân Kiệt. Trong thời Tùy Đường, Phật giáo hưng thịnh, Ngũ Đài sơn tại Hãn châu từ thời gian đó đã là một thánh địa của Phật giáo Trung Quốc.

Đến thời Ngũ Đại Thập Quốc, Lý Tồn Úc, Thạch Kính Đường và Lưu Trí Viễn lần lượt thành lập các triều đại Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Thái Nguyên khi đó là một nơi trọng yếu. Em trai của Lưu Trí Viễn là Lưu Mân đã lập ra nước Bắc Hán tại bắc bộ và trung bộ Sơn Tây, nước này nằm kẹp giữa Hậu Chu về phía nam và Đại Liêu của người Khiết Đan ở phía bắc, được Liêu bảo hộ.

Sau khi triều Tống được thành lập, nước Bắc Hán ỷ thế có người Khiết Đan chống lưng ở phương Bắc, tiến hành đối kháng với Tống. Năm 979, Tống Thái Tông Triệu Khuông Nghĩa thống lĩnh đại quân diệt nước Bắc Hán, phóng hỏa thiêu hủy thành Tấn Dương. Năm 982, triều Tống phái đại tướng Phan Mỹ (潘美) xây thành mới tại khu vực Thái Nguyên ngày nay. Đầu thời Bắc Tống, Sơn Tây thuộc Hà Đông lộ, lại khôi phục cảnh phồn vinh. Thái Nguyên sản xuất ra gương đồng và kéo đồng, được xuất đi tiêu thụ ở các địa phương khác. Sau thời Tống Chân Tông, tại Sơn Tây người ta cũng bắt đầu sử dụng than đá làm nhiên liệu.

Sau sự biến Tĩnh Khang năm 1125-1127, Sơn Tây chuyển sang thuộc quyền cai quản của triều Kim, quân Kim đã tàn phá nghiêm trọng nền kinh tế phương Bắc Trung Quốc. Do Sơn Tây có Thái Hành Sơn làm chướng ngại tự nhiên, khói lửa chiến tranh gây cho Sơn Tây thiệt hại nhỏ hơn các địa phương khác. Kinh tế và văn hóa Sơn Tây phát triển trong thời Đại Định chi trị dưới sự cai trị của Kim Thế Tông và thời Minh Xương chi trị dưới sự cai trị của Kim Chương Tông. Bình Dương phủ (nay là Lâm Phần) trở thành trung tâm sản xuất giấy của Kim Quốc.

Thời Nguyên, Minh, Thanh

nhỏ|phải|Tường thành [[Bình Dao, được xây vào năm 1370 thời Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương]] Khi đế quốc Mông Cổ xâm lược Hà đông bắc lộ và Hà đông nam lộ của Kim, họ đã tàn phá Sơn Tây, cả nghìn lý không có bóng người. Trong thời Nguyên, Sơn Tây thuộc Trung thư tỉnh, chịu sự quản lý trực tiếp của triều đình. Năm 1271, triều Nguyên thành lập Hà Đông Sơn Tây đạo tuyên úy ti tại khu vực phía đông Hoàng Hà, phía tây của Thái Hành Sơn, danh xưng Sơn Tây từ đó cũng bắt đầu được sử dụng.

Năm 1368, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương phái Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân suất lĩnh quân Minh tiến vào Sơn Tây, thiết lập Sơn Tây hành tỉnh. Chu Nguyên Chương sau này phong cho ba nhi tử làm phiên vương, trú trát tại Sơn Tây: Chu Vi là Tấn vương, trú tại Thái Nguyên; Chu Quế là Đại vương, trú tại Đại Đồng; Chu Mô là Thẩm vương, trú tại Lộ An (Trường Trị), xây dựng Minh Trường Thành để phòng bị Bắc Nguyên xâm lược. Đầu thời Minh, có một lượng lớn di dân từ Sơn Tây đến vùng bình nguyên Hoa Bắc- vùng mà khi ấy đang vắng bóng người. Đại hòe thụ ở Hồng Động trở thành một địa điểm tập hợp nổi tiếng, đến nay cư dân các tỉnh vẫn lưu truyền ngạn ngữ: "Nếu hỏi tổ tiên đến từ xứ nào? Đại hòe thụ ở Hồng Động, Thiểm Tây". Triều Minh sau đó đã thiết lập Sơn Tây thừa tuyên bố chính sứ ti, tiền thân của Sơn Tây ngày nay. Thời Minh, thương nhân Sơn Tây kiểm soát phần lớn việc buôn bán muối và dịch vụ ngân hàng trong cả nước.

Đến thời Nhà Thanh, triều đình đã đem một số khu vực ở bên ngoài Minh Trường Thành để nhập vào Sơn Tây. Sơn Tây tổng cộng có 9 phủ, 16 châu, 108 huyện. Thời gian này, ngành thương mại và tài chính của Sơn Tây hoạt động rất tích cực, xuất hiện văn danh "Sơn Tây phiếu hiệu" trên quy mô toàn quốc. Thương nhân Sơn Tây lập ra nhiều Sơn Tây hội quán hoặc Sơn Thiểm hội quán trên khắp Trung Quốc. Thời Thanh, Sơn Tây ít chịu ảnh hưởng của ngoại quốc, song một vài cơ sở sản xuất đã được thành lập tại Thái Nguyên vào năm 1898, và một tuyến đường sắt bằng vốn Pháp-Thanh đã được xây dựng từ năm 1904 đến 1907 để kết nối Thái Nguyên và Thạch Gia Trang ở tỉnh Hà Bắc ngày nay. Năm 1900, tổ chức bài ngoại Nghĩa Hòa đoàn đã đốt cháy một nhà thờ truyền giáo Anh tại Thái Nguyên, sau đó giết chết những người ngoại quốc và người Trung Quốc cải đạo theo Tây giáo. Điều này đã khiến phong trào Nghĩa Hòa Đoàn bùng nổ, cuối cùng lan đến Bắc Kinh. trong đó có 32.000 người Trung Quốc theo Tây giáo.

Sau năm 1911

nhỏ|phải|[[Diêm Tích Sơn, quân phiệt cát cứ tại Sơn Tây từ 1911-1949]] nhỏ|phải|Giải phóng quân tiến vào Thái Nguyên tháng 4 năm 1949 Trong Cách mạng Tân Hợi, quân phiệt Diêm Tích Sơn tại Thiểm Tây đã chỉ huy lực lượng cách mạng địa phương đánh đuổi quân Thanh khỏi tỉnh, rồi tuyên bố độc lập khỏi triều Thanh. Diêm Tích Sơn sau đó được chính phủ Trung Hoa Dân Quốc bổ nhiệm chức Sơn Tây đô đốc, ông ủng hộ Viên Thế Khải xưng đế, vì thế được phong làm "nhất đẳng hầu". Năm 1917, không lâu sau khi Viên Thế Khải chết, Diêm Tích Sơn củng cố quyền thống trị Sơn Tây. Cho tới năm 1911, Sơn Tây là một trong những tỉnh nghèo nhất Trung Hoa. Diêm Tích Sơn tin rằng, nếu không hiện đại hóa kinh tế cũng như cơ sở hạ tầng, Sơn Tây sẽ không chống nổi các quân phiệt từ các nơi khác.

Ngày 18 tháng 12 năm 1931, một nhóm sinh viên tại Thái Nguyên tập hợp phản đối chính sách nhân nhượng Nhật Bản của chính phủ Nam Kinh. Cuộc biểu tình trở nên bạo lực đến nỗi cảnh sát Quốc dân đảng đã nổ súng vào đám đông. Sự kiện "Thảm sát 18/12" gây ra một làn sóng giận dữ, tạo điều kiện cho các thuộc hạ của Diêm Tích Sơn thừa cơ trục xuất các viên chức Quốc dân đảng khỏi tỉnh, viện cớ là để đảm bảo an ninh. Sau vụ này, tổ chức Quốc dân đảng tại Sơn Tây chỉ còn trên danh nghĩa, trung thành với Diêm Tích Sơn còn hơn cả với Tưởng Giới Thạch. Năm 1934, Tưởng Giới Thạch đi máy bay đến Thái Nguyên, tại đó ông ta ca ngợi chính quyền của Diêm Tích Sơn có công giúp đỡ, ủng hộ Chính phủ Nam Kinh, trên thực tế là thừa nhận quyền thống trị Sơn Tây của Diêm Tích Sơn.

Quan hệ tài chính giữa Sơn Tây và chính phủ trung ương rất phức tạp. Diêm Tích Sơn đã tạo ra được một tổ hợp công nghiệp nặng xung quanh Thái Nguyên, nhưng không công khai ra bên ngoài Sơn Tây, có lẽ là để đánh lừa Tưởng Giới Thạch. Dù đạt được những thành công nhất định trong công cuộc hiện đại hóa nền công nghiệp Sơn Tây, Diêm Tích Sơn vẫn liên tiếp yêu cầu chính phủ trung ương hỗ trợ tài chính để dùng mở rộng đường sắt và những việc khác, nhưng đều bị từ chối.

Năm 1916, ít nhất 10% trong số 11 triệu dân Sơn Tây nghiện thuốc phiện, điều này khiến Diêm Tích Sơn quyết định phải tiêu diệt nạn thuốc phiện sau khi lên nắm quyền. Trước tiên, Diêm Tích Sơn xử lý bọn buôn thuốc phiện và những người nghiện nặng, đưa những người nghiện nặng vào tù và đưa họ và gia đình họ ra trước công chúng để làm nhục. Rất nhiều người bị kết án đã chết vì bị cắt cơn đột ngột. Sau năm 1922, một phần do sự phản đối của công chúng, Diêm Tích Sơn từ bỏ chính sách trừng phạt, chuyển sang chính sách phục hồi nhân phẩm cho người nghiện, thông qua gia đình họ mà buộc họ phải bỏ thuốc phiện, và xây dựng các trại cai nghiện cho mục đích này.

Tháng 2 năm 1936, dưới sự chỉ huy của Lưu Chí Đan và Từ Hải Đông, 34.000 quân Cộng sản đã xâm nhập vào tây nam Sơn Tây. Những người Cộng sản có được sự ủng hộ phổ biến của người dân, và, mặc dù họ ít hơn và được vũ trang kém, song đã thành công trong việc chiếm một phần ba phía nam của Sơn Tây trong vòng chưa đầy một tháng. Những người Cộng sản ở Sơn Tây đã hợp tác thông tin với các nông dân địa phương để né tránh và dễ dàng xác định vị trí các lực lượng của Diêm Tích Sơn. Khi quân chính phủ Trung ương được phái đến chi viện, quân Cộng sản buộc phải rút khỏi Sơn Tây, sau đó lực lượng Quốc Dân đảng vẫn còn ở Sơn Tây thể hiện sự thù địch với quyền cai trị của Diêm Tích Sơn, nhưng không ảnh hưởng đến quyền cai quản của ông.

Năm 1936, quân Nhật và lực lượng Mông Cương đã xâm lược khu vực do Diêm Tích Sơn kiểm soát, gián điệp Nhật Bản đã phá hủy một kho hậu cần lớn ở Đại Đồng và thực hiện các hành vi phá hoại khác. Trong chiến tranh Trung-Nhật (1937-1935), hầu hết Sơn Tây đã nhanh chóng bị người Nhật tàn phá. Sau khi để mất thủ phủ Thái Nguyên, Diêm Tích Sơn di chuyển trụ sở của mình đến một nơi ẩn náu biệt lập ở Lâm Phần, chống lại nỗ lực kiểm soát hoàn toàn Sơn Tây của Nhật Bản. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, quân của Diêm Tích Sơn (bao gồm cả quân Nhật cũ) đã tổ chức chống lại những người Cộng sản trong cuộc nội chiến Trung Quốc kéo dài trong bốn năm. Đến tháng 4 năm 1949, chính phủ Quốc dân để mất quyền kiểm soát miền Bắc Trung Quốc, quân cộng sản bao vây lực lượng của Diêm Tích Sơn. Sau chiến thắng trong chiến dịch Thái Nguyên, lực lượng cộng sản đã hoàn toàn kiểm soát Sơn Tây.

Sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập, Sơn Tây nằm trong các kế hoạch "Tiểu tam tuyến kiến thiết" và "Chi viện nội địa", kinh tế xã hội vì thế từng có thời điểm đã phát triển một cách nhanh chóng. Trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa, tại Sơn Tây đã tiến hành xây dựng chủ nghĩa tập thể, trong đó nổi bật là mô hình kinh tế tập thể chủ nghĩa tại thôn Đại Trại, Mao Trạch Đông từng ban ra lời hiệu triệu "Nông nghiệp học Đại Trại". Sau cải cách kinh tế, kinh tế Sơn Tây chuyển từ phụ thuộc vào nguồn tài nguyên than đá phong phú dưới lòng đất sang dùng than đá để phát triển điện lực, than hóa học. Bước sang thế kỷ XXI, Sơn Tây đang nỗ lực tiến hành chuyển đổi mô hình kinh tế từ tập trung vào các ngành sử dụng nhiều tài nguyên sang phát triển công nghệ cao, các ngành công nghiệp có giá trị cao, và đã đạt được một số thành công.

Địa lý

nhỏ|phải|Cảnh quan [[hoàng thổ tại Hồn Nguyên]] nhỏ|phải|[[Thác Hồ Khẩu trên Hoàng Hà, thuộc ranh giới giữa Nghi Xuyên (Thiểm Tây) và Cát (Sơn Tây)]] nhỏ|phải|[[Ngũ Đài sơn|Ngũ Đài Sơn, nơi có đỉnh cao nhất Hoa Bắc, đồng thời là một thánh địa của Phật giáo Trung Quốc]] Sơn Tây nằm ở trung bộ lưu vực Hoàng Hà, ở phía tây của Thái Hành Sơn, có tọa độ giới hạn từ 34°34′-40°43′ vĩ Bắc và 110°14′—114°33′ kinh Đông. Lãnh thổ Sơn Tây có hình bình hành kéo dài từ đông bắc đến tây nam, với diện tích là khoảng 156.700 km², chiếm 1,6% tổng diện tích Trung Quốc, dài khoảng 682 km theo chiều bắc-nam, rộng khoảng 385 km theo chiều đông-tây. Thái Hành Sơn ngăn cách Sơn Tây với Hà Bắc ở phía đông; ở phía tây thì Hoàng Hà ngăn cách Sơn Tây với Thiểm Tây; nam và đông nam của Sơn Tây là Hà Nam; phía bắc Sơn Tây là khu tự trị Nội Mông.

Địa thế điển hình của Sơn Tây là lớp đất hoàng thổ bao trùm các cao nguyên sơn địa, bị giới hạn bởi Ngũ Đài Sơn và Hằng Sơn ở phía bắc, Thái Hành Sơn ở phía đông, Lã Lương Sơn ở phía tây. Địa thế của Sơn Tây nói chung là cao ở đông bắc, thấp ở tây nam. Vùng cao nguyên trong tỉnh nhấp nhô chứ không bằng phẳng, có các thung lũng sông dọc ngang. Địa mạo của Sơn Tây phức tạp và đa dạng: núi non, gò đồi, đài địa, bình nguyên, nhìn chung là núi nhiều sông ít, trong đó vùng núi non và gò đồi chiếm 80,1% diện tích của tỉnh, vùng đồng bằng và thung lũng sông chiếm 19,9% diện tích của tỉnh. Phần lớn Thiểm Tây có cao độ trên 1.500 mét so với mực nước biển, điểm cao nhất là đỉnh chính Hiệp Đầu của Ngũ Đài Sơn với cao độ 3061,1 mét trên mực nước biển, cũng là đỉnh cao nhất vùng Hoa Bắc. Bồn địa thung lũng lớn nhất Sơn Tây là bồn địa Thái Nguyên kéo dài 160 km. Ở phía bắc Thái Nguyên có ba bồn địa riêng biệt, chúng đều là các khu vực canh tác, bồn địa Đại Đồng nằm xa hơn về phía bắc.

Sơn Tây có trên 1.000 sông lớn nhỏ, thuộc hai hệ thống sông lớn là Hoàng Hà và Hải Hà. Trong đó, con sông lớn thứ hai tại Trung Quốc- Hoàng Hà chảy từ bắc xuống nam dọc theo một hẻm núi ở ranh giới phía tây giữa Sơn Tây và Thiểm Tây, ở Phong Lăng Độ (風陵渡), Hoàng Hà chuyển hướng tây-đông và tạo thành một đoạn ranh giới giữa Sơn Tây và Hà Nam, tổng chiều dài Hoàng Hà tại Sơn Tây là 968 km. Ngoài Hoàng Hà ra, Sơn Tây có 5 sông có diện tích lưu vực trên 10.000 km², có 48 sông có diện tích lưu vực từ 1.000 km² đến 10.000 km², có 397 sông có diện tích lưu vực từ 100 km² đến 1.000 km².

Sơn Tây nằm ở vùng có vĩ độ trung bình ở nội lục, thuộc vùng khí hậu bán khô hạn hoặc khí hậu lục địa. Do ảnh hưởng từ các nhân tố bức xạ Mặt Trời, hoàn lưu gió mùa và vị trí địa lý, khí hậu Sơn Tây có đủ bốn mùa phân biệt, mưa nhiệt cùng lúc, ánh nắng đầy đủ, có sự khác biệt khí hậu đáng kể giữa nam và bắc, có sự chênh lệch nhiệt độ lớn giữa mùa đông và mùa hè, ngoài ra giữa ngày và đêm cũng có sự chênh lệch nhiệt độ lớn. Nhiệt độ bình quân năm của các địa phương tại Sơn Tây biến đổi từ 4,2-14,2 °C,

Các cộng đồng thiểu số tại Sơn Tây bao gồm người Hồi ở khu vực Thái Nguyên-Du Thứ, và một số người Mông Cổ và người Mãn sinh sống quanh Đại Đồng. Cư dân Sơn Tây tập trung đông đúc tại bồn địa Thái Nguyên, khu vực đông nam quanh Trường Trị và thung lũng Phần Hà.

Các đơn vị hành chính

Tỉnh Sơn Tây được chia ra 11 đơn vị cấp địa khu, tất cả đều là địa cấp thị:

11 đơn vị cấp địa khu này được chia ra 119 các đơn vị cấp huyện (23 quận, 11 thành phố cấp huyện, và 85 huyện). Các đơn vị này lại được chia ra làm 1388 các đơn vị cấp hương (561 trấn, 634 hương, và 193 phó quận).

Kinh tế

nhỏ|phải|Nhà máy nhiệt điện dùng than đá tại Sóc Châu Do xảy ra hiện tượng xói mòn trên phạm vi rộng, chỉ một phần ba diện tích Sơn Tây là đất canh tác. Sau khi thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đã có những nỗ lực nhằm bảo toàn đất và nước trên quy mô rộng lớn, tạo ra loại ruộng bậc thang, trồng cây gây rừng, đào kênh mương thủy lợi, đắp bờ các mảnh đất canh tác, khử mặn, và cải tạo đất ven sông. Ở cực bắc của tỉnh, mùa sinh trưởng của cây trồng rất ngắn chỉ với 120 ngày, mùa đông lạnh và kéo dài khiến cho chỉ canh tác được một vụ kê có bông, lùa mì xuân, yến mạch trần, khoai tây và vừng mỗi năm. Ở phần còn lại của tỉnh, ngoại trừ các khu vực đồi núi, mùa sinh trưởng kéo dài hơn (210 ngày), cho phép canh tác ba vụ hai năm hoặc hai vụ một năm. Một số thuốc lá và lạc cũng như cây ăn quả được trồng tại các vùng bồn địa trung bộ và đồng bằng ven Hoàng Hà. Năm 2011, đầu tư cho "tam nông" tại Sơn Tây đạt 65 tỷ NDT, tổng sản lượng lương thực đạt 11.930.000 tấn.

Trên địa bàn Sơn Tây đã phát hiện được hơn 120 loại khoáng sản, trong đó đã xác minh được trữ lượng của 70 loại. Vào năm 2011, trữ lượng than đá của Sơn Tây đạt 267,379 tỷ tấn, chiếm 20% tổng trữ lượng than đá của Trung Quốc. Các chủng loại khoáng sản có trữ lượng đứng vào hàng đầu toàn quốc của Sơn Tây là: khí vỉa than, bô xít, perlite, gali, zeolit, rutile, muối magnesi, mirabilite, feldspat kali, ilmenite, đá vôi, feldspat, thạch cao, coban, đồng và các loại khác.

Theo hạch toán sơ bộ, tổng GDP của Sơn Tây vào năm 2011 là 1.110,02 tỷ NDT, tăng trưởng 13% so với năm trước. Trong đó, khu vực một đạt giá trị 64,14 tỷ NDT, khu vực hai đạt giá trị 657,78 tỷ NDT, khu vực ba đạt giá trị 388,09 tỉ NDT. Trong năm, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Sơn Tây là 14,76 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 9,33 tỷ USD và kim ngạch nhập khẩu đạt 5,43 tỷ USD.

Ngành công nghiệp của Sơn Tây dựa trên cơ sở nguồn tài nguyên than đá phong phú, tập trung vào phát triển các ngành công nghiệp nặng tại Thái Nguyên-Tấn Trung. Ngành gang thép sản xuất ra thép thỏi, gang thỏi, và các sản phẩm thép hoàn chỉnh. Ngoài ra Sơn Tây còn có các ngành cơ cấu hạng nặng, hóa chất công nghiệp, phân bón hóa học, như xi măng, giấy, dệt may, xay bột, và rượu. Các trung tâm khai mỏ và gang thép khác bao gồm Dương Tuyền, Trường Trị, Đại Đồng và Lâm Phần. Từ thập niên 1980, Sơn Tây cũng phát triển mạnh mẽ các ngành điện tử, dệt may, chế biến thực phẩm, nhựa gia dụng. Các sản phẩm đặc sản của địa phương phải kể đến như Phần tửu (汾酒), một loại rượu mùi làm từ lúa miến của thôn Hạnh Hoa.

Văn hóa

Ẩm thực Sơn Tây được biến đến nhiều nhất với đặc điểm sử dụng rộng rãi các loại giấm địa phương làm gia vị và với các món mì. Một món ăn bắt nguồn từ Thái Nguyên có tên là Thái Nguyên đầu não (太原头脑), món canh này nấu với các nguyên liệu gồm thịt cừu, sơn dược, rễ sen, hoàng kì, hành củ, cũng như rượu để thêm mùi vị, thưởng thức bằng cách nhúng những chiếc bánh không có men vào canh, và được cho là có thể chữa bệnh. Không kể việc sử dụng thịt lợn và thịt gà, một trong những loại thịt phổ biến nhất ở Sơn Tây là thịt cừu non, cũng như một số bộ phận khác trong cơ thể của dê hoặc cừu. Chẳng hạn, súp thịt cừu thường được nấu với gan, dạ dày, và một số các cơ quan khác của cừu.

Tấn kịch (晋剧) là một thể loại hí khúc phổ biến tại Sơn Tây. Loại hình nghệ thuật này được đại chúng hóa trong thời gian cuối thời Nhà Thanh, với sự trợ giúp của các thương nhân Sơn Tây-những người mà khi ấy hoạt động trên khắp Trung Quốc. Cũng được gọi là Trung lộ bang tử (中路梆子), nó là một loại hình bang tử(梆子), một nhóm các loại hình nhạc kịch thường được phân biệt bằng việc sử dụng sinh tiền để tạo ra nhịp và bởi một phong cách hát mạnh mẽ hơn; Tấn kịch cũng được bổ sung bằng khúc tử (曲子), một thuật ngữ chung để chỉ các loại nhạc kịch du dương hơn ở xa về phía nam. Bồ kịch (蒲剧), bắt nguồn từ nam bộ Sơn Tây, là một thể loại bang tử cổ xưa hơn, sử dụng âm trình rất rộng.

Tấn thương (晋商), tức các thương nhân Sơn Tây đã tạo thành một hiện tượng lịch sử kéo dài trong nhiều thế kỷ từ thời Tống đến thời Thanh, Các thương nhân Sơn Tây có phạm vi hoạt động xa và rộng kéo dài từ Trung Á đến vùng bờ biển phía đông Tung Quốc. Thời Thanh, các thương nhân Sơn Tây kiểm soát giao thương cả hai phía của Trường Thành. Đến cuối thời Thanh, một sự phát triển mới lại xuất hiện: việc tạo ra phiếu hiệu (票号), mà về bản chất cung cấp các dịch vụ như chuyển tiền, giao dịch, tiền gửi và vay mượn giống như ngân hàng. Sau khi phiếu hiệu đầu tiên được thành lập tại Bình Dao, các chủ hiệu Sơn Tây đã thống trị thị trường tài chính Trung Quốc trong hàng thế kỷ cho đến khi triều Thanh sụp đổ và các ngân hàng Anh xuất hiện.

Du lịch

nhỏ|phải|Phố chợ Bình Dao

  • Thành cổ Bình Dao là một di sản thế giới nằm ở huyện cùng tên thuộc Tấn Trung, cách thủ phủ Thái Nguyên 80 km. Nơi đây từng là một trung tâm tài chính lớn của Trung Quốc, nổi danh với việc còn bảo tồn được nhiều đặc điểm văn hóa, kiến trúc và lối sống Hán từ thời Minh-Thanh.
  • Hang đá Vân Cương, hang đá nhân tạo nông nằm gần Đại Đồng. Có trên 50.000 hình và tượng Phật và Bồ Tát được trạm khắc bên trong các hang động, cao từ 4 cm đến 7 mét và cũng là một di sản thế giới.
  • Ngũ Đài Sơn có điểm cao nhất của Sơn Tây. Nó được biết đến như là nơi cư trú của Văn Thù Bồ Tát, và vì thế cũng là một điểm hành hương Phật giáo lớn, với nhiều chùa và cảnh đẹp tự nhiên. Các điểm đáng chú ý bao gồm các chính điện làm bằng gỗ có niên đại từ thời Đường của chùa Nam Thiền và chùa Phật Quang, cũng như Đại Bạch tháp tại chùa Tháp Viện được xây dựng từ thời Minh.
  • Hằng Sơn, tại Hồn Nguyên, là một trong "Ngũ Lạc" của Trung Quốc, và cũng là một địa điểm tâm linh chính của Đạo giáo. Không xa Hằng Sơn là chùa Huyền Không nằm trên vách đá và đã tồn tại trong suốt 1400 bất chấp các trận động đất đã từng xảy ra trong khu vực.
  • Phật Cung tự Thích Ca tháp, nằm ở huyện Ứng, là một ngôi tháp được xây dựng vào năm 1056 dưới thời Liêu. Tháp có hình bát giác với chín tầng (từ ngoài có thể nhận thấy là có năm tầng), và cao 67 m (220 ft), là tháp gỗ cao nhất trên thế giới. Đây cũng là tháp hoàn toàn bằng gỗ cổ nhất còn tồn tại ở Trung Quốc.
  • Thác Hồ Khẩu nằm trên dòng chính của Hoàng Hà trên ranh giới giữa Sơn Tây và Thiểm Tây. Với độ cao 50 mét, nó là tháp cao thứ hai tại Trung Quốc.
  • Đại Trại là một thôn tại huyện Tích Dương. Thôn nằm trên địa hình đồi núi, khó khăn, song là một điểm linh thiêng trong Cách mạng Văn hóa, khi nó trở thành gương mẫu cho toàn thể dân tộc về sức mạnh của giai cấp vô sản, đặc biệt là nông dân. *Nương Tử Quan nằm ở đông bắc của huyện Bình Định, thuộc ranh giới giữa Sơn Tây và Hà Bắc, là một quan ải trứ danh của Vạn Lý Trường Thành, thôn Nương Tử Quan là một thôn cổ nổi tiếng.
  • Sơn Tây cũng từng là vùng căn cứ địa cách mạng của Đảng Cộng sản Trung Quốc, các di tích nổi tiếng là tổng bộ Bát lộ quân, công xưởng binh khí Bát lộ quân động Hoàng Nhai ở Lê Thành, nhà kỉ niệm Lưu Hồ Lan ở Văn Thủy.

Giao thông

nhỏ|phải|Đường phố ở Vận Thành Sơn Tây có các sân bay dân dụng: sân bay Vương Thôn Trường Trị, sân bay Vân Cương Đại Đồng, sân bay Kiều Lý Lâm Phần, sân bay Lã Lương, sân bay quốc tế Vũ Túc Thái Nguyên, sân bay Ngũ Đài Sơn, sân bay Quan Công Vận Thành. Trong năm 2011, các sân bay dân dụng của Sơn Tây đã khởi hành 76.300 chuyến bay, vận chuyển được 7.260.000 lượt khách và 44.500 tấn hàng hóa. Sân bay quốc tế Vũ Túc Thái Nguyên có 85 đường bay nối đến 54 thành phố.

Sơn Tây phụ thuộc nhiều vào vận tải đường sắt, loại hình vận tải này đóng vai trò quan trọng trong việc vận chuyển nguyên liệu, hàng hóa công nghiệp và thực phẩm trong và liên tỉnh. Tuyến đường sắt dài nhất của Sơn Tây là đường sắt Đồng-Bồ, chạy từ Đại Đồng ở cực bắc xuống đến Phong Lăng Độ ở tây nam (giao giới giữa Sơn Tây-Thiểm Tây-Hà Nam). Có nhiều tuyến đường sắt khác chạy ngang qua Sơn Tây, quan trọng nhất là tuyến đường sắt Kinh-Bao, ngoài ra còn có nhiều tuyến nhánh được xây dựng trong thời gian gần đây để kết nối các tuyến đường sắt chính với các điểm công nghiệp và khai mỏ. Năm 2011, tổng lý trình đường sắt hoạt động của Sơn Tây là 3773,7 km.

Sơn Tây đã mở rộng các tuyến đường cao tốc, đường dài và đường mọi thời tiết, đặc biệt là tại hay gần các đô thị lớn và các khu khai mỏ, nhiều tuyến đường đóng vai trò là tuyến trung chuyển đến mạng lưới đường sắt. Năm 2011, tổng lý trình công lộ thông xe của Sơn Tây là 135.000 km, trong đó có 4.005 km công lộ cao tốc. Từ Thái Nguyên đến các địa cấp thị khác chỉ mất có ba giờ nếu đi theo đường cao tốc, 82% số huyện/thị/khu có đường cao tốc chạy qua. Năm 2011, hệ thống công lộ của Sơn Tây đã thực hiện vận chuyển 652 triệu tấn hàng hóa và 329 triệu lượt người.

Các thuyền đáy bằng nhỏ có thể thông hành trên Phần Hà, xa đến Lâm Phần về phía bắc. Tuy nhiên, việc vận chuyển hàng hóa trên Phần Hà, cũng như đoạn chảy theo hướng bắc-nam của Hoàng Hà, là không đáng kể.

Các trường đại học và cao đẳng

nhỏ|phải|Tượng Mao Trạch Đông tại [[Đại học Sơn Tây]] Các trường đại học và cao đẳng lớn ở Sơn Tây:

  • Đại học Sơn Tây (山西大学)
  • Đại học Trung Bắc (中北大学)
  • Đại học Công nghệ Thái Nguyên (太原理工大学)
  • Đại học Kinh tế Tài chính Sơn Tây (山西财经大学)
  • Đại học Y khoa Sơn Tây (山西医科大学)
  • Đại học Khoa học Công nghệ Thái Nguyên (太原科技大学)
  • Đại học Công nghiệp Thái Nguyên (太原工业学院)
  • Đại học Sư phạm Thái Nguyên (太原师范学院)
  • Học viên Trung y Sơn Tây (山西中医学院)
  • Đại học Sư phạm Sơn Tây (山西师范大学)
  • Đại học Nông nghiệp Sơn Tây (山西农业大学)
  • Học viện Y Trường Trị (长治医学院)
  • Học viện Trường Trị (长治学院)
  • Học viện Vận Thành (运城学院)
  • Đại học Đại Đồng Sơn Tây (山西大同大学)
  • Học viện Tấn Trung (晋中学院)
  • Học viện Khoa học Công nghệ Hoa Bắc (华北工学院)
  • Học viện Sư phạm Hãn Châu (忻州师范学院)

Tất cả các trường trên trực thuộc quản lý của chính quyền tỉnh Sơn Tây

👁️ 5 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Sơn Tây** (, ; bính âm bưu chính: _Shansi_) là một tỉnh ở phía bắc của Trung Quốc. Năm 2018, Sơn Tây là tỉnh đứng thứ mười tám về số dân, đứng thứ hai mươi
nhỏ|Toàn cảnh thành cổ Sơn Tây nhìn từ trên cao (không ảnh) năm 2022.|303x303px nhỏ|Thành Sơn Tây, tháng 4 năm 1884, một trong 4 thành trong [[Thăng Long tứ trấn|303x303px]] nhỏ|Bản vẽ thành Sơn Tây
**Sơn Tây** là một thị xã thuộc thành phố Hà Nội, Việt Nam. Thị xã nguyên là thành phố Sơn Tây trực thuộc tỉnh Hà Tây. Đây là thị xã trực thuộc thành phố đầu
**Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân tỉnh Sơn Tây** (Tiếng Trung Quốc: **山西省人民政府省长**, Bính âm Hán ngữ: _Shān Xī xǐng Rénmín Zhèngfǔ Shěng zhǎng,_ Từ Hán - Việt: _Sơn Tây tỉnh Nhân dân Chính phủ
**Thái Nguyên** () là tỉnh lỵ của tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc. Thái Nguyên được mệnh danh là "cửu triều cổ đô", Thái Nguyên là một trong những thành thị có số hạng mục di
**Danh sách các đơn vị hành chính Sơn Tây** bao gồm các thông tin về sự phân cấp hành chính tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc thành các đơn vị cấp địa khu, cấp huyện. Tỉnh
**Đại Đồng** (tiếng Trung: 大同市) là một địa cấp thị tại tỉnh Sơn Tây, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Dân số 3,11 triệu người. Thành phố được lập với tên là Bình Thành vào
**Diêm Tích Sơn** () (8 tháng 10, 1883 – 22 tháng 7, 1960) là một quân phiệt Trung Hoa phục vụ trong Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc. Diêm Tích Sơn kiểm soát tỉnh Sơn
**Trận Sơn Tây (1883)**, là trận đánh mà quân đội viễn chinh Pháp tấn công vào thành cổ Sơn Tây, diễn ra từ ngày 13 tháng 12 năm 1883, kết thúc vào tối ngày 16
nhỏ|230x230px|Xứ Đoài (màu hồng) ở phía tây Thăng Long **Sơn Tây** thường gọi là **Xứ Đoài** là vùng đất cổ của người Việt, một trong bốn trọng Trấn ở phía tây thành Thăng Long xưa
**Chính phủ tự trị Bắc Sơn Tây** (còn gọi là **Chính phủ tự trị Tấn Bắc**; ; Hepburn: _Susumu kita jichi seifu_) là một chính phủ tự trị hành chính của Mông Cương từ khi
**Vụ đột kích Sơn Tây**, mật danh của quân đội Mỹ là **_chiến dịch Bờ Biển Ngà_** (tiếng Anh: _Operation Ivory Coast_), là cuộc tập kích của quân đội Mỹ bằng máy bay trực thăng
#Son_tẩy_tế_bào_chết_và_dưỡng_ẩm_cho_môi_coco_scrubbie.1.Công năng tẩy da chết cho môi dịu nhẹ và dưỡng ẩm môi toàn diện.Làm sạch môi, nhẹ nhàng tẩy đi lớp tế bào chết, mang lại vẻ mềm mại, căng mượt vốn có của
1.Công năng tẩy da chết cho môi dịu nhẹ và dưỡng ẩm môi toàn diện.Làm sạch môi, nhẹ nhàng tẩy đi lớp tế bào chết, mang lại vẻ mềm mại, căng mượt vốn có của
MÔ TẢ SẢN PHẨMĐánh giá son tẩy da chết môi e.l.f Studio Lip Exfoliat.Nếu bạn muốn có một đôi môi mềm, mịn và hồng hào, bạn chắc chắn sẽ không thể bỏ qua thỏi son
MÔ TẢ SẢN PHẨMNếu bạn muốn có một đôi môi mềm, mịn và hồng hào, bạn chắc chắn sẽ không thể bỏ qua thỏi son tẩy da chết môi e.l.f Studio Lip Exfoliat.Nếu bạn hỏi
**_Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây_** là một trong những bài thơ tiêu biểu của Phạm Tiến Duật, được sáng tác trong những năm tháng chống Mỹ của dân tộc, trên tuyến đường Trường Sơn
THÔNG TIN CƠ BẢN Hạn sử dụng: . Ngày sản xuất: . CHI TIẾT SẢN PHẨM Son Tẩy Tế Bào Chết Môi Beauty Treats Lip Scrub 10gXuất Xứ:MỹVì sao ta phảitẩy tế bào chếtcho môi?
**Sơn Tây đẳng xử Thừa Tuyên bố chính sứ ty** (chữ Hán: 山西等處承宣布政使司), gọi tắt là **Sơn Tây Bố chính sứ ty**, là một trong 13 khu vực hành chính cấp tỉnh dưới triều Minh
- Hạt Cà Phê có hiệu quả vượt trội trong việc tẩy sạch chất sừng để mang lại một đôi môi mịn màng, hồng hào.-Kết hợp với những thành phần cấp ẩm có nguồn gốc
Son tẩy tế bào chết E.L.F LIP EXFOLIATOR 2 in 1 Rose elf lip exfoliate exfoliator rose kiêm son dưỡng môiGiá: #180kĐã là tín đồ mỹ phẩm thì không thể không biết bạn son ĐÌNH
Son Tẩy Tế Bào Chết Môi Beauty Treats Lip Scrub 10gXuất Xứ: Mỹ Vì sao ta phải tẩy tế bào chết cho môi? Khi môi bị khô hay sau khi ngủ dậy thì trên môi
Son Tẩy Tế Bào Chết Môi Beauty Treats Lip Scrub 10g Xuất xứ: USA ❓⁉️❓Vì sao ta phải tẩy tế bào chết cho môi? Khi môi bị khô hay sau khi ngủ dậy thì trên
**Mắt người Sơn Tây** là một bài thơ của nhà thơ Quang Dũng, ra đời năm 1949. Đây là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ ca Quang Dũng: lãng mạn, tràn tính nhạc,
**Núi Ngũ Đài** (), còn gọi là núi **Thanh Lương** (清凉山), nằm trong địa phận huyện Ngũ Đài, địa cấp thị Hãn Châu, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc, là một trong tứ đại Phật giáo
**Trường Trung học phổ thông Chuyên Sơn Tây** là một trường trung học phổ thông công lập của thị xã Sơn Tây trực thuộc thành phố Hà Nội. Được thành lập vào năm 1959, trường
**Sơn Tây** là một phường thuộc thành phố Hà Nội, thủ đô của Việt Nam. Phường được hình thành trên cơ sở sáp nhập các phường Ngô Quyền, Phú Thịnh, Viên Sơn, xã Đường Lâm,
- Hạt Cà Phê có hiệu quả vượt trội trong việc tẩy sạch chất sừng để mang lại một đôi môi mịn màng, hồng hào.-Kết hợp với những thành phần cấp ẩm có nguồn gốc
#son#son_dưỡng#son_tẩy_tế_bào_chết#son_sáng_da#son_giữ_ẩm#son_dưỡng_tốt#son_tẩy_da_chết#kem_dưỡng_chất_lượng#mĩ_phẩm_an_toàn#mĩ_phẩm_hot#mi_pham_sale#mĩ_phẩm_giá_tốt#KEIKOvns.Mĩ_Phẩm_ORDER#shop_mĩ_phẩm#Mĩ_Phẩm_đẹp#son_dưỡng_sang_trọng#chống_oxi_hóa#auth_uk
SON MÔI TẨY DA CHẾT KIKO Dá sêu : 290k Dùng cả năm luôn ạ ! Điều ghét nhất khi đánh son là gì ạ ??? Môi mô nứt nẻ, môi thâm sậm màu lên
**Ngô Quyền** là một phường của thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội, Việt Nam. ## Vị trí địa lý Phường Ngô Quyền nằm giữa thị xã Sơn Tây, tại vị trí phía Tây
Son Tẩy Tế Bào Chết Arya Tara nhẹ nhàng lấy đi lớp vảy khô trên môi và lớp son còn sót lại sau khi tẩy trang, giúp làn môi mịn màng, tươi tắn.Thành phần:Đường nâu,
left|Trại giam tù binh Mỹ Sơn Tây phải|Bản đồ ảnh ghép trại tù binh Mỹ ở Sơn Tây, 1970 **Trại tù Sơn Tây** là một trại tù tại ngoại ô phía tây thị xã Sơn
**Quang Trung** là một phường thuộc thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội, Việt Nam. ## Vị trí địa lý Phường Quang Trung nằm ở giữa thị xã Sơn Tây, tại vị trí phía
Sự kết hợp độc đáo của Dầu dừa tươi™ có tính dưỡng vượt trội và hàng triệu hạt cà phê Robusta cực mịn tạo nên “bí quyết” chăm sóc môi độc đáo, giúp dưỡng ẩm
**Nguyễn Sơn Hà** (1894 tại Hà Nội - 1980 tại Hải Phòng) là một trong những doanh nhân, nhà kỹ nghệ hàng đầu của Việt Nam thời Pháp thuộc. Ông được biết đến như là
**Hằng Sơn** (tiếng Trung phồn thể: 恆山; giản thể: 恒山; bính âm: Héng Shān) còn gọi là **Nguyên Nhạc** hay **Thường Sơn**, nằm ở huyện Hồn Nguyên tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc, là một núi
**Hươu sao Sơn Tây** (Danh pháp khoa học: **_Cervus nippon grassianus_**) là một phân loài của loài hươu sao phân bố ở tỉnh Sơn Tây thuộc Trung Quốc, chúng được coi là có thể bị
✨SON TẨY DA CHẾT & DƯỠNG ẨM MÔI BALEA COCOS 2 TRONG 1✨ Son tẩy tế bào chết và dưỡng ẩm môi Balea Cocos 100% nguyên liệu thiên nhiên là sự kết hợp từ dầu
nhỏ|Thiền Sư Dược Sơn **Dược Sơn Duy Nghiễm** (zh. _yàoshān wéiyǎn_ 藥山惟儼, ja. _yakusan igen_), 745-828 hoặc 750-834, là Thiền sư Trung Quốc đời Đường, môn đệ xuất sắc của thiền sư Thạch Đầu Hi
Thời kỳ 386-394 **Nhà Tây Yên** (384 -394) là một quốc gia thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Hoa. ## Lập quốc Sau khi Tiền Yên bị Tiền Tần tiêu diệt,
**Vụ cướp 8 triệu USD tại Sơn Tây, Trung Quốc** xảy ra vào tháng 11 năm 2011. Đây được coi là vụ cướp gây chấn động lớn nhất Trung Quốc . ## Diễn biến Tháng
MÔ TẢ SẢN PHẨM1. Thông tin về sản phẩm Son Tẩy Da Chết Môi ELF - Bộ sản phẩm bao gồm: 01 Thỏi son và 01 Hộp đựng cao cấp.- Màu sắc: Nâu- Xuất xứ:
Nếu bạn muốn có một đôi môi mềm, mịn và hồng hào, bạn chắc chắn sẽ không thể bỏ qua thỏi son tẩy da chết môi e.l.f Studio Lip Exfoliat. Tẩy tế bào chết môi
Vừa đỡ khô mô mà vẫn lên màu Tẩy da chết thui mờ. Có cần phải xịn xò thế không??? Nhưng xài đi rồi biết nhé. Phê đừng hỏi. Nàng nào môi khô, môi xăm
Dưỡng môi những cũng không quên tẩy da chết môi nha chị em Son tẩy da chết và dưỡng ẩm Balea Cocos 2in1 •••••••••• ✨ Sự kết hợp từ dầu dừa nguyên chất, sáp ong
**Phù Sơn** (chữ Hán giản thể:浮山县, âm Hán Việt: _Phù Sơn huyện_) là một huyện thuộc địa cấp thị Lâm Phần, tỉnh Sơn Tây, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Huyện Phù Sơn có diện
**Tắc Sơn** (chữ Hán giản thể:稷山县, âm Hán Việt: _Tắc Sơn huyện_) là một huyện thuộc địa cấp thị Vận Thành, tỉnh Sơn Tây, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Huyện Tắc Sơn có diện
**Khuất Hữu Sơn** (sinh 1945)là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X. Ông thuộc đoàn đại biểu Hà Tây. Ông sinh năm 1945 tại xã Thọ Lộc, huyện Phúc Thọ tỉnh Sơn Tây, nay
**Phương Sơn** (chữ Hán giản thể: 方山县, âm Hán Việt: _Phương Sơn huyện_) là một huyện thuộc địa cấp thị Lữ Lương, tỉnh Sơn Tây, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Huyện Phương Sơn có