✨Ngụy (chính trị)

Ngụy (chính trị)

Ngụy là một từ gốc Hán trong tiếng Việt có nhiều nghĩa tùy thuộc vào chữ Hán Nôm gốc, văn cảnh và từ ghép với nó. Nghĩa thường dùng là để chỉ sự vật, sự việc mang tính giả tạo, như trong từ ngụy trang, ngụy tạo. Trong lịch sử, từ "ngụy" được dùng để chỉ một chính phủ được lập ra một cách bất hợp pháp, không chính thống, không được người dân công nhận, như là trong từ ngụy triều, ngụy binh, ngụy quân, ngụy quyền...

Tại Việt Nam, có hai từ ngụy đồng âm khác nghĩa (viết chữ Quốc ngữ thì giống nhau, viết chữ Hán Nôm là khác nhau), thường được sử dụng trong văn hoá, giao tiếp và văn học của người Việt.

  • Một từ ngụy (偽) là tính từ, có ý nghĩa là "sự giả tạo", ví dụ như "ngụy tạo, ngụy biện, ngụy trang, ngụy quân tử, ngụy quyền". Trong chính trị, từ này được dùng để chỉ một triều đại hoặc chính quyền do soán đoạt mà có, hoặc do quân xâm lược nước ngoài dựng lên để hợp thức hóa sự xâm lược, đô hộ một nước khác. Về bản chất, chính quyền này không có thực quyền, chỉ là hữu danh vô thực Trong lịch sử các nước Đông Á như Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam, từ "ngụy triều", "ngụy quyền" được sử dụng nhiều trong các văn bản lịch sử. Ở phương Tây có những cách gọi tương tự là chính quyền tay sai, chính phủ bù nhìn, chế độ tay sai, hay nhà nước con rối ("Puppet State, Puppet Regime"). Theo Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam (năm 2007) thì: "Ngụy quyền là chính quyền bản xứ do thế lực nước ngoài dựng lên, nuôi dưỡng, sử dụng làm công cụ xâm lược, nô dịch của họ. Ở Việt Nam, chính quyền Bảo Đại (1949-1954) và chính quyền Sài Gòn (1954-1975) đều là ngụy quyền (do Pháp và Mỹ dựng lên)".
  • Một từ Ngụy khác (魏) là danh từ dùng để chỉ địa danh, tên gọi tại Trung Quốc, ví dụ: nước Ngụy thời Chiến Quốc bên Trung Quốc, nhà Ngụy thời Tam Quốc bên Trung Quốc, hay họ Ngụy tại Đông Á, trong đó có Việt Nam. Vì là danh từ riêng, từ này hay được viết hoa chữ N.

Việc sử dụng từ ngụy trong lịch sử các nước

Trung Quốc

Nước Ngụy (魏) là danh từ chỉ tên của một số triều đại hoặc nước cát cứ trong lịch sử Trung Quốc. Các chính quyền hoặc quốc gia sau trong lịch sử Trung Quốc có tên là "Ngụy": Ngụy (Xuân Thu), một nước chư hầu đầu thời Tây Chu Nước Ngụy, một trong bảy nước mạnh thời Chiến Quốc Nước Tào Ngụy thời Tam Quốc Chính quyền Nhiễm Ngụy thời Thập Lục Quốc của Nhiễm Mẫn Chính quyền Trạch Ngụy thời Thập Lục Quốc của Trạch Liêu Triều đại Bắc Ngụy thời Nam Bắc Triều Triều đại Tây Ngụy thời Nam Bắc Triều Triều đại Đông Ngụy thời Nam Bắc Triều

  • Huyện Ngụy ở phía nam tỉnh Hà Bắc (Trung Quốc)
  • Họ Ngụy tại Đông Á.

Có một số triều đại và nhân vật thì được sử sách Trung Quốc gọi là "ngụy" (偽 – nghĩa khác từ "ngụy" ở trên). Từ "ngụy" này là tính từ, chỉ sự giả tạo, bất hợp pháp, không được thừa nhận. Ví dụ như triều đình "ngụy Sở" (1127-1128) của Trương Bang Xương, triều đình "ngụy Tề" (1130–1137) của Lưu Dự do nhà Kim lập ra. Các triều đình này chỉ là bù nhìn, được nhà Kim lập ra nhằm hợp thức hóa sự xâm lược Trung Quốc.

Trong Chiến tranh Trung–Nhật, Trung Quốc bị Nhật Bản xâm chiếm. Chính phủ Quốc dân Trung Hoa Dân Quốc của Uông Tinh Vệ và Chính phủ Mãn Châu quốc của Phổ Nghi, bị cả Đảng Cộng sản và Quốc Dân Đảng gọi là "ngụy quyền", "ngụy quân", "ngụy Mãn Châu quốc" hoặc "chính phủ ngụy" do các chính phủ này được Đế quốc Nhật Bản lập ra nhằm hợp thức hóa sự xâm lược Trung Quốc. Thuật ngữ này cũng được sử dụng trên các kênh truyền thông, sách báo, phim ảnh của Trung Quốc và Đài Loan (của Quốc Dân Đảng) cho tới nay.

Hàn Quốc và Triều Tiên

Bán đảo Triều Tiên từng bị Đế quốc Nhật Bản xâm lược và đô hộ (giai đoạn 1895-1945). Hàng trăm nghìn người Triều Tiên đã cộng tác với thực dân Nhật để đàn áp những đồng bào đấu tranh đòi độc lập. Ngày nay, sử sách Triều Tiên và Hàn Quốc gọi những người Triều Tiên cộng tác với quân Nhật là "ngụy quân". Sau khi giành được độc lập, CHDCND Triều Tiên đã bắt giam hoặc xử bắn hàng loạt những người hợp tác với Nhật với tội danh phản quốc. Tại Hàn Quốc thì luật pháp có hẳn một quy định về đối tượng này, Trung tâm Sự thật và Công lý Lịch sử (CHTJ) đã lập ra cả một danh sách 4.389 người từng cộng tác với Nhật để xét lý lịch với con cháu của họ, năm 2019 Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in nói rằng: "xóa sạch những dấu tích của việc cộng tác với Nhật Bản là điều nên được thực hiện từ lâu".

Việt Nam

Lịch sử Việt Nam cũng có nét tương đồng với lịch sử Trung Quốc trong việc sử dụng từ ngụy. Sử gia Trần Trọng Kim giải thích sự tương đồng này như sau: "Những người làm quốc sử nước Tàu và nước ta thường chia những nhà làm vua ra chính thống và ngụy triều. Nhà nào, một là đánh giặc mở nước, sáng tạo ra cơ nghiệp, hai là được kế truyền phân minh, thần dân đều phục, ba là dẹp loạn yên dân, dựng nghiệp ở đất Trung Nguyên, thì cho là chính thống. Nhà nào, một là làm bề tôi mà cướp ngôi vua, làm sự thoán đoạt không thành; hai là xưng đế, xưng vương ở chỗ rừng núi, hay là ở đất biên địa; ba là những người ngoại chủng vào chiếm nước làm vua, thì cho là ngụy triều."

Thời phong kiến

Khi nhà Minh chiếm đóng Việt Nam, một số quan lại người Việt ra cộng tác với quân Minh. Những quan lại này bị nhà Hậu Trần và các triều đại sau gọi là "ngụy quan".

Nhà Mạc bị các sử gia nhà Lê trung hưng gọi là "ngụy Mạc" vì đã soán ngôi vua Lê.

Trong suốt thời gian chiến tranh và sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh và sau này là nhà Nguyễn thường hay dùng từ ngụy khi nhắc tới Tây Sơn. Những từ ghép có thể là "ngụy Tây Sơn", "ngụy Tây","ngụy triều", "ngụy Nhạc. Việc gọi tên này phổ biến trong suốt thời gian nhà Nguyễn còn mạnh, khi hầu hết các văn sử chính thống của triều đình đều dùng các từ trên mỗi khi nhắc đến nhà Tây Sơn, đơn cử là cuốn Ngụy Tây liệt truyện của Quốc sử quán triều Nguyễn. Về sau, sử gia Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược khi viết về Tây Sơn tỏ ra không đồng ý với cách gọi này. Theo ông, nhà Tây Sơn tuy đã lật đổ chúa Nguyễn nhưng triều đại này vẫn do người Việt cai trị, không phải do ngoại bang lập ra và có công lớn chống ngoại xâm, nên không thể gọi là ngụy. Ông viết: "... lấy công lý mà suy thì vua Quang Trung – Nguyễn Huệ là một ông vua cùng đứng ngang vai với vua Đinh Tiên Hoàng, vua Lê Thái Tổ, mà nhà Nguyễn Tây Sơn cũng là một nhà chính thống như nhà Đinh và nhà Lê vậy.

Quốc gia Việt Nam

Năm 1945, Hồ Chí Minh tuyên bố Việt Nam độc lập với tên gọi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuy nhiên, tại miền Nam Việt Nam, chỉ bốn ngày sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập, quân Pháp đã quay lại xâm chiếm miền Nam của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chính phủ Pháp muốn khôi phục thuộc địa Đông Dương, quân Pháp tuyên bố sẽ lập chính quyền mới tại miền Nam. Sau đó, quân Pháp nổ súng chiếm quyền kiểm soát thành phố Sài Gòn. Nước Việt Nam vừa giành được độc lập lại đứng nạn ngoại xâm.

Ngày 9 tháng 10, tướng Pháp Leclerc đến Sài Gòn, theo ông là lực lượng gồm 40.000 quân Pháp để chiếm giữ miền Nam Việt Nam và Campuchia. Từ cuối tháng 10, quân Pháp bắt đầu đẩy mạnh kế hoạch phá vây, mở rộng đánh chiếm ra vùng xung quanh Sài Gòn và các tỉnh miền Nam Việt Nam, chiến tranh Đông Dương bùng nổ và kéo dài đến năm 1954 mới kết thúc sau trận Điện Biên Phủ và hiệp định Geneve 1954 về Đông Dương. nhỏ|Cuộc diễn hành của một [[tiểu đoàn Quân đội Quốc gia Việt Nam. Ảnh chụp tại Hồ Gươm ngày 14 tháng 7 năm 1951.]]

Chiến tranh Việt – Pháp kéo dài từ năm 1945 đến 1954. Năm 1948, theo chiến lược Da vàng hóa chiến tranh, Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Cựu hoàng Bảo Đại đã ký Hiệp ước Elysée tuyên bố thành lập chính phủ Quốc gia Việt Nam trong khối Liên hiệp Pháp, đứng đầu là Quốc trưởng Bảo Đại để làm đối trọng với Việt Minh. Dù vậy, người Pháp đã khéo léo khi thực tế trong hiệp ước, nghĩa chính xác của từ "độc lập", quyền hạn cụ thể của chính phủ mới đã không được người Pháp xác định rõ để tránh phải trao quyền chính trị cho Quốc gia Việt Nam.. Theo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ý đồ của Pháp là muốn áp dụng chính sách Da vàng hóa chiến tranh, "Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt" và để thuyết phục Mỹ viện trợ kinh tế và quân sự để Pháp có thể tiếp tục đứng chân tại Đông Dương .

Theo Nghị định Quốc phòng ngày 13 tháng 4 năm 1949, một lực lượng quân đội của Quốc gia Việt Nam được thành lập, lấy tên là Vệ binh Quốc gia sẽ cùng phối hợp với quân Pháp để đánh lại Việt Minh. Ngày 11 tháng 5 năm 1950, Thủ tướng Trần Văn Hữu tuyên bố chính thức thành lập Quân đội Quốc gia Việt Nam với quân số lúc đó là 60.000 người .

Hiệp ước Elysee đã ghi rõ về vai trò chỉ huy của Pháp: "Trong thời chiến, toàn thể quân đội Quốc gia Việt Nam và Liên hiệp Pháp được đặt chung dưới quyền chỉ huy của Ủy ban quân sự mà Tư lệnh sẽ là một sĩ quan Pháp có một Tham mưu trưởng phụ tá." Mặt khác, Pháp không chấp nhận trang bị vũ khí cho những đơn vị Quân đội Quốc gia Việt Nam trừ khi Việt Nam chấp nhận một tỷ lệ nhất định sĩ quan Pháp trong Quân đội Quốc gia Việt Nam trong thời gian sĩ quan Việt Nam đang được đào tạo.. Pháp chỉ đơn giản là đưa những người lính bản địa mới tuyển mộ được vào các quân đoàn viễn chinh của Pháp, tại đó, người chỉ huy là các sĩ quan Pháp . Quân đội Quốc gia Việt Nam phụ thuộc hoàn toàn vào hệ thống hậu cần của Pháp. Do thiếu sĩ quan người Việt nên có đến 20% đơn vị bộ binh và 50% đơn vị hỗ trợ và kỹ thuật vẫn còn sử dụng sĩ quan Pháp. Quân đội này thiếu những chỉ huy được huấn luyện tốt, thiếu kỷ luật, tinh thần chiến đấu thấp. Trong các chiến dịch lớn như trận Nà Sản hay trận Điện Biên Phủ, các đơn vị của quân đội này trên danh nghĩa là do sĩ quan người Việt độc lập chỉ huy, nhưng các sĩ quan này lại vẫn nằm dưới sự điều động của Bộ Tư lệnh quân đội Liên hiệp Pháp (ví dụ như trận Điện Biên Phủ, các tiểu đoàn dù Quốc gia Việt Nam phải chịu sự chỉ huy chung của trung tá Pháp Pierre Langlais).

Người Pháp trì hoãn một cách có tính toán việc trao quyền cho Quốc gia Việt Nam. Quân đội Pháp vẫn ở lại Việt Nam, nhân viên hành chính Pháp tiếp tục làm việc ở các cấp chính quyền; Quốc gia Việt Nam chẳng được trao cho một chút quyền hành thực sự nào, như bấy giờ người ta nói, Quốc gia Việt Nam chỉ là một sự nguỵ trang cho nền cai trị của Pháp.

Theo phân tích pháp lý thì Hiệp định Élysée về việc thành lập chính phủ Quốc gia Việt Nam là bất hợp pháp từ cả hai bên ký kết vì những lý do sau:

  • Người Pháp không còn tư cách pháp lý quốc tế ở Việt Nam sau khi vua Bảo Đại ra Tuyên cáo tháng 3-1945, theo đó xóa bỏ những hiệp ước mà nhà Nguyễn ký với Pháp. Sau khi Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập vào ngày 2/9/1945 khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Việt Nam đã trở thành một quốc gia độc lập, việc Pháp đem quân can dự vào Việt Nam là hành vi xâm lược, trái với luật pháp quốc tế.
  • Bảo Đại (người ký Hiệp định Élysée với Pháp) không có tư cách pháp lý đại diện cho đất nước Việt Nam, bởi ông đã thoái vị ngày 25-8-1945 và chỉ còn là một công dân bình thường.
  • Chính phủ hợp pháp đại diện cho nước Việt Nam khi đó là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Mọi văn bản do công dân Việt Nam ký với bất kỳ chính phủ nào mà không được phép của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì đều là vô giá trị.

Do chính phủ Quốc gia Việt Nam được thành lập một cách bất hợp pháp và bị Pháp thao túng, nên trong thời gian chiến tranh chống Pháp, Hồ Chí Minh và chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gọi chính phủ Quốc gia Việt Nam là ngụy quyền và Quân đội Quốc gia Việt Nam là ngụy binh, ngụy quân, quân ngụy, hoặc lính ngụy.

Trong Hội nghị lần 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khóa II họp từ ngày 27/9 đến ngày 5/10/1951, Hội nghị nhận định tình hình chiến sự và đề ra nhiệm vụ phải phá chính sách "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt" của thực dân Pháp và nhấn mạnh công tác "ngụy vận", đặc điểm của công tác này là phải: Coi công tác ngụy vận là một công tác vận động quần chúng, nhằm mục đích lâu dài. Phải biết gắn liền ngụy vận với dân vận trong vùng tạm chiếm. Phải phối hợp ngụy vận với tác chiến, khi có những điều kiện thuận lợi thì mở những cuộc tấn công chính trị để làm tan ra hàng ngũ ngụy binh. Cách thức tuyên truyền và vận động ngụy binh đều phải nhằm những điểm nói trên mà định cho thích hợp. Đi đôi với công tác vận động ngụy binh, phải tăng cường công tác vận động binh sĩ Âu - Phi.

Năm 1951, Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra lời hiệu triệu nhân ngày kỷ niệm toàn quốc kháng chiến, lên án chính sách "dùng người Việt đánh người Việt" của thực dân Pháp: "Không đủ sức chống kháng chiến, đế quốc Mỹ và thực dân Pháp lợi dụng bọn bù nhìn vong bản thi hành chính sách "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt", dùng độc lập giả hiệu để mê muội, đốt làng cướp của làm cho dân ta bần cùng trụy lạc để dễ áp bức lừa phỉnh, bắt thanh niên đi lính ngụy để đánh lại đồng bào."

Cùng năm, Hồ Chí Minh liên tục viết ba bức thư gửi binh lính trong Quân đội Quốc gia Việt Nam để thuyết phục họ về với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tháng 6 năm đó ông viết bức thư "Vận động ngụy binh" . Tháng 9 ông viết bức thư "Thư gửi các ngụy binh" . Tháng 11 ông viết bức thư "Lời kêu gọi ngụy binh quay về với Tổ quốc" .

Tháng 3 năm 1952, Hồ Chí Minh viết bức thư "Ngụy binh giác ngộ" nêu một số tấm gương lính người Việt trong Quân đội Quốc gia Việt Nam rời bỏ hàng ngũ theo về với Việt Minh. Nội dung tuyên truyền chính sách khoan hồng của Đảng Lao động và Việt Minh: :Đại đa số ngụy binh là những thanh niên bị bắt buộc hoặc bị lừa bịp mà đi lính cho giặc. Nhưng họ vốn cũng có lòng yêu nước và ghét giặc. Ta giải thích rõ cho họ, khoan hồng với họ, thì họ sẽ giác ngộ và quay về với Tổ quốc. Nhiều lần, sự thực đã chứng tỏ như vậy. Cho nên cán bộ, bộ đội và nhân dân ta phải thi đua địch vận, ngụy vận, xem đó là một nhiệm vụ kháng chiến, thì ta sẽ không tốn đạn hao binh, mà được cả người lẫn súng. Và do đó, ta sẽ phá tan mưu mô của địch "dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh".

Năm 1953, nhân ngày Quốc tế Lao động, Đảng Lao động Việt Nam và chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kêu gọi binh lính Quân đội Quốc gia Việt Nam đào ngũ, trở về với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Họ tuyên bố luôn khoan hồng đối với những người "lầm lỗi biết hối cải và lập công". Chính phủ chủ trương chia ruộng đất công cho lính người Việt rời bỏ hàng ngũ ngụy quân để trở về với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Việt Nam Cộng hòa

Người biểu tình phản chiến Mỹ với sự châm biếm "Đế quốc Mỹ điều khiển Con rối Sài Gòn (Saigon Puppet)" Việt Nam Cộng hòa được Hoa Kỳ thành lập trên cơ sở kế thừa từ Quốc gia Việt Nam. Cũng giống như tiền thân là Quốc gia Việt Nam, chế độ Việt Nam Cộng hòa bị Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam coi là một chính phủ tồn tại bất hợp pháp, là chính phủ bù nhìn do Mỹ thao túng, và gọi đó là "ngụy quyền Sài Gòn" hay "ngụy quyền"; và quân lực Việt Nam Cộng hòa thì được gọi là "ngụy quân".

Từ ngụy quyềnngụy quân có nghĩa là chính quyền/quân đội bất hợp pháp.. Trong thời kỳ chiến tranh, Việt Nam xác định Mỹ là kẻ thù chính, chế độ Việt Nam Cộng hòa chỉ là ngụy quân, ngụy quyền do Mỹ khống chế, nếu Mỹ thất bại thì ngụy quân, ngụy quyền cũng phải sụp đổ. Vì vậy Việt Nam xác định chỉ tiến hành đấu tranh với Mỹ, gọi đây là cuộc chiến tranh "chống Mỹ cứu nước" chứ không phải là "chống ngụy cứu nước".

Cuộc chiến của Mỹ ở Việt Nam là cuộc chiến theo kiểu chủ nghĩa thực dân mới. Theo đó, Mỹ chỉ đứng ngoài chỉ đạo, kiểm soát và thu lợi, còn việc thực thi là trách nhiệm của chính phủ tay sai bản địa, chứ Mỹ không trực tiếp tham chiến như Pháp (thực dân cũ), đó chính là chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" mà Mỹ áp dụng trong giai đoạn 1955-1963. Cách này tương tự như đạo diễn điều khiển diễn viên đóng kịch trên sân khấu theo kịch bản cho trước. Đến khi Việt Nam Cộng hòa tỏ ra vô dụng quá mức, không đảm đương nổi vai diễn (Chiến tranh đặc biệt thất bại vào năm 1963), thì "đạo diễn" là Mỹ buộc phải nhảy ra sân khấu làm kép chính luôn, và hàng trăm nghìn quân Mỹ đã tới Việt Nam tham chiến trực tiếp trong giai đoạn 1964-1973.

Tài liệu được giải mật của Lầu Năm Góc đã viết: "Không có sự yểm trợ của Hoa Kỳ, Diệm hầu như chắc chắn không thể đứng vững được ở miền Nam... Việt Nam Cộng hòa, về bản chất, là một sáng tạo của Hoa Kỳ" Thậm chí tổng thống Mỹ Nixon trong lúc tức giận còn từng nói: "Không thể để có cái đuôi chó phản lại cái đầu con chó được."

phải|nhỏ|253x253px|Người phản chiến Mỹ châm biếm "Đế quốc Mỹ" và "Con rối Sài Gòn". Tại cuộc họp do Hội "American Friends of Vietnam", một tổ chức vận động ủng hộ Ngô Đình Diệm ở Washington D.C. ngày 1/6/1956, John F. Kennedy (một năm sau trở thành Tổng thống Mỹ) tuyên bố: "Nếu chúng ta không phải là cha mẹ của nước Việt Nam bé nhỏ [chỉ Việt Nam Cộng hòa] thì chắc chắn chúng ta cũng là cha mẹ đỡ đầu của nó. Chúng ta chủ tọa lúc nó ra đời, chúng ta viện trợ để nó sống, chúng ta giúp định hình tương lai của nó (...). Đó là con đẻ của chúng ta - chúng ta không thể bỏ rơi nó, chúng ta không thể không biết tới những nhu cầu của nó"

Trong bài viết "30/4/1975, Dương Văn Minh và tôi", Nguyễn Hữu Thái thuật lại lời Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh đã nói với ký giả Francois Vanuxem khi ông từ chối đề nghị giúp đỡ của Trung Quốc:

Năm 2005, khi và trả lời phỏng vấn của báo Thanh Niên, nguyên Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Cao Kỳ nhận định rằng:

Trong thập niên 1960, Hồ Chí Minh có nhiều bài báo, bài diễn văn gọi chế độ Việt Nam Cộng hòa là "ngụy quyền" để nhấn mạnh tính chất bất hợp pháp, làm tay sai cho giặc ngoại xâm của chế độ này. Viết trên bài chính luận "Sách Trắng của Mỹ" nhằm phản đối việc Mỹ đổ quân viễn chinh vào Việt Nam năm 1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:

Trong "Lời Kêu gọi Toàn quốc Kháng chiến chống Mỹ cứu nước" năm 1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:

Bài thơ Chúc Tết năm 1969 là bài thơ chúc Tết cuối cùng của Hồ Chí Minh gửi tới toàn dân Việt Nam, trong đó có 2 câu:

Trong bài báo "Lại chuyện chó Mỹ" trên báo Nhân dân số ngày 20/1/1966, tác giả mỉa mai rằng một con chó nghiệp vụ của quân đội Mỹ còn được đãi ngộ tốt hơn so với một lính ngụy: :Chó sǎn là đồng minh trung thành của đế quốc Mỹ. Đây là chuyện chó sǎn có bốn chân, chứ không phải loài chó sǎn mặt người bụng thú, rước voi giày mả tổ, cõng rắn cắn gà nhà, như bọn Thiệu – Kỳ. :Từ ngày Mỹ phái Hakin lập bộ tư lệnh ở Sài Gòn, thì chó Mỹ cũng được phái đến miền Nam nước ta. Chúng được ở nhà lầu, có lính ngụy hầu hạ. Mỗi con chó Mỹ được ǎn lương gấp nhiều lần lương của một ngụy binh. Một chuyện thú vị là tháng 9-1964, giặc Mỹ đưa 200 chó sǎn đến Tây Nguyên bắt đồng bào Thượng nuôi. Non một tháng sau, đàn chó biến mất hết, chỉ còn lại mấy đống xương...

Năm 1960, Mặt Trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập trên danh nghĩa "Đoàn kết toàn dân đánh bại chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đánh đổ ngụy quyền tay sai của chúng, giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc". Chính sách học tập cải tạo sau năm 1975 tại Việt Nam cũng được thực hiện với nghị quyết: "Việc tổ chức cho ngụy quân, ngụy quyền và các đối tượng phản động ra trình diện học tập cải tạo thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước, có tác dụng phân hóa hàng ngũ bọn phản động, cô lập bọn đầu sỏ ngoan cố, đập tan luận điệu tuyên truyền chiến tranh tâm lý của địch, tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân."

Năm 2005, khi về Việt Nam và trả lời phỏng vấn của báo Thanh Niên, Tướng Nguyễn Cao Kỳ của chế độ Việt Nam Cộng hòa đã nhận định rằng: "Mỹ luôn luôn đứng ra trước sân khấu, làm "kép nhất". Vì vậy ai cũng cho rằng đây là cuộc chiến tranh của người Mỹ và chúng tôi là những kẻ đánh thuê.". Trong bài viết "30/4/1975, Dương Văn Minh và tôi", Nguyễn Hữu Thái thuật lại lời Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh đã nói với ký giả Francois Vanuxem: "Hết Tây (Pháp) rồi đến Mỹ, chẳng lẽ bây giờ còn đi làm tay sai cho Tàu nữa sao!". Sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc năm 1975, các từ "ngụy quân", "ngụy quyền" vẫn tiếp tục được sử dụng một cách rộng rãi trong truyền thông Việt Nam để chỉ chế độ Việt Nam Cộng hòa, Quân đội Việt Nam Cộng hòa và chính quyền Việt Nam Cộng hòa, Quân lực Việt Nam Cộng hòa.

Sau khi chính sách Đổi mới được thi hành năm 1986, ngôn ngữ dùng để miêu tả chế độ Việt Nam Cộng hòa cũng được mềm dẻo hóa.

Trong một số tài liệu, sách sử của phương Tây hiện nay, chế độ Việt Nam Cộng hòa cũng được sử gia nước ngoài gọi là "chính phủ bù nhìn", một từ có ý nghĩa tương tự như từ "Ngụy".

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ngụy** là một từ gốc Hán trong tiếng Việt có nhiều nghĩa tùy thuộc vào chữ Hán Nôm gốc, văn cảnh và từ ghép với nó. Nghĩa thường dùng là để chỉ sự vật, sự
**Tình huống chính trị** là những sự kiện, biến cố không bình thường diễn ra trong đời sống chính trị - xã hội, có thể gây nên sự bất ổn hoặc có khả năng trực
Khu vực eo biển Đài Loan Sự tranh cãi về **vị thế chính trị Đài Loan** xoay quanh tại việc Đài Loan, gồm cả quần đảo Bành Hồ (_Pescadores_ hoặc _Penghu_), có nên tiếp tục
nhỏ|Các quốc gia có ít nhất một ngày bầu cử bị thay đổi do COVID-19 Đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng đến các mối quan hệ quốc tế và ảnh hưởng đến hệ thống chính
thumb|Hệ thống chính trị Hoa Kỳ Hoa Kỳ là một nước cộng hòa liên bang, trong đó Tổng thống, Quốc hội, và Toà án cùng nắm giữ và chia sẻ quyền lực của chính quyền
**Chiến thuật chính trị** hay **mưu kế chính trị** hay **thủ đoạn chính trị** hay **chiêu bài chính trị**, là cách thức cụ thể để đạt được mục tiêu chính trị của một nhà chính
Huy hiệu Chính quyền Anh (một biến thể của Huy hiệu Hoàng gia Anh) **Chính trị Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland** lập nền trên thể chế quân chủ lập hiến với thủ
Người biểu tình áo đỏ đụng độ với quân đội trên đường Pracha Songkhro, Bangkok ngày 13 tháng 4 năm 2009 Một loạt các cuộc biểu tình chính trị và tình trạng bất ổn theo
nhỏ|[[Tháp Chủ Thể biểu tượng của tư tưởng chính thức: _Juche_.]] **Chính trị của Triều Tiên** diễn ra trong khuôn khổ triết lý chính thức của nhà nước, _Juche_, một khái niệm được tạo ra
**Khủng hoảng chính trị** là sự bất ổn chính trị diễn ra trong một đất nước có nguyên nhân từ mâu thuẫn giữa các đảng phái chính trị, giữa các giai cấp, giữa các sắc
**An ninh chính trị l**à một bộ phận của an ninh quốc gia, có nội dung chính là đảm bảo sự ổn định chính trị, trật tự xã hội; nghĩa là đảm bảo hiệu quả
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:%E6%94%BF%E5%BA%9C%E4%BA%A4%E4%BB%A3%E4%BF%AE%E6%94%B9%E9%81%B8%E8%88%89%E5%88%B6%E5%BA%A6%E8%8D%89%E6%A1%88_20210413.png|phải|nhỏ|300x300px|[[Chính phủ Hồng Kông công bố dự thảo Điều lệ hoàn thiện chế độ bầu cử (tổng hợp sửa đổi) vào ngày 13 tháng 4 năm 2021.]] **Cải cách chế độ chính trị Hồng Kông
thumb|Nhà hoạt động chính trị [[Ali Salem Tamek trong nhà tù Ait Melloul, Agadir, 2005. Anh bị tống giam với cáo buộc "xúi giục gây rối trật tự công cộng"]] Hình tượng tù nhân chính
**Ngụy Trưng** (, 580 - 11 tháng 2 năm 643), biểu tự **Huyền Thành** (玄成), là một nhà chính trị và sử học thời đầu thời nhà Đường. Xuất thân ở Hà Bắc trong một
Tại Việt Nam, **bất đồng chính kiến** từng xuất hiện trong nhiều giai đoạn lịch sử dưới nhiều loại hình khác nhau. ## Thời Pháp thuộc Trong thời Pháp thuộc, Nhiều người bất đồng chính
**Đồng minh tự trị dân chủ Đài Loan** (tiếng Trung: 台湾民主自治同盟, tức _Đài Loan dân chủ tự trị đồng minh_) gọi tắt là **Đài Minh** là một trong 8 đảng phái dân chủ của Cộng
CUỐN SÁCH GỐI ĐẦU GIƯỜNG CỦA RẤT NHIỀU THẾ HỆ CHÍNH TRỊ GIA VÀ LÃNH ĐẠO TRÊN THẾ GIỚI. Chỉ trong một cuốn sách nhỏ của Machiavelli đã hội tụ những nguyên tắc làm nền
CUỐN SÁCH GỐI ĐẦU GIƯỜNG CỦA RẤT NHIỀU THẾ HỆ CHÍNH TRỊ GIA VÀ LÃNH ĐẠO TRÊN THẾ GIỚI. Chỉ trong một cuốn sách nhỏ của Machiavelli đã hội tụ những nguyên tắc làm nền
**Chính quyền Dân tộc Palestine** (**PNA** hay **PA**; _Al-Sulṭa Al-Waṭaniyyah Al-Filasṭīniyyah_) là tổ chức hành chính được lập ra để cai quản các vùng của lãnh thổ Palestine gồm Bờ Tây và Dải Gaza. Chính
**Chính phủ Vichy**, hoặc **Phát xít Pháp** hay chỉ gọi đơn giản là **Vichy** là thuật ngữ thường dược dùng để miêu tả chính phủ Pháp hợp tác với phe Trục từ tháng 7 năm
**Phạm Minh Chính** (sinh ngày 10 tháng 12 năm 1958) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông hiện là Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Phó
**Viện Nghiên cứu Chính sách Thực phẩm Quốc tế** (International Food Policy Research Institute - IFPRI) là một trung tâm nghiên cứu nông nghiệp quốc tế được thành lập vào đầu những năm 1970 để
**Phê bình kinh tế chính trị** hoặc **phê bình kinh tế** là một hình thức phê bình xã hội bác bỏ các phạm trù và cấu trúc xã hội khác nhau tạo thành diễn ngôn
**Lê Thanh Hải** (sinh 1950) là một chính khách Việt Nam. Ông là cựu Ủy viên Bộ Chính trị khóa X, XI, cựu Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, cựu Chủ tịch
**Chính sách đối ngoại** của một quốc gia, còn được gọi là **chính sách ngoại giao**, bao gồm các chiến lược do nhà nước lựa chọn để bảo vệ lợi ích của quốc gia mình
**Chính phủ Hoàng gia Liên minh các Dân tộc Campuchia** (, **GRUNK**; ) là một chính phủ lưu vong của Campuchia, có trụ sở tại Bắc Kinh, tồn tại từ năm 1970 đến năm 1976,
**Phong trào Ca khúc Chính trị** là một sinh hoạt văn nghệ quần chúng tiêu biểu tại Việt Nam thập niên 1980. ## Lịch sử Trong _Hồi ký của một thằng hèn_, nhạc sĩ Tô
**Nhà Bắc Ngụy** (tiếng Trung: 北魏朝, bính âm: běi wèi cháo, 386–535), còn gọi là **Thác Bạt Ngụy** (拓拔魏), **Hậu Ngụy** (後魏) hay **Nguyên Ngụy** (元魏), là một triều đại thời Nam Bắc triều trong
**Bắc Ngụy Thái Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏太武帝; 408 – 11 tháng 3, 452), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông thường được nhìn nhận
nhỏ|phải|Ngụy quốc
([[triện thư, 220 TCN)]] **Ngụy** (Phồn thể: 魏國; Giản thể: 魏国) là một quốc gia chư hầu trong thời kỳ Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Lãnh thổ của quốc gia này hiện
**Uất Trì Huýnh** (tiếng Trung: 尉遲迥; ?- 580), tự **Bạc Cư La** (薄居羅), cháu gọi cậu của Vũ Văn Thái, là một tướng của các quốc gia do bộ lạc Tiên Ti lập ra là
**Ngụy Diên** (chữ Hán: 魏延; 177-234), tên tự là **Văn Trường** (文長), là tướng quân nhà Thục Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Hoa. Trong chiến dịch Bắc Phạt của Gia Cát Lượng
**Bắc Ngụy Tuyên Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏宣武帝; 483 – 13/1 ÂL (12/2 DL) 515), tên húy lúc sinh là **Thác Bạt Khác** (拓拔恪), sau đổi thành **Nguyên Khác** (元恪) là hoàng đế thứ tám
_Kẻ bạc gian_ (Le Tricheur), họa phẩm của [[Georges de La Tour, trưng bày tại bảo tàng Louvre, Paris]] **Ngụy biện con bạc**, hay **ngụy biện của tay cá cược**, **ngụy biện Monte Carlo** hoặc
**Chiến tranh Nam Tề-Bắc Ngụy** diễn ra vào thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Nam Tề và nhà Bắc Ngụy. Từ năm 479 đến năm 500, Nam Tề cùng Bắc Ngụy
phải|Một [[xạ thủ bắn tỉa của lực lượng Thủy quân lục chiến Mỹ]] **Ngụy trang quân sự** là việc sử dụng ngụy trang bởi một lực lượng quân sự để bảo vệ nhân sự và
**Tây Ngụy Văn Đế** (西魏文帝) (507–551), tên húy là **Nguyên Bảo Cự** (元寶炬), là một hoàng đế của triều đại Tây Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Năm 534, Nguyên Bảo Cự, khi đó là
**Ngụy Lượng** (; sinh tháng 2 năm 1953) là Thượng tướng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (_PLA_). Ông từng giữ chức Chính ủy Chiến khu Nam bộ và Chính ủy Quân khu Quảng
**Chiến dịch Trị Thiên** là một chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam do Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam thực hiện vào năm 1972. Đây là một phần trong Chiến dịch Xuân hè
**Ngụy khoa học** hay **giả khoa học** bao gồm các phát biểu, niềm tin hoặc thực hành mà tuyên bố là khoa học và dựa trên sự thật nhưng lại không tương thích với phương
**Ngụy Câu** (Trung văn giản thể: 魏驹, phồn thể: 魏駒, bính âm: Wèi Jū), tức **Ngụy Hoàn tử** (魏桓子), là vị tông chủ thứ 9 của họ Ngụy, một trong Lục khanh nước Tấn thời
**Bắc Ngụy Hiếu Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏孝武帝; 510 – 3 tháng 2, 535), tên húy là **Nguyên Tu** (元脩 hay 元修), tên tự **Hiếu Tắc** (孝則), vào một số thời điểm được gọi là
là vị Thiên hoàng thứ 122 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, trị vì từ ngày 13 tháng 2 năm 1867 tới khi qua đời. Ông được đánh giá là một
**Ngụy Trung Hiền** (chữ Hán: 魏忠賢; 1568 - 16 tháng 10 năm 1627) là một trong những đại hoạn quan nổi tiếng nhất và nhiều quyền lực nhất trong lịch sử Trung Quốc. Ông là
**Ngụy Thư** (chữ Hán: 魏舒, 209 – 290), tự **Dương Nguyên**, người huyện Phiền, quận Nhiệm Thành, quan viên cuối đời Tào Ngụy thời Tam Quốc, đầu đời Tây Tấn. ## Sự nghiệp Thư sớm
nhỏ|phải|Những tiên tri của [[Charles Taze Russell đăng trên Tạp chí _Tháp canh Si-ôn_ (_Zion's Watch Tower_) của giáo phái Chứng nhân Giê-hô-va. Văn Phẩm Tháp Canh (_The Watchtower Bible and Tract Society_) đối với
**Cuộc chính biến diễn ra trong hoàng cung nhà Bắc Ngụy năm 465** sau khi Ngụy Cao Tông Thác Bạt Tuấn qua đời, vua kế vị Thác Bạt Hoằng còn nhỏ tuổi, Xa kị đại
Trong chiến lược phát triển, Bến Tre xác định phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội nhanh và bền vững là nhiệm vụ trung tâm, đặc biệt xác định văn hóa phải
**Chính quyền địa phương** là một tổ chức hành chính có tư cách pháp nhân được hiến pháp và pháp luật công nhận sự tồn tại vì mục đích quản lý một khu vực nằm
**Cuộc khủng hoảng tài chính Nga năm 2014** là kết quả của sự suy giảm nhanh chóng giá trị của đồng rúp Nga đối với các đồng tiền khác trong năm 2014 và suy thoái